Truyện ngắn
:
Đêm trăng Tả Giàng
Chuyện này tôi được ông
gi à mù bản Nà
Cưởm kể cho nghe hồi còn ở lâm trường khai thác gỗ Trùng Khánh cách
đây gần bốn mươi năm. Tuy hỏng mắt nhưng ông già giã gạo rất giỏi.
Khi giã, ông đổ thóc trên lưng cối, hai tay nắm chắc hai chày gố
nhãn, rồi cứ đều đặn từng nhát một, cái nọ lên, cái kia xuống cho
đến lúc hạt gạo trắng phau mà không bắn ra ngoài hạt nào. Lúc còn
trai trẻ, ông là thợ săn có hạng của vùng Nà Gâm. Một lần ham đuổi
con lợn đực đã trúng thương, do mất cảnh giác, ông bị nó hất xuống
vực đập đầu vào đá, vỡ xương chỏm, mấy hôm sau thì không nhìn thấy
gì nữa. Đêm ấy, ngồi quanh bếp lửa nhà sàn, uống rượu men lá nhắm
với thịt nai khô nướng chấm muối ớt, chúng tôi nghe ông kể...
Ngày ấy, cách
đây đã lâu lắm,
không biết là rừng Khau Phầy đã bao nhiêu lần thay lá, ở Tả Khai có
phường săn do trưởng bản Hoàng Tịch cầm đầu. Hoàng Tịch có họ với
quan tri châu, giàu nhất vùng, nhiều vợ, nhiều trâu, ngựa và vô cùng
say mê săn thú dữ. Một hôm, Hoàng Tịch dẫn phường săn vào Khe Đá vây
ráp để tìm con báo vằn. Nghe dân bản đi làm nương về nói, từ nửa
tháng nay, thỉnh thoảng thấy vết chân lạ dọc triền suối Hán. Bản Nậm
Poóng mất ba con dê, còn đàn trâu của Nông Ích Định ở rừng Khoen bị
nó vả chết con đầu đàn và một nghé tám tháng tuổi. Đến tối ngày thứ
ba thì phường săn tìm được hang báo. Đó là một con báo cái, lông vằn
hoa, dáng cao lớn, giữa trán có đốm trắng giống như ngôi sao năm
cánh. Ngoài báo mẹ, trong hang còn một đôi báo con đang vờn nhau,
thấy động, chúng chui vào ngách trong cùng. Hoàng Tịch sai đám thợ
săn vần đá bịt hết các cửa, chỉ để cửa chính diện, sau đó lấy xà
beng đào. Chừng nửa giờ thì cái ngách lũ báo con trốn được khai
thông. Trưởng bản vừa lom khom bò vào thì bất ngờ bị bàn chân móng
sắc như dao cạo cào cho một vệt rách cổ, máu chảy nhoe nhoét. Điên
tiết, ông ta phóng ngọn giáo đâm chết cả hai con trước khi chúng kịp
chạy sang chỗ mẹ. Bị dồn đến đường cùng, con báo vằn chống cự quyết
liệt. Nó tát Lục A Sếnh vào thái dương, ngoạm một miếng làm vỡ xương
quai xanh Hoàng Triệu Phì cháu họ Hoàng Tịch rồi liều chết, lấy đà
phóng bừa vào giữa đám đông tua tủa giáo mác bằng một cú nhảy tuyệt
đẹp. Dưới ánh lửa bập bùng của những ngọn đuốc làm từ nứa khô đập
dập, đám thợ săn nhìn thấy mõm con báo cái tha lủng lẳng một vật gì
rất lạ. Trưởng bản thích bộ da quý hạ lệnh cho phường săn không được
làm nó bị thương mà phải bắt sống, nhờ thế con thú mới thoát hiểm.
Chỉ có điều trong lúc phi thân tháo chạy, cái vật ở mõm nó bị Hoàng
Phủng khua cán giáo chặn đường làm văng ra. Cánh thợ săn mang đuốc
xúm lại soi, thì ra đó là một đứa trẻ trần truồng gần như vừa mới
lọt lòng mẹ đang gào khóc thảm thiết bằng thứ giọng khàn khàn như
tiếng mèo con sắp hoá dại. Phường săn bàn nhau mang đứa trẻ về nuôi
nhưng trưởng bản không nghe. Ông ta bảo đó là cái ma rừng làm ra thế
để báo hại dân bản. Không ai dám trái lệnh Hoàng Tịch vì ông ta là
thủ lĩnh của mười tám bản vùng Tả Giàng, rất có thế lực, lắm mưu mô
và cực kỳ tàn nhẫn. Tuy vậy, một thợ săn nhìn cảnh đó không đành
lòng liền cởi chiếc áo đang mặc quấn cho thằng bé rồi mang đặt vào
trong hang. Trước khi cả bọn về Tả Khai, trưởng bản cắt ba người ở
lại canh chừng. Ông ta còn dặn :
- Nếu con báo quay lại,
chúng mày cứ bắn, không tiếc bộ da nữa.
Nửa
đêm về sáng, đứa trẻ
khát sữa khóc như xé vải, nghe rất là thương tâm. Bế Văn Lịch chợt
nghĩ đến bà chị họ ở bản Púa, cách Tả Khai gần nửa ngày đường, mới
đẻ đứa con chưa đầy tháng liền bàn :
-
Đứa trẻ này chắc bị
mẹ bỏ rơi trong rừng rồi được con báo vằn tha về hang cho bú chứ
chẳng phải ma quỷ gì đâu. Giờ không có cái ăn chắc nó chết mất. Hay
là... hai anh cứ chờ ở đây, tôi mang nó vượt đỉnh Pú Nhì đi tắt sang
bản Púa cho bà chị nuôi.
- Thế chị mày có sữa
không ?
- Nó cũng mới
đẻ một thằng bé.
- Vậy thì được. - Hoàng
Phủng, người chăn ngựa của nhà trưởng bản, gọi Hoàng Tịch bằng chú
nhưng xem ông ta như kẻ thù, gật đầu tán thành - Coi như chúng ta
làm một việc thiện. Nếu là người, sau này mong nó thành chàng trai
tốt, còn vạn nhất, nếu là... ma rừng nó cũng không nỡ báo oán.
Bế Văn Lịch lập tức vào
hang mang đứa bé ra, nhưng trước khi đi còn băn khoăn:
- Sáng mai không thấy
thằng bé, trưởng bản hỏi thì biết nói thế nào ?
Hoàng Phủng liếc nhìn
Nông Văn Cuổi một thoáng rồi bảo :
- Cứ bế nó chạy đi. Lão
Hoàng Tịch thường ngày rất sợ ma rừng... Mọi việc ở đây cứ để chúng
tao lo.
Bế Văn Lịch vừa đi vừa
chạy, mệt đứt hơi, gần sáng thì đến được bản Púa. Chàng thợ săn chỉ
nói nhặt được đứa trẻ bị bỏ rơi trong lúc lên nương, tuyệt nhiên
không dám hé răng kể nó đã từng được một con báo vằn hoa cho bú.
Người chị của Bế Văn Lịch là Bế Thị Nền, nhìn thấy thằng bé, thương
lắm, liền ẵm lấy cho bú ngay. Mấy ngày sau, nó được bố mẹ nuôi đặt
tên cho là Bế Hài Phạ.
Chưa đầy ba tuần trăng,
Phạ đã lớn phổng lên. Người bản Púa có tục kiêng không đến thăm nhau
khi nhà có phụ nữ mới sinh con, vì thế, ai cũng nghĩ, vợ chồng Bế
Thị Nền được trời thương cho hai đứa con trai.
Ngày tháng qua đi. Năm
Bế Hài Phạ lên bảy, một thầy mo tên là Tào Phìn lên núi Bàn Cờ tìm
cỏ linh chi ngàn năm, qua bản Púa, nhìn thấy thằng bé liền đến nhà
bảo vợ chồng Bế Thị Nền :
- Thằng bé này có tướng
lạ, ta muốn dạy cho nó nghề thuốc.
Bà chủ nhà lắc đầu :
- Học nghề thuốc thì
con tôi phải đi xa, không được đâu.
Ông thầy mo lẳng lặng
ngồi xuống sàn, nhấc chiếc điếu cày bằng ống bương to đùng như cây
cột nhà, nạp thuốc, rít một hơi thật dài, phả khói mù mịt khắp gian
bếp rồi mới thong thả nói :
- Nhà ta ở Khuổi Bạc,
cách đây bảy con dao quăng*,
có môn thuốc bí truyền. Mấy năm nay, ta đi khắp các bản xa bản gần
trong vùng Ngân Sơn mà chưa tìm được người vừa ý cho làm học trò nối
nghiệp. Nhà này có hai thằng con trai, ta chỉ xin một, chừng dăm bảy
năm thành nghiệp lại cho về, không mất đâu mà lo.
Bà Nền
liếc nhìn hai đứa, ngập ngừng một lúc rồi ướm hỏi :
- Cho
thằng anh đi được không ?
Ông thầy
lắc đầu :
- Thằng
anh để ở nhà làm nương nuôi bố mẹ, ta chọn thằng em.
- Nhà
thầy lấy gì làm tin?
- Ta có
lá bùa thiêng truyền lại từ đời ông nội, xin tạm gửi lại lại...
Sáng hôm
sau, Bế Hài Phạ vai khoác tay nải chàm, lưng đeo dao quắm theo thầy
vượt ngọn Bàn Cờ sang Khuổi Bạc.
Thực ra,
Tào Phìn là một thuật sĩ người Đại Lý nhưng tổ tiên đã lưu lạc sang
xứ Cao Bình từ mấy đời trước. Ông ta thừa hưởng được ở người cha
dòng máu thích xê dịch giang hồ, tính tình phóng khoáng, suốt đời
chỉ say mê du sơn, nhạo thủy. Hành tung của Tào Phìn có vẻ bí hiểm
như một kiếm khách. Vào tuổi ngũ tuần, dường như những năm tháng
lang thang vô định nơi quê người đã làm ông ta mỏi gối chồn chân.
Một ngày kia, nhà thuật sĩ dừng bước tại đất Khuổi Bạc, chọn dãy núi
Tà lênh dựng thảo am làm chỗ trú chân. Dãy Tà Lênh cao sừng sững,
chắn ngang giữa vùng biên ải như con rồng cuộn khúc, đầu gối lên
ngọn Thiên Phong quanh năm mây mù che phủ.
Từ lâu,
vùng Đại Lý lưu hành trong dân gian một phương thuốc bí truyền, cỏ
linh chi ngàn năm cùng với tuyết trên đỉnh Thiên Phong cao hai ngàn
bảy trăm trượng có thể chữa được tứ chứng nan y và làm cho con người
sống lâu trăm tuổi. Có điều, mấy chục năm chu du phương Nam, tiêu
phí gần cả một kiếp người, Tào Phìn chưa bao giờ nhìn thấy thứ biệt
dược từng được các danh y nói đến. Của hiếm khó tìm là chuyện đương
nhiên. Danh y Biển Thước đã chẳng lấy chữ "nhẫn" làm phương châm
hành đạo đó sao. Nhưng mà ông đã ở vào cái tuổi bên kia dốc cuộc
đời. Thời khắc còn lại trên thế gian này chắc gì được nửa gang tay.
Đã đến lúc phải truyền nghề cho thằng bé, để sau này, ông có về với
tổ tiên, nó sẽ tiếp tục sự nghiệp dở dang. Bằng cái nhìn của một nhà
tướng số, Tào Phìn biết Bế Hài Phạ không phải là một đứa trẻ bình
thường, nhất là khi phát hiện ở gáy nó còn hằn rõ những vết lõm đã
thành sẹo như vết răng thú dữ từng ngậm vào tha từ chỗ nọ đến chỗ
kia. Sự nghi hoặc làm Tào Phìn không yên lòng. Vào một năm, khi Hài
Phạ được hơn chục tuổi, ông lấy cớ đi hái thuốc, vượt mười ba ngọn
núi đá sang bản Púa. Tào Phìn lấy trong bọc ra một đôi vòng bạc đưa
cho vợ chồng Bế Thị Nền :
- Hôm
trước, ta được thần rừng báo mộng, thằng Phạ không phải là con đẻ,
nhưng nhà chị đã nuôi nó khôn lớn, thế là có công lớn lắm. Đây là số
bạc ta đem đổi lấy cái bùa.
Bà mẹ
nghe, sợ lắm, đành phải nói thật. Tào Phìn lại hỏi :
- Người
mang thằng bé đến cho vợ chồng nhà chị là ai ?
- Nó là
em họ tôi ở bản Tả Khai nhưng đã bị trưởng bản bắt đi lính cho quan
châu Hoà An.
Sáng hôm
sau, người khách Đại Lý lại vượt núi tìm về đèo Tả Giàng...
-oOo-
Năm Bế
Hài Phạ mười ba tuổi Tào Phìn bắt đầu dạy nó kiếm thuật. Thằng bé
học môn gì cũng ham nhất là cung tên và trường kiếm. Mười lăm tuổi,
Hài Phạ cao lớn như một tráng sĩ, tiếng nói sang sảng, bước đi như
gấu làm rung chuyển đất dưới chân. Mỗi khi gánh củi ở rừng về, Hài
Phạ lại xuống suối Nậm Khoang tắm. Cậu lặn ngụp, vùng vẫy dưới làn
nước trong vắt thật thoả thích rồi mới trèo lên chạc cây dẻ, ngồi
vắt vẻo thổi sáo. Một lần đang bơi dưới suối, Bế Hài Phạ nhác thấy
trên sườn núi thấp thoáng mảng da loang lổ như chiếc chăn hoa chuyển
động rất nhẹ nhàng giữa những bụi tầm ma. Một con báo vằn. Phạ thầm
nghĩ và chợt thấy gai người. Con báo nhô đầu khỏi đám lá, nghếch cặp
mắt tròn xanh như màu da trời nhìn cậu rất lâu, một lúc sau lặng lẽ
bỏ đi.
Đã chớm
vào thu. Vòm trời sâu thẳm và se lạnh. Những ngọn heo may xào xạc
lướt trên tán rừng già. Vài chiếc lá mộc hương mỏng manh, đỏ thẫm,
vừa bứt khỏi cành, bay chập chờn như những cánh bướm rồi từ từ rơi
xuống suối Nậm Khoang. Dịp ấy thầy trò Tào Phìn đi săn gà rừng. Cùng
đi với họ có chú bé Ma Thạch, người Nùng, mới được thu nhận làm tiểu
đồng hơn một năm nay. Gần trưa, khi Bế Hài Phạ đã bắn được một xâu
giẽ gà, vừa định xuống đường mòn quay về, chợt con báo vằn lại xuất
hiện như là có thần giao cách cảm. Nó nằm phục dưới lùm cây dẻ gai
gần tổ mối lớn ngay trên bờ nhánh suối cạn. Thoáng thấy con thú rình
nhất cử nhất động của mình, Phạ lạnh sống lưng. Bằng phản xạ tự vệ
quen thuộc, chàng trai mới lớn lắp mũi tên độc vào nỏ và từ từ kéo
dây. Đây là con thú dữ đã lén lút theo cậu nhiều lần, ở vào tình thế
mặt đối mặt lúc này, không hạ nó chắc chắn nó sẽ hại mình. Cánh nỏ
vừa đủ độ căng, con báo vẫn y nguyên một tư thế, không hề có chút
phản ứng. Bế Hài Phạ vừa định bật lẫy bỗng nhiên một giọng thì thầm
nhưng dứt khoát từ đâu đó vang lên :
- Không
được bắn !
Cậu giật
mình quay lại, đưa mắt nhìn quanh. Không có ai cả. Cậu bé Ma Thạch
thấp thoáng dưới gốc cây sồi mãi bên kia suối, còn rừng thì vẫn yên
tĩnh như nó vốn có. Quái lạ. Tiếng của ai vừa nghiêm khắc mà lại vừa
dịu êm như thế? Bế Hài Phạ buột miệng hỏi vào khoảng không giữa trời
và đất :
- Vì sao
không cho ta giết loài ác thú ?
Tiếng
nói vô thanh lại văng vẳng bên tai :
- Nó
cũng như con, là một sinh linh do Đấng Trời tạo ra, nếu không thật
cần thiết, chớ nên hạ sát...
Lại mấy
năm nữa trôi qua. Một hôm Tào Phìn gọi Bế Hài Phạ lên thư phòng rồi
bảo:
- Thời
hạn giao kèo đã quá lâu rồi, võ nghệ cũng tạm tinh thông, ngày mai
con phải về, ta sợ ở bản Púa có chuyện chẳng lành...
- Thưa
thầy, còn cỏ linh chi ngàn năm tuổi ?
Ông già
lắc đầu hạ giọng :
- Mãi
gần đây ta mới nhận ra, chuyện cỏ linh chi cải tử hoàn sinh chỉ là
huyễn hoặc. Thật phí cho một kiếp người toàn đi tìm những chuyện
viển vông, giờ thì đã mỏi gối chồn chân, ta muốn được nghỉ ngơi.
Thôi, con đi đi !
Nghe
vậy, Hài Phạ ứa nước mắt, giọng nghèn nghẹn :
- Thầy ở
một mình, con không yên tâm, hay là... thầy về Nguyên Bình với con.
Tào Phìn
lắc đầu bảo :
- Con đi
rồi có lẽ ta với Ma Thạch cũng tìm về Đại Lý. Ở đấy tuy không có cỏ
linh chi ngàn năm nhưng là quê hương. Ta muốn được nhìn thấy mảnh
đất cha ông đã sinh ra mình trước khi nhắm mắt.
Đúng giờ
Ngọ ba khắc, Bế Hài Phạ lạy thầy rồi khoác hành lý lên vai. Trước
khi người học trò cất bước, vị đạo sư lại bảo :
- Còn
một việc nữa, nghe thầy dặn đây. Mệnh vận con lớn nhưng nhân trung
xem ra mờ tối, nên tránh so tài cao thấp với kẻ tiểu nhân. Vạn bất
đắc dĩ phải đọ sức, con chớ nên nhường đối thủ dù chỉ một đường
kiếm.
Tính ra,
từ lúc rời bản Púa đến khi Hài Phạ quay trở về vừa chẵn mười một
năm. Vợ chồng bà Nền và người con trai là Bế Phảng đã chết trong
trận ôn dịch cuối tháng trước. Chàng trai đành sửa lại ngôi nhà cũ
của cha mẹ nuôi, tạm thời vào rừng săn bắn kiếm sống.
Nhưng
rồi tự nhiên Bế Hài Phạ nhớ rừng Tả Khai như là tiếng gọi của ký ức
truyền kiếp. Một tháng vài lần chàng về Tả Khai chặt củi mang ra chợ
Lũng Phàn. Từ bản Púa về Tả Khai đi nhanh cũng mất non nửa ngày
đường, lại phải bán củi nên không thể sớm đi tối về. Nghĩ mấy ngày,
cuối cùng, Hài Phạ quyết định phát một miếng rẫy nhỏ và dựng tạm
chiếc lều ở luôn trong rừng cho tiện. Ban ngày, Phạ làm nương, săn
bắn, lúc rảnh rỗi lấy cây sáo trúc ra thổi. Đêm đêm, tiếng sáo của
chàng dìu dặt cất lên, vang vọng khắp núi, nghe buồn lắm.
Hôm ấy,
vào lúc xế chiều, có một đoàn người ngựa từ chân dốc ngược lên. Bế
Hài Phạ nhìn thấy trưởng bản Hoàng Tịch dẫn đầu toán trai bản chừng
sáu bảy người. Đi sau cùng là một cô gái đầu đội mũ thổ cẩm tròn
thêu hoa văn quả trám, lưng mang cung tên, cưỡi con ngựa bạch nhỏ.
Bế Hài Phạ vừa định xuống suối lấy nước chợt thoáng thấy con báo vằn
đang nằm ép mình dưới đám cỏ gianh, cặp mắt xanh sắc lẹm luôn dõi
theo nhất cử nhất động của đám thợ săn. "Lại là nó". - Chàng nghĩ
thế rồi vào lều xách cây mác búp đa lặng lẽ lên rẫy. Có vẻ như con
báo đã để ý đến Bế Hài Phạ. Bằng chứng là nó khẽ ngoe nguẩy cái đuôi
dài rồi luồn qua bụi cỏ gianh mà không hề gây ra tiếng động. Đúng
vào lúc Hài Phạ vượt qua được tổ mối mọc lởm chởm toàn cỏ răng mèo
thì phía trước có tiếng kêu thất thanh. Trưởng bản Hoàng Tịch bị con
báo bất ngờ chồm ngang vồ vào đầu gối bóc đi một mảng thịt làm ông
ta ngã ngựa, gẫy gần hết xương sườn bên phải. Con ngựa bạch phía sau
sợ quá, chồm lên, bốc nước đại hất cô gái xuống sườn dốc nằm bất
tỉnh. Con thú dữ, sau cú táp trưởng bản, tạm thời bỏ nạn nhân, đuổi
theo cô gái. Chỉ với vài bước nhảy, nó đã ở sườn dốc. Tính mạng
người con gái lúc này như ngàn cân treo sợi tóc. Chỉ cần một cái vả
nhẹ của con mãnh thú là số phận người đẹp được định đoạt. Trong
khoảnh khắc, Bế Hài Phạ tay nắm chắc ngọn mác, hai chân xuống tấn,
mắt nhìn xoáy vào con báo. Hai bên canh chừng nhau một lúc khá lâu,
bỗng nhiên con vật ngoe nguẩy đuôi, lùi dần rồi quay đầu lững thững
vào rừng. Chàng trai bế cô gái xinh đẹp vào lều. Cũng may, cô ta
không bị thương, chỉ xây xát qua loa. Và cũng đến lúc ấy Bế Hài Phạ
mới biết, cô ta là Nàng Quện, con gái trưởng bản.
Mùa xuân
năm sau, Bế Hài Phạ về Tả Khai chơi tết. Hội xuân năm ấy vui lắm.
Con trai con gái từ khắp các bản đổ về chen vai thích cánh nhau dưới
chợ Lũng Phàn. Mười tám bản của tổng Nam Lĩnh sắp tổ chức đấu võ,
bắn cung nỏ và ném lao. Đây là tục lệ truyền thống của cả vùng từ
nhiều đời nay. Sau hội thi, dân bản chọn được người tài còn các cô
gái sẽ có cơ hội kiếm được tấm chồng xứng đáng.
Từ ngày
được Bế Hài Phạ cứu, Nàng Quện đâm ra phải lòng chàng tiều phu.
Thỉnh thoảng nàng lại hẹn Phạ ra đèo Tả Giàng thổi sáo cho nghe.
Tiếng sáo của Hài Phạ lúc này không còn sầu thảm như xưa mà nó véo
von như khúc xuân tình của lũ sơn ca. Ngày tháng thoi đưa, mùa xuân
này đôi trai gái đã quyến luyến nhau như hình với bóng. Có bận Nàng
Quện còn đánh liều vào rừng tìm người yêu. Trước tết, Bế Hài Phạ cả
gan dám về Tả Khai đến nhà trưởng bản xin cưới con gái ông ta làm
vợ. Thấy chàng không cha mẹ, không rõ nguồn gốc xuất thân lại chẳng
có người mai mối, trưởng bản ghét lắm, bảo :
- Con
Quện có ưng mày không ?
Chàng
tiều phu gãi tai, giọng lí nhí :
- Dạ
thưa... có.
Trưởng
bản hắng giọng :
- Từ giờ
đến tết không tính. Ngày mười lăm tháng giêng, mày ra bãi cỏ dưới
chân đèo Tả Giàng thi bắn tên và đánh kiếm với lũ trai bản. Đứa nào
giành giải nhất, tao gả con gái cho. Dám không ?
Bế hài
Phạ xem ra không vui nhưng vẫn miễn cưỡng gật đầu :
- Thế
cũng được...
Ở trong
buồng, nghe cha nói lạnh như nước suối Nậm Ngà ngày đông giá, Nàng
Quện sợ lắm. Biết là chuyện tình duyên trắc trở, tối hôm ấy nàng
cưỡi ngựa ra chân đèo tìm Phạ trách :
- Từ
trước đến giờ chàng chỉ giỏi chặt củi với thổi sáo chứ biết gì nghề
kiếm cung mà nhận lời dự hội võ. Chàng nhận lời là mất em đấy. Em
bàn thế này, khi nào cha nguôi giận, chúng ta sẽ về quỳ xuống sàn gỗ
ba ngày ba đêm, may ra ông ấy nghĩ lại.
- Không
được ! - Chàng Phạ lắc đầu bảo - Con trai bản Púa không nói hai lời.
Hơn nữa, đây lại là cuộc tỷ thí để giành được chiếc vòng bạc của
người con gái xinh đẹp nên mọi người đều phải bình đẳng.
Nàng
Quện thở dài, mắt đã có ngấn nước, cố thuyết phục người tình :
- Đành
rằng thế nhưng là với những người được tập luyện chút ít võ nghệ
kia. Hãy nghe em. Đêm nay chúng mình về bản Púa rồi tạm lánh sang
Trùng Khánh một thời gian.
Bế Hài
Phạ vẫn một mực lắc đầu :
- Anh đã
nói rồi, nếu có đi cũng phải sau ngày rằm tháng giêng.
Nàng
Quện buồn, bỏ về nhà, suốt ngày ủ rũ như người ốm lửng.
Biết
chuyện Bế hài Phạ đến xin làm con rể, Hoàng Khún, vốn là người Nùng,
được Hoàng Tịch nhận làm con trai, hơn Nàng Quện năm tuổi, tức lắm
bảo với ông trưởng bản :
- Đáng
lẽ phải tống cái thằng không cha không mẹ ấy ra khỏi nhà thì cha lại
chấp nhận cho nó dự hội võ, con thật không hiểu.
Hoàng
Tịch nghiêm giọng :
- Nó đã
có ơn cứu con Quện nhà mình, ta không nỡ từ chối, vì thế mới ra điều
kiện để dân bản khỏi chê mình hẹp bụng. Cha dám chắc nó chẳng biết
võ vẽ gì đâu. Chỉ cần giao đấu với một tay thợ săn hạng bét thằng
Phạ cũng bị loại khỏi cuộc chơi ngay từ ngày đầu tiên. Như thế có
phải là một mũi tên trúng hai đích không ?
Nghe
hoàng Tịch tính toán Hoàng Khún thấy cũng thấy phải nhưng trong bụng
vẫn còn hậm hực. Anh ta lẩm bẩm :
- Không
may mà đấu với con, thằng Phạ sẽ nhận được mũi kiếm vào tim.
-oOo-
Hội thi
bắt đầu vào giữa giờ Thìn. Bốn mươi tám chàng trai từ khắp nơi trong
vùng lần lượt giao đấu theo thể thức vòng tròn. Trưởng bản Hoàng
Tịch bị báo vồ gẫy chân, vết thương đã khỏi nhưng bị thọt, ngồi ghế
chủ khảo. Qua rằm tháng giêng, các vị bô lão trong hội đồng trọng
tài chọn ra được mười sáu đấu sĩ cho ngày hôm sau. Đến trưa mười
sáu, số lượng các anh tài còn chín. Và buổi chiều, khi hồi chiêng
báo hết giờ vang lên, thì những chàng trai trụ lại được cho ngày
tiếp theo chỉ còn bốn. Ngồi trên đỉnh đèo, lòng Nàng Quện nóng như
lửa đốt vì Bế hài Phạ vẫn chưa vào cuộc. Nàng mong chàng đổi ý để
tránh một trận thất bại thảm hại, thậm chí còn nguy hiểm đến tính
mạng hoặc trở thành phế nhân suốt những tháng năm còn lại.
Cuối giờ
Thân ngày mười bảy, những chàng trai võ nghệ cao cường của mười tám
bản vùng Nam Lĩnh còn lại lần lượt bị một tráng sĩ mặc áo chàm tua
đỏ cưỡi con ngựa ô cao lớn đánh bại. Người đó chính là Hoàng Khún,
nghĩa tử của Hoàng Tịch, nổi tiếng nhiều năm giật giải quán quân hội
võ Tả Giàng. Giữa lúc nhà vô địch lỏng tay cương cho ngựa phi nước
kiệu lên lễ đài thì một dũng sĩ cưỡi con ngựa hồng bờm trắng phóng
ra chặn ngang đường quát to :
- Khoan
đã, hội võ chưa kết thúc.
Hoàng
Khún đánh mắt nhìn thấy Bế Hài Phạ liền cười khẩy :
- Mày
thích làm cái ma về với ông bà ông vải phải không ?
- Ta
muốn giao đấu với ngươi theo đúng luật lệ của hội võ. - Bế Hài Phạ
dõng dạc nói - Và tất nhiên là không thích chết.
Bị chọc
tức, Hoàng Khún cáu lắm. Một anh chàng vô danh tiểu tốt, chuyên bán
củi kiếm gạo, sống lang thang như con cầy con cáo trong rừng, thế mà
bỗng chốc lại cầm vũ khí thượng đài, thở ra toàn giọng nhạo đời, thử
hỏi hắn chịu làm sao được ? Thế là, vượt lên trên mọi khinh miệt
đẳng cấp do lòng tự ái bị tổn thương, con nuôi vị trưởng bản đáng
kính chấp nhận cuộc thách đấu.
Đầu tiên
là bắn cung. Hoàng Khún phi ngựa từ xa, vòng đi vòng lại hai ba lần
rồi mới ghìm cương, giương cung bắn rất nhanh, mười phát trúng tám.
Tưởng đã là vô địch thiên hạ nhưng Bế Hài Phạ lại có cách bắn lạ đời
hơn. Chàng phi ngựa ngược chiều với đích, quá cự ly quy định chừng
năm chục sải mới đột ngột quay lại bật dây cung mà mười phát đều
trúng cả mười. Đến mục đấu kiếm, Hoàng Khún toàn sử dụng những thế
bí truyền, độc chiêu của dòng họ Hoàng từ nhiều đời trước, nhằm áp
đảo, hạ gục đối phương ngay từ những hiệp đầu tiên. Nhìn vào con mắt
đầy sát khí của Hoàng Khún, Bế Hài Phạ quyết định dùng nhu đạo mà
thầy Tào Phìn đã truyền cho để khắc chế mũi kiếm đang vùn vụt như
con rắn lửa chỉ chờ mình sảy chân là hạ thủ. Chàng ba lần thay đổi
thế công, sử dụng một thứ kiếm pháp mềm như lụa, tĩnh như nước giếng
khơi, động như gió cuốn mây bay, lúc hư lúc thực, biến hoá khôn
lường, làm cả ba lần kiếm của Hoàng Khún đều tuột tay văng xuống
đất.
Chiều
hôm ấy, Bế Hài Phạ phi ngựa mang phần thưởng đến nhà trưởng bản
Hoàng Tịch, quỳ xuống nói :
- Thưa
bố, hôm nay con đem lễ vật đến xin làm rể gia đình ta.
Hoàng
Tịch không ngờ sự việc lại diễn ra như vậy, trong bụng không thích
tí nào vì Hài Phạ nghèo rớt mồng tơi, chẳng có của nả gì ngoài con
dao phát rừng với cây sáo trúc. Nhưng cũng không thể muối mặt nuốt
lời ngay, nghĩ vậy, ông ta dùng kế hoãn binh :
- Đây là
việc lớn có liên quan đến cả đời con Quện. Anh hãy tạm về, đợi ngày
một ngày hai, ta bàn với mọi người trong bản đã.
Bế Hài
Phạ nặng nề bước xuống cầu thang nhà sàn, ra đến cổng gặp Hoàng Khún
từ ngoài rừng dắt ngựa vào. Thấy chàng, Hoàng Khún cười nhạt :
- Hãy về
mang mười ba con trâu đực làm lễ vật, ta sẽ gả em gái cho.
Ba ngày
sau, vào lúc nhập nhoạng tối, Hài Phạ phi ngựa từ trong rừng ra, đến
đỉnh đèo Tả Giàng, thả cho ngựa ăn cỏ rồi ngồi xuống tảng đá lấy sáo
ra thổi. Tiếng sáo ngân dài một điệu buồn ai oán loang khắp triền
núi đá làm Nàng Quện không nén lòng được liền xuống chân cầu thang
nhảy lên con ngựa trắng phóng đi. Chạy được chừng nửa dặm, con ngựa
đột nhiên khựng lại, dỏng tai nghe một lúc rồi hí lên một tiếng.
Cùng lúc, tiếng sáo đang dìu dặt chợt nấc lên rồi lịm tắt...
Khi Nàng
Quện lên đến nơi thì trước mắt hiện ra cảnh tượng kinh hoàng. Bế Hài
Phạ nằm úp mặt xuống tảng đá, giữa gáy cắm một mũi tên có đuôi bằng
lông chim nhạn. Nàng sững người, xuýt nữa thì ngất. Phải đến già nửa
khắc nàng mới có đủ can đảm rút mũi tên ra. Đó là mũi tên tẩm độc
dài hơn bốn tấc.
Bản Tả
Khai làm lễ chôn cất Hài Phạ ngay nơi chàng bị kẻ thù sát hại. Qua
vài ngày, những người đi chợ sớm thấy chung quanh ngôi mộ mới có
nhiều vết chân thú. Vốn là một thợ săn giầu kinh nghiệm, Hoàng Tịch
chỉ thoáng nhìn đã biết ngay đó là vết chân báo.
Từ khi
Bế Hài Phạ chết, bụng dạ Hoàng Khún lúc nào cũng bồn chồn như có
lửa, nóng không chịu được. Suốt ngày chàng ta uống rượu say khướt
rồi nhảy lên con ngựa ô phi như hoá rồ lên đèo Tả Giàng. Một đêm,
lúc ấy đã khưa lắm, người nhà trưởng bản thấy con ngựa về mà không
có chủ liền báo cho Hoàng Tịch. Ông ta vội sai thắp đuốc dẫn mấy thợ
săn lên đèo thì đã thấy xác con nuôi nằm co quắp bên lèn đá, một
mảng đầu vỡ toác bởi hàm răng nhọn của loài dã thú. Như có linh cảm
mách bảo, Hoàng Tịch chống nạng bước thêm mấy bước tuột xuống bên
kia dốc.Và ông trưởng bản chợt lặng người bởi hiện tượng quái lạ có
một không hai trên đời bày ra trong ánh lửa chập chờn. Con báo vằn
tuyệt đẹp, oai phong như một vị chúa sơn lâm, chính ông và nó đã
từng săn đuổi nhau bao nhiêu năm nay, giờ nằm phủ phục bên mộ Bế hài
Phạ. Nó chết mà trên bộ lông rực rỡ như hoa như gấm không hề dính
một vết thương.
Những
ngày sau đó, cả bản không thấy nàng Quện đâu. Trưởng bản cử mấy tay
chân thân tín đi tìm khắp nơi nhưng đều bặt vô âm tín. Sau này có
người bảo, nàng cưỡi ngựa vào rừng ăn lá ngón rồi chết trong lều của
Bế Hài Phạ, xác bị thú dữ tha đi. Có người lại bảo, nàng cầm cây sáo
của người yêu để lại, rẽ cây vạch lối đến hồ Thăng Hen. Nước hồ
Thăng Hen trong vắt màu lục ngọc, có thể nhìn thấy cả những con cá
mạy vảy vàng lấp lánh dưới đáy. Nàng ngồi trên bờ lấy sáo ra thổi,
thổi mãi cho đến một ngày kia hoá đá...
Từ độ
ấy, những đêm trăng, lữ khách qua đèo Tả Giàng đều có cảm giác rờn
rợn bởi những tảng mây hình thù kỳ dị bị gió ngàn đánh tướp ra như
bông xơ, bạc phếch, mệt mỏi trôi trên vòm trời tai tái cùng cảnh cô
tịch của miền sơn cước và truyền thuyết về câu chuyện tình dang dở
của đôi trai tài gái sắc. Chỉ những bông cúc dại mọc lưa thưa bên
vách đá là vàng rực như đang tự đốt mình cháy lên. Hàng năm, cứ vào
dịp đầu xuân, đêm đêm các bản quanh vùng thỉnh thoảng vẫn nghe tiếng
sáo văng vẳng từ lưng đèo vọng về.
Chí Linh, ngày lành,
xuân Tân Tỵ
./.
|
|
bút
việt
hồn
quê
Sinh ngày
16 tháng 01 năm 1948 tại thôn An Đông, xã An Bình, huyện Nam Sách,
tỉnh Hải Dương. Tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Nguyên là giáo viên giảng dạy môn ngữ văn phổ thông trung học. Hiện
là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, trưởng ban Văn Hội Văn học nghệ
thuật Hải Dương.
Tác phẩm
đã xuất bản
Tập truyện
:
Khúc Trương Chi
Nước mắt của biển
Ảo ảnh
Đêm trăng Tả Giàng
Rừng Ken Chải
Tiểu
thuyết:
Người đàn bà trong lửa
Ga tàu
Hoa mận dại
Thanh kiếm Phù Tang
Ký ức làng Cùa
(chưa
xuất bản)
Địa chỉ :
Khu dân cư 3, thị trấn BếnTắm, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương
Điện thoại
: 0320887031
DĐ : 0982480820
Email :
dangvansinh1948@yahoo.com.vn
|
|