Đọc "Giấc mơ Trường Sơn"
thi phẩm của Tuệ Sĩ
Người ở lại giữa lòng tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng bóng tà dương !
(Giấc Mơ Trường Sơn)
Ðây là chân dung Thượng tọa Tuệ Sỹ, thế danh Phạm Văn Thương,
sinh năm 1943, xuất gia tiểu đồng khi còn cư ngụ bên Lào. Thầy
là một trí thức Phật giáo mà tâm thức và hành sử luôn hướng về
dân tộc và đạo pháp. Trước năm 1975, Thầy là Khoa trưởng Phật
học viện đại học Vạn Hạnh, tác giả nhiều cuốn sách biên khảo đặc
sắc về văn học, triết học Trung Hoa, thơ Tô Ðông Pha, một số
thơ, truyện và thơ dịch, đã đăng liên tiếp trên nhiều tạp chí
văn học tại Sài gòn.
Tháng 3-1999, Hòa thượng Huyền Quang đã gặp Hòa thượng Quảng Ðộ
và đề bạt Thượng tọa Tuệ Sỹ làm Tổng thư ký Viện Hóa Ðạo, thuộc
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Hai câu thơ trong bài Tôi Vẫn Ðợi là hình ảnh bi tráng của một
thực tại nghiệt ngã, ví như một cọng lau gầy, nhưng không gảy đổ
trước gió dông bão loạn, vẫn đứng sừng sững với thiên thu. Với
tấm lòng yêu quê cha đất tổ, nên người quyết chí ở lại với quê
hương cho dù phải ở lại giữa lòng tay bạo chúa !
Ðây có thể là tâm sự chung của cả một thế hệ đồng cảnh ngộ, đang
sống trên quê hương nhưng đã phải ly thân, lạc loài. Mang một
tâm trạng xót xa cho vận nước nổi trôi; đang ôm ấp một hoài bảo
xoay chiều thế cuộc. Cuộc sống đang nằm trong một thực tại rối
rắm và hoang mang, mọi lối thoát nằm ngoài, cách ly với chủ thể
hiện thời nên tư tưởng đành bay ngoài "viễn mộng"... !
Vị
Thiền sư với cuộc sống khổ hạnh, nhưng lại đa mang một tâm hồn
thi sĩ, nên thơ nở trên hai bình diện trí tuệ thâm diệu của bậc
đại hạnh, và một tấm lòng từ bi thơ mộng của nhân sinh.
Thi nhân sinh trưởng trên dãy Trường sơn của đất Thượng Lào,
trong một giai đoạn (tạm gọi) là thanh bình. Nơi chốn núi rừng
ấy đã hiến dâng cho người những nguồn sống tươi mát và đẹp nhất;
đã ghi lại trong lòng những thiết tha, yêu mến quê hương muôn
đời. Nhưng trong sự chuyển hóa của vô thường, cuộc đời vẫn ẩn
dấu những chuyển biến của tan hợp, chia xa:
Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang ...
Hai câu thơ đầu của một tuyệt tác, có tựa là "Không Ðề" (sau in
vào thi tập đổi lại tựa "Khung Trời Cũ") một bài thơ mà cố thi
sĩ Bùi Giáng đã nhận xét: "Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm
lấp hết chân trời mới cũ từ Ðường thi Trung Hoa tới Siêu thực
Tây Phương." (trích Ði Vào Cõi Thơ của Bùi Giáng, viết về
Thầy Tuệ Sỹ).
Tâm
cảnh ấy đẹp biết bao, vì đã chan chứa một thời hoa mộng. Nơi
chốn bao dung cho những tấm lòng chân nguyên; đã chở che cho lứa
tuổi chưa hề biết đến hệ lụy của cuộc đời. Vì thế mà Người thấy
mến yêu như chưa bao giờ... Lòng yêu mến quê hương và những kỷ
niệm tuổi thơ đã trải dài “từ núi lạnh đến biển xanh muôn thuở“,
còn mãi ghi khắc như những “hạt muối đó chưa tan“. Ðể biến thành
một chí khí kiên cường trước tất cả những sức mạnh của bạo lực.
Nên Người đã thể hiện tinh thần vô úy với hùng khí chất ngất, đã
sống ngạo nghễ giữa lòng dân tộc. Khi thấy vận nước thăng trầm
thì người cũng dấn thân vào con đường của kẻ sĩ. Cất cao tinh
thần bất khuất, để mong sao cho đất nước được thoát khỏi vòng
trầm luân khổ nạn. Ðứng trước cảnh đất nước suy vong ấy, người
cũng đã một lần "cởi áo cà sa khoác chiến bào". Chiến bào ở đây
là sử dụng trí tuệ và lòng từ bi của đấng Như Lai, mong xoay vận
nước thăng trầm trở lại thăng bình. Nhưng bạo quyền không thấy
được, nên đã giáng xuống người những bản án bất nhân! (năm 1979
đến năm 1981, người bị bạo quyền Cộng sản nhốt tù. Rồi đến năm
1984 bị bắt lại, sau đó bị ra tòa với bản án tử hình). Ðược các
tổ chức của thế giới như Ủy Ban Nhân Quyền, Văn Bút Quốc Tế...
can thiệp, nên án được giảm xuống 20 năm cấm cố! đến 02 tháng 9
năm 1998, Thầy được trả tự do sau 14 năm khổ sai !
Thầy Tuệ Sỹ không những là một lãnh tụ Phật giáo Việt Nam khả
kính, một học giả uyên bác về triết học Ðông Tây, về Phật giáo
Nguyên thủy và Ðại thừa, Thầy còn mang một tâm hồn nghệ sĩ trong
thế giới thi ca âm nhạc: làm thơ, thổi sáo, đánh dương cầm và vĩ
cầm...
Thầy Tuệ Sỹ làm thơ rất nhiều, nhưng chỉ lưu lại với bản thảo mà
thôi. Sau nầy Ni cô Tuệ Hạnh thu nhặt lại một số thơ của Thầy in
thành thi tập "Ngục Trung Mị Ngữ" do Quảng Hương Tùng Thư xuất
bản. Với thi tập nầy, thơ Thầy làm hầu hết là thơ bằng chữ Hán.
Cảm động nhất là bài thơ Cúng Dường:
Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn.
Thượng Tọa Viên Lý dịch như sau:
Hai tay nâng chén cơm tù
Dâng lên từ phụ bậc thầy nhân thiên
Thế gian huyết hận triền miên
Bưng bình cơm độn lặng yên lệ trào.
Ðến thi tập "Giấc Mơ Trường Sơn", (nhà xuất bản An Tiêm, San
Jose, California, 2002.) cũng góp nhặt như thế. Thi tập nầy được
kết hợp bởi các tập thơ mỏng của bản thảo như :
- Phương Trời Viễn Mộng gồm có 9 bài thơ
- Giấc Mơ Trường Sơn gồm có 29 bài thơ
- Tĩnh Tọa gồm có 9 bài thơ
- Tĩnh Thất gồm có 32 bài thơ
Tuy nhiên, trong các tập Tĩnh Tọa và Tĩnh Thất, với một tựa đề
nhưng gồm nhiều bài thơ được đánh dấu 1-2-3... như "Trúc và
Nhện" lại có đến 5 bài thơ.
Hai tập đầu (Phương Trời Viễn Mộng làm trước năm 1975, và Giấc
Mơ Trường Sơn, làm từ 1975 đến 80) thuộc loại thơ diễn tả những
suy tư về thân phận con người, về cảnh vô thường của tạo hóa, về
vận nước thăng trầm, về lòng ái quốc và tinh thần dấn thân của
kẻ sĩ...
Còn hai tập sau (Tĩnh Tọa, làm từ 1983 đến 2000, và Tĩnh Thất,
làm từ 2000 đến 2001) phần lớn là những bài thơ rất cô đọng,
được sử dụng ngôn ngữ siêu thực hòa với ngôn ngữ cổ phong hiện
thực, tạo thành những hình ảnh kỳ ảo riêng tây. Mà bóng dáng của
những hình ảnh ấy ảo hóa đến vô cùng. Chúng ta hãy thưởng thức
các thể thơ:
1. Thể thơ như loại thơ Heiku của Nhật: Bài số 7 (trong Tĩnh
Thất)
Trời cuối thu se lạnh
Chó giỡn nắng bên hè
Nắng chợt tắt
Buồn lê thê.
2. Thể thơ Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt: Buổi Sáng Tập Viết Chữ Thảo.
Sương mai lịm khói trà
Gió lạnh vuốt tờ hoa
Nhè nhẹ tay nâng bút
Nghe lòng rộn âm ba.
Sài gòn 80
3. Thể thơ Lục Bát: Phố Trưa. (toàn bài)
Phố trưa nắng đỏ cờ hồng
Người yêu cát bụi đời không tự tình
Sầu trên thế kỷ điêu
linh
Giấc mơ hoang đảo thu hình tịch liêu
Hận thù sôi giữa ráng chiều
Sông tràn núi lỡ nước triều mênh mông
Khói mù lấp kín trời đông
Trời ơi, tóc trắng rũ lòng quê cha
Con đi xào xạc tiếng gà
Ðêm đêm trông bóng thiên hà buồn tênh
Ðời không cát bụi chung tình
Người yêu cát bụi quê mình là đâu ?
N.Tr 4-1975
4. Thể thơ Tự Do: Bài Ca Cuối Cùng. (toàn bài)
Chim trời xếp cánh
Hát vu vơ mấy tiếng trong lòng;
Nhớ mãi rừng cây thăm thẳm
Ủ tâm tư cho hạt thóc cay nồng
Rát bổng với nỗi hờn khổ nhục
Nó nhịn ăn
Rồi chết gục.
Tôi đã hát những bài ca phố chợ:
Người ăn mày kêu lịch sử đi lui;
Chàng tuổi trẻ cụt chân từ chiến địa
Vỗ lề đường đoán mộng tương lai.
Lộng lẫy chiếc lồng son
Hạt thóc căng nỗi hờn
Giữa tường cao bóng mát
Âm u lời ca khổ nhục
Nó nhịn ăn
Và chết.
Tôi đã hát bài ca của suối:
Gã anh hùng bẻ vụn mặt trời,
Gọi quỷ sứ từ âm ty kéo dậy,
Ngập rừng xanh lấp lánh ma trơi.
Ðêm qua chiêm bao ta thấy máu
Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
Bà mẹ xoi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời
Lồng son hạt cơm trắng
Cánh nhỏ run uất hận
Tiếng hát lịm tắt dần
Nó đi về vô tận.
5. Thể thơ 8 Chữ: Tôi Vẫn Ðợi. (toàn bài)
Tôi vẫn đợi những đêm dài khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù, tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe
miệng rưng rưng
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sống vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại giữa lòng tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai, như ánh chớp, mây chiều.
(trích Giấc Mơ Trường Sơn)
Những bài thơ trích dẫn trên đây, chỉ với mục đích giới thiệu
các "thể, loại thơ" mà thôi. Cũng như hai bài thơ "Bài ca Cuối
Cùng" và "Tôi Vẫn Ðợi" cả hai chưa phải là những bài thơ đẹp
nhất, tuyệt tác nhất của thi phẩm. Nhưng theo chủ quan, thì hai
bài thơ nầy đại biểu cho hành trạng dấn thân cứu nước của Thầy.
Nói lên tấm lòng mến yêu dân tộc và đạo pháp trên tất cả. Thơ
diễn tả cô đọng lại một giai đoạn lịch sử nuớc nhà. Chỉ qua một
vài đường nét... Có thể hiểu là những bài thơ "ngụ ngôn" cũng
được; hay có thể hiểu là thơ hiện thực cũng không sao. Vì hình
ảnh phác họa ấy, sau năm 1975 chúng ta ai cũng đã biết. Hơn hai
mươi triệu đồng bào miền Nam, trong tháng Tư năm ấy cũng như:
"Chim trời xếp cánh. Hát vu vơ mấy tiếng trong lồng". Chiếc lồng
(dù là lồng son) cũng là chốn tù ngục của loài chim, cho nên vẫn
nhớ đến bầu trời bao la, nhớ mãi rừng cây thăm thẳm... thì chẳng
khác gì dân chúng tại thành phố Sài gòn (nói riêng) và toàn thể
cả miền Nam Việt Nam cũng đã hát như chim:
Tôi đã hát những bài ca phố chợ:
Người ăn mày kêu lịch sử đi lui;
Chàng tuổi trẻ cụt chân từ chiến địa
Vỗ lề đường đoán mộng tương lai.
(Bài Ca Cuối Cùng)
Thế cho nên “Tôi Vẫn Đợi” đã mở ra một sinh lộ mới cho tương lai
Việt Nam. Vì hiện tại quê hương vừa tan tác và điêu tàn, thảm
cảnh chiến tranh tuy đã chấm dứt, nhưng hận thù thì vẫn còn tiếp
diễn. Câu thứ hai của đoạn thơ trên, phải chăng là nỗi khủng
hoảng tột cùng của biến chuyển tháng tư đen? Nên người ăn mày
cũng đang thảng thốt kêu gọi lịch sử hãy đi lui? để được thấy
cảnh "thanh bình" trong "tao loạn", để được thấy lại cái dỉ vãng
tuy không như ý, nhưng cũng còn được chút hơi thở tự do !
Sau 35 năm qua đi, nhưng cảnh ấy bây giờ ở Sài gòn có còn không
nhỉ? Hay mỗi ngày tình cảnh còn bi đát thêm hơn, khi nỗi tuyệt
vọng vẫn kéo dài mãi ra. Khiến cho niềm chờ cứ vẫn ngày thêm
khắc khoải ?
Hay vẫn còn cảnh:
Ðêm qua chiêm bao ta thấy máu
Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
Bà mẹ xoi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời.
(Bài Ca Cuối Cùng)
Thi phẩm “Giấc Mơ Trường Sơn” hầu hết là thơ Thầy làm ở trong
tù, cho nên giá trị văn học có thể bị giới hạn. Tâm đạo có thể
bị lung lay, bởi hoàn cảnh thời thế bắt buộc một “Thiền Sư phải
nỗi loạn” !Tuy nhiên, nếu nghĩ rằng sự hy sinh “tâm tịnh” của
một bậc tu hành, để đem đến ích quốc lợi dân thì những bài thơ
nầy đã nói lên tất cả tinh thần muốn vinh danh, những gì muốn
suy tôn. Và vì thế mà tấm lòng của Thầy vẫn luôn sắt son với sự
hy sinh cho một chí hướng đã chọn.
Như bài thơ Tôi Vẫn Ðợi, đã thể hiện lòng son sắt với lý tưởng,
ý chí quyết tâm của con đường Thầy đã và đang đi cho tương lai
của dân tộc Việt Nam:
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài
thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha.
(Tôi Vẫn Ðợi)
Lịch sử chiến tranh Việt Nam đã trải dài, xương đã chất thành
núi, máu đã chảy thành sông. Trong đó Phật giáo đã đóng góp rất
nhiều công sức, kể cả máu xương để chống lại ngoại xâm bảo toàn
đất tổ, thế mà Phật giáo chẳng được một phần thưởng nào cả. Trái
lại còn bị chính quyền Cộng sản ngược đãi, đàn áp và tận diệt !
Phía các nước theo chủa nghĩa Tư bản thì chụp mủ cho Phật giáo
là phản chiến, là Cộng sản !
Nhưng có mấy ai biết đến lập trường của của Phật giáo Việt Nam
trước sau như một: Phật giáo là đạo Từ bi và Trí tuệ, yêu chuộng
hòa bình. Nên Phật giáo không bao giờ chạy theo một chủ nghĩa
thế gian nào. Phật giáo chỉ mong muốn có một nước Việt Nam được
Độc lập, Tự do, Dân chủ và tôn trọng mọi giá trị của con người.
Vì thế mà Phật giáo bị các thế lực cả hai phía vu khống, và Thầy
Tuệ Sỹ cũng không ngoài tình trạng nầy !
Ðến bây giờ sau 35 năm chấm dứt chiến tranh, nhưng vết thương cũ
chẵng những chưa lành hẳn, mà còn tạo nên vết thương mới, bởi
hận thù phân hóa. Gần đây, chính quyền Cộng sản đã phải thú
nhận: "Buổi đầu có thiếu sót, có nhiều sai trái..." Như
vậy, công cuộc đấu tranh của Phật giáo đã có chính nghĩa. Và,
trong suốt thời gian bị đàn áp, Phật giáo chỉ đấu tranh trong
thầm lặng (bất bạo động), chỉ dùng lời ái ngữ để kêu gọi sự quan
tâm của nhà nước. Nhờ vậy mà được sự ủng hộ của thế giới.
"Tôi Vẫn Ðợi", phải chăng là đợi một ngày vết thương cũ được hàn
gắn, hay đợi một ngày mà giang san gấm vóc của dân tộc Việt
không còn sâu mọt đục khoét, người người không còn phân ly, được
sống trong cảnh độc lập, tự do và hạnh phúc ?
Và, một trong những người chờ đợi ấy là Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ,
vị tu sĩ có đầy đủ khả năng và đức hạnh để đại diện cho Phật
giáo và dân tộc Việt Nam, với thành tích của một người tù lương
tâm, với bản án tử hình năm 1988 và trên 14 năm ngục tù lao
lung...!
Nên vẫn sẵn sàng:
.....................
Người ở lại giữa lòng tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng bóng tà dương !
|