Bông hồng hiếu hạnh
đua nở trong vườn tâm của mẹ
Kỷ niệm
khóa tu học dành cho người Việt và
lễ Bông Hồng Cài Áo nhân ngày Vu Lan
Báo Hiếu tại
Viện Phật Học Ứng Dụng Âu Châu ở Waldbröl
ngày
26- 5- 2012.
***
Nhân
dịp tổ chức khóa tu học hàng năm dành cho người Việt, Viện Phật
Học kết hợp tổ chức một buổi lễ Bông Hồng Cài Áo và văn nghệ
mừng ngày Vu Lan Báo Hiếu. Thật ra thì khóa tu học dành cho
người Việt vào tháng 9 mỗi năm, nhưng năm nay có hai sự kiện đặc
biệt: Một là tổ chức kỷ niệm 30 năm Làng Mai, và hai là tổ chức
kỷ niệm 4 năm Viện Phật Học Ứng Dụng Âu Châu tại Waldbröl được
thành lập. Nên khóa tu học được tổ chức vào tuần lễ cuối tháng 5
năm nay, do đó nên lễ Vu Lan cũng được tổ chức sớm hơn thường
lệ.
Thư mời dự lễ Bông Hồng Cài Áo và chương trình văn nghệ.
vào thứ bảy ngày 26- 05- 2012 tại Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu
Kính thưa quý cô bác, quý anh chị và các bạn!
Là người Việt Nam, dù ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, chúng ta
đều nhớ về cội nguồn, đều muốn giữ gìn những nét đẹp truyền
thống dân tộc Việt Nam. Lễ Bông Hồng Cài Áo, là một truyền thống
văn hóa đẹp của người Việt, đây là ngày để chúng ta tưởng nhớ
đến công ơn cha mẹ, và thể hiện lòng thương kính của những người
con đến với bậc sinh thành, giúp tạo dựng nền đạo đức gia đình,
giúp cho con em chúng ta hiểu biết thêm truyền thống dân tộc
Việt Nam.
Để lưu giữ nét thuần phong mỹ tục này, quí thầy quí sư cô tại
Viện Phật Học kính mời quí cô bác, quý anh chị và các bạn đến
tham dự Lễ Bông Hồng Cài Áo
và chương trình văn nghệ vào ngày thứ bảy ngày 26- 05- 2012 tại
Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu.
Một ngày thực tập chánh niệm mang lại bình an hạnh phúc cho
chính mình và những người xung quanh là một món quà quí giá,
thiết thực để dâng tặng lên cha mẹ của chúng ta. Kính mong quý
cô bác anh chị và các bạn tham gia để góp thêm năng lượng bình
an, và bảo tồn bản sắc dân tộc Việt Nam của chúng ta.
Kính chúc quý cô bác anh chị và các bạn một ngày bình an hạnh
phúc.
Trân kính
Quý thầy quý sư cô Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu.
***
Trên đây
là
nguyên
nhân
đã tạo cơ hội cho chúng con được đến để tìm lại những gì, còn
lưu dấu trong tâm tư những hình hài của kỷ niệm, những dấu tích
của mến yêu, những thăng trầm của quá khứ đang cùng nhau về đây
để trùng phùng với nhịp sống mới. Cũng như ôn lại những gì của
ngày xưa về làng Mai, và bây giờ về Viện Phật Học tại Waldbröl.
Qua khung cảnh kỳ vĩ của nơi chốn, có đầy đủ sắc màu cùng hương
thơm của những bông hoa đầu hạ, của cây cỏ núi rừng, của trời
xanh mây trắng, của nếp sống hiền hòa của Tăng đoàn đang biểu
hiện bằng những bước chân thảnh thơi an lạc.
Nơi có con đường dẫn vào Tăng xá Đại Từ Bi, với hai bên bải cỏ
xanh được cắt xén công phu, chen lẫn những nụ hoa hàm tiếu, lẵng
hoa đong đưa treo trước cửa ra vào, như hiện bày một khung cảnh
mến yêu để chào đón khách thập phương về đây hội ngộ:
- Chúng ta là chim bốn phương bay về đây. Về đây chúng ta
sống trong đạo thiêng. Chúng ta là hương gió mang đi ngàn
phương. Nguyện đem gieo rắc khắp nơi ánh vàng.
- Nơi tập họp của những bước chân thiền hành sau thời Pháp
thoại: Từ Á sang Âu bước đều sát vai. Ta khơi ngọn nguồn yêu
thương chuyển hóa đất trời. Vượt thoát âu lo, xua tan hận
sầu. Từ quê nhà sang thế giới nắm tay đứng nhìn biển xanh, sông
gấm nối liền một vòng Tăng thân.
- Nơi quay tròn một vòng ca hát: Nào chúng mình ra quay một
vòng hát mà chơi...
- Nơi trao nhau những ánh mắt cảm thông: Gặp nhau trao cho
nhau ánh mắt và nụ cười…
-
Nơi chia xẻ những cảm tình nồng ấm với những hứa hẹn: Gặp
nhau đây rồi chia tay. Đường dài sông núi hẹn mai ta sum vầy…
-
Nơi có tiếng chim gọi đàn về bên bếp lửa hồng, để cùng nhau tay
nắm, để cùng nhau hát ca, để cùng nhau kể chuyện ngày xưa:
Người ơi mau về đây. Về bên bếp hồng tay cầm tay. Mà nghe chan
chứa tươi làn môi. Nhớ phút vui đêm nay…
- Nơi có một ngày đi bộ ngang qua những làng mạc nhỏ nhắn, cheo
leo nhưng thanh bình, nằm bao quanh thành phố chính Waldbröl
trên dãy núi liên hoàn Oberbergischen của miền Tây nước Đức.
Được tiếp xúc với cỏ cây hoa lá, được đứng ngắm đàn bò sửa đang
gặm cỏ, bên cạnh đàn bò con lăng xăng trắng nỏn. Thỉnh thoảng bò
mẹ ngước lên hướng về đàn con với tấm lòng trìu mến, như người
mẹ quan tâm chăm sóc cho con…
- Nơi sẽ xây dựng một bảo tháp cho Đại Hồng Chung, để hàng ngày
tiếng chuông chùa sẽ ngân vang trong không gian của núi rừng
tịch mịch, sẽ thức tỉnh những chủng tử mê mờ, sẽ thắp sáng niềm
tin, sẽ xua tan bóng tối, và sẽ nguyện cầu cho người nghe tỉnh
thức: Bo ong bo ong tôi là chuông đại hồng, ngôi chùa xưa
trên đỉnh núi… tôi khua vang mở đầu cho một bình minh mới. Bo
ong bo ong nghe tiếng tôi xin người nở nụ cười… nghe tiếng tôi
xin người đem mắt thương nhìn cuộc đời…
- Nơi sẽ xây dựng con người trở thành: “là hoa tươi mát, là
núi vững vàng“.
- Nơi chứng nhân cho một kết quả tu tập:
Đã về đã đến, bây giờ ở đây...
- Những lời ca tiếng hát ấy đang quấn quyện rồi lan dần và tan
loảng vào cỏ cây hoa lá, nhưng hình như, đồng thời, tiếng hát
vẫn còn đọng lại trong lòng mọi người một đồng vọng tươi mát yêu
thương...
Nơi đây cũng đang hiện diện những tấm lòng Từ Bi như thầy Pháp
Ấn, muốn trao truyền lại cho tha nhân những hoa trái ngọt ngào
của Pháp giới, muốn xẻ chia những khó khăn đối với Tăng thân
đang gặp phải trái ngang trong cuộc đời. Như hai thế hệ cha mẹ
và con cái với hai quan niệm khác nhau mà phải chung sống giữa
hai nền văn hóa Đông- Tây. Một bên thích tịnh, một bên thích
động, một bên thích nóng, một bên thích lạnh, một bên lấy gia
đình làm nền tảng, một bên lấy xã hội làm cơ sở cho đời sống,
cho nên việc hội nhập là việc làm vô cùng nan giải. Vì giữa hai
thế hệ cùng chung sống giữa hai nền văn hóa thì không bao giờ
cùng gặp nhau một chí hướng, cùng đồng cảm với nhau quan niệm về
nét đẹp của xã hội. Cho nên muốn hòa đồng chỉ có “Tình thương và
sự hiểu biết, cũng như niềm tin vững mạnh vào đối tượng“ thì may
ra mới có hy vọng.
Hay thầy muốn giải thích những ý nghĩa của tên gọi, để hiểu thêm
tấm lòng của cha mẹ đang hoài vọng đến tương lai con cháu, khi
chọn một cái tên để đặt cho mình. Mà trở thành một bài pháp rất
sinh động, mới mẻ được dẫn dắt cho những tấm lòng con trẻ hiểu
thế nào về hai chữ Hiếu Trung, hiểu thế nào về tấm lòng của cha
mẹ đối với con. Vì làm con đôi khi cũng cảm thấy khó chịu khi bị
cha mẹ cấm cái nầy cản cái nọ. Ví dụ như cha mẹ khuyên con đừng
nên thức khuya, hay đi chơi đêm ngoài phố, mà cha mẹ lại không
giải thích. Nhưng nếu mình biết lắng nghe và nghĩ lại là thức
đêm sẽ đem đến những hậu quả tai hại khi tuổi về già; hay bóng
đêm và phố vắng là những cạm bẩy mà cha mẹ mình đã kinh nghiệm
qua, còn mình thì chưa bao giờ biết đến. Cho nên việc cha mẹ mới
cấm đoán cũng chỉ vì thương mình đó mà thôi. Thì bây giờ có lẽ
mình sẽ không bất mãn với cha mẹ mình, để rồi phải đau buồn phải
hờn giận. (Cho nên trong kinh sách Phật giáo có đề cập: “Bồ tát
sợ nhân, chúng sinh sợ quả“) là vậy.
(Nên con cũng tò mò về Pháp hiệu của thầy mà mở Phật Học Từ
Điển của Đoàn Trung Còn ra xem thì: “Pháp Ấn nghĩa là Ấn diệu
pháp. Đọc theo Phạn là Mẫu- đà- la (Mùdrâ). Dấu hiệu của một ý
định đã quyết; cái dấu dùng để tỏ rằng tu tập quyết tới quả
Phật. Pháp Ấn cũng có nghĩa : sự ấn truyền cho nhau cái tâm Phật
giữa Phật với Phật, Tổ với Tổ; sự ấn định vào tâm mà phó chúc
cái Pháp. Pháp Ấn lại là sự ấn định vào tâm một học thuyết, một
pháp môn; sự ấn định ấy vững chắc, không hề biến đổi…“)
Hay như tấm lòng của Sư Chị Song Nghiêm, đối với Tăng thân cũng
đầy ắp tình thương, cũng tràn trề cảm xúc nên sư chị muốn trải
lòng ra, muốn chia đều cùng khắp những ước mơ, hoài vọng; muốn
trang trải tấm lòng của mình cho mọi người. Nên luôn thao thức
đến vốn liếng sống của mình, đắn đo đến kinh nghiệm thực tập của
mình chưa đủ. Nên đã đi cầu cứu đến Sư Thầy, đi vận động Sư Em
tiếp tay cứu bồ. Không ngờ lòng thành đã động đến chư Thiên, nên
đã có chư Bụt và chư Bồ tát bảo hộ cho sư chị. Và bài Pháp thoại
(hay tiếng lòng) của sư chị đã trở thành một dòng suối mát để
tắm gội cho đại chúng. Nhất là giới trẻ đã có một khái niệm ít
nhiều về tình yêu thương của cha mẹ đã một đời dành dụm cho con,
đặt tất cả sự hoài vọng vào các con, chỉ mong muốn cho các con
được thành người hữu dụng. Vì thế cho nên các con nên thực tập
để có một cuộc sống vững chải như núi xanh, ngọt ngào như suối
biếc. Và hình như còn một yếu tố thành công nữa đối với sư chị
là “cùng chung một tần số“ với các em. Như lời của một người mẹ
khuyên giải người con với một tấm chân tình. Cùng với lời tâm sự
riêng tư của sư chị đối với song thân. Như nhớ lại những ngày
đầu làm thân lưu lạc, còn eo hẹp về vật chất, nhưng khi ngang
qua quầy hàng bán áo quần đàn ông thì chợt nhớ đến cha, liền lấy
ra số tiền dành dụm để mua một chiếc áo gởi về cho cha. Nhưng
than ôi, khi chiếc áo về đến quê nhà thì cha đã không còn nữa !
Đến khi xuất gia để đi theo lý tưởng của mình thì lại còn mẹ
tuổi hạc đã cao, yếu già không biết lấy ai chăm sóc. Cho nên nỗi
thao thức giữa hai ngã cuộc đời, giữa tình cảm và lý trí đang
giằng co lẫn nhau. Cứ sợ hiếu hạnh không tròn, và đường tu không
vẹn. Đây cũng là một điều phản ảnh rất thật của chân tướng nhân
bản mà thôi. Vì sư chị cũng là con người, mà con người thì làm
sao tránh được những cảm xúc đời thường.
Qua những buổi Pháp thoại với những đề tài rất thiết thực cho
đời sống. Như Pháp Niệm Thân (hay Tứ Niệm xứ). Tức là bốn việc
hằng nhớ nghĩ hay phát hiện về thân. Như trong thân của chúng ta
có bốn chổ mà người tu học cần phải để tâm đến: 1) Quán thân bất
tịnh. 2) Quán tâm vô thường. 3) Quán pháp vô ngã. 4) Quán thọ
thị khổ.
Hay nói cách khác, con người chúng ta có các thân như: Pháp
thân, Nhục thân. Pháp thân là cảnh giới thanh tịnh, vốn không có
hình tướng và màu sắc, nên được trường tồn. Nên Pháp thân còn
gọi là giác ngộ và giải thoát. Còn nhục thân là tổng hợp của tứ
đại Đất. Nước. Gió. Lửa nên có thể hủy hoại theo thời gian. Nên
nhục thân còn gọi là con đường sanh tử luân hồi.
Tiếp theo các đề tài quán niệm, thầy Pháp Lượng đã tiếp sức với
quý thầy cô về pháp môn Quán Hơi Thở. Thầy đã đưa ra một ẩn dụ
rằng, con người chúng ta sinh ra cũng giống như chiếc lá, khi
mới nở thì có màu xanh nhạt, nhưng ngày qua ngày thì sắc màu sẽ
đậm dần. Con người chúng ta cũng vậy, khi mới sanh ra còn bé
chưa biết gì, nhưng theo ngày tháng thì đứa bé sẽ phát triển từ
thể chất đến tinh thần. Thân sẽ lớn lên, tri thức sẽ hiểu biết
nhiều hơn. Nếu cứ xem con mình lúc nào cũng chỉ là đứa trẻ, và
chúng ta không theo dõi sự phát triển của chúng, thì không bao
giờ nắm vững để hướng dẫn đường đi nước bước cho con em mình
được.
Hay Tứ Nhiếp Pháp: Là bốn phương pháp lợi tha để nhiếp phục
chúng sanh quay về với Phật pháp.
Bốn phương pháp đó là: - Bố thí. - Ái ngữ. - Lợi hành và - Đồng
sự.
Trong một xã hội, muốn bảo tồn sự sống thì cần phải tương tác
lẫn nhau. Người thì làm việc để tạo nên của cải vật chất để cung
phụng cho xã hội; người thì học hành để có kiến thức hầu giáo
dục lại cho thế hệ hậu sinh. Thế nên, việc bố thí có ba đó là
Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí. Tuy có ba hình thức, nhưng vẫn
phải liên hệ mật thiết với nhau tùy theo khả năng từng người.
Nương theo duyên sinh mà thể hiện (cái nầy có thì cái kia có và
ngược lại).
Sau cùng là Pháp Làm Mới, với tuần tự theo những yếu tố được
thành lập tạo nên một nguyên tắc thực tập, để chế tác hạnh phúc:
1) Khung cảnh thích hợp.
2) Ngồi thiền.- Tiếp xúc với tình thương chế tác ra.- Tiếp xúc
với nguyện ước ban đầu.
3) Ái ngữ và lắng nghe. Nhắc lại nguyên tắc thực tập và nội dung
làm mới.
1) Tưới hoa. (Công nhận nét đẹp của người khác).
2) Truyền thông cái khó khăn của mình gặp.
3) Trình bày những vụng về mà mình đã tạo.
4) Nói lời xin lỗi.
5) Cầu xin sự yểm trợ và trình bày những khó khăn của mình.
6) Phát nguyện.
7) Thiền ôm.
Cùng những bước đi vào làm mới: 1) Thở. 2) Cơ thể. 3) Nguồn năng
lượng. 4) Tiếp xúc những nguồn năng lượng. 5) Nhớ lại hoàn cảnh
tạo ra những bức xúc. 6) Cảm thọ đi lên. Ý thức toàn thân. Buông
thư toàn thân. 7) Thở.
Hay “Pháp Biểu Hiện“ của các Sư Em trong việc phục vụ đại chúng,
với cái tâm phụng hiến, với cái thân siêng năng làm việc bằng
tất cả tấm lòng. Như một bầy ong đang bay đi muôn nơi để hút
mật, và cung cấp cho đời một sức sống. Từ những giờ học hành, từ
những công việc trong nhà ra ngoài ngõ, từ những đón tiếp khách
vãng lai, từ những việc bếp núc cũng như luôn thực tập sống
trong chánh niệm… là những bài Pháp không lời, nhưng có công
năng chuyển hóa khổ đau, kết thành hoa trái hạnh phúc. Con còn
nhớ Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có viết một bài hát diễn tả về tấm
lòng ấy: “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng…“.
Chúng con xin ghi nhận những tấm lòng như một quà tặng, để làm
tài sản cho mình, để được giàu có thêm trong gia tài đối đải
tương thân với ân nghĩa của cuộc đời.
***
Đối với Tăng thân chúng con thì cũng đã ghi nhận những kết quả,
đáp ứng được lòng mong mỏi của những người chưa biết đường đi,
chưa tìm ra phương hướng, xuyên qua những tâm sự chân thành bộc
bạch:
- Với bà Ky: Tui thì đối với Phật pháp tui không hiểu được
nhiều, nhưng mà tui cảm thấy rất vui, thật sự có an lạc và hạnh
phúc, như vậy là được rồi.
- Với anh chị Ngọc, thì trong tháng Năm nầy anh đã hai lần “xuất
gia“ về Viện Phật Học để “
đi tu “ cũng như được chị ủng hộ và đồng hành. Đây là niềm hạnh
phúc của gia đình anh ấy vậy.
- Đối với anh chị Cường, thì có lẽ là một gia đình hạnh
phúc nhất, vì anh chị đã mang về cho Tăng thân Muenchen cả một
“Bầu Trời Xanh“. Và những tấm lòng của quý Thầy Cô ở Viện Phật
Học.
- Đối với anh chị Thủy, thì khi mới đến chị đang mang một tâm sự
không vui, vì còn lo lắng cho các con đang sống giữa một xã hội
xa lạ với cội nguồn, khác biệt với văn hóa. Nên luôn lo lắng cho
các con sẽ không còn giữ lại cái bản sắc văn hóa của mình. Nhưng
khi nghe quý thầy cô chia xẻ về những kinh nghiệm sống cho giới
trẻ, phân tích những quan niệm sống của giới trẻ hội nhập vào xã
hội trong hiện tại, cùng lời khuyên đối với những bậc cha mẹ là
hảy đặt niềm tin trọn vẹn vào con mình. Hình như những lời
khuyên đã hợp tình đạt lý, nên ngày chia tay thấy chị đã có nụ
cười, và nhất là chị đã có niềm tin.
- Và đối với gia đình chúng con thì cũng được diễm phúc về làng
Mai tu học từ hồi các cháu được mười tuổi. Tuy vì hoàn cảnh mà
có thời gian gián đoạn, nhưng bây giờ thấy các cháu vẫn còn
những chủng tử thiện lành, một niềm tin vững chải. Và hôm nay
đến Viện Phật Học, thì tự nhiên những chủng tử thiện lành, những
năng lượng chuyển hóa như sống dậy trong con thật mạnh mẽ. Chúng
con cảm thấy ngập tràn yêu thương, khi xúc chạm với nếp sống
thiện lành, suối nguồn hạnh phúc.
Thế nên, ngày xưa chúng con về làng Mai thì có cảm tưởng như
đang về quê Cha. Và giờ đây về Viện Phật Học tại Waldbröl thì
chúng con có cảm tưởng như đang trở về quê Mẹ. Và con cũng cảm
thấy vô cùng hạnh phúc, vì con có đầy đủ cả tình Cha lẫn nghĩa
Mẹ. Con xin cám ơn Cha, con xin cám ơn Mẹ, con xin cám ơn huyết
thống tâm linh đã cho con có được một vườn hoa trái ngọt ngào,
một nguồn suối mát tâm linh, và một nơi chốn bình an để trở về.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát.
***
Nhờ vậy, nên bây giờ chúng con đang nguyện thực tập, đang nguyện
thử thách với chính mình như một câu chuyện:
- Ngày xưa có một thiếu phụ, vợ một người sĩ quan miền
Nam. Sau năm bảy mươi lăm thì chồng chị bị đưa đi tập trung cải
tạo, chị ở nhà chăm sóc con cái và được đi thăm nuôi chồng hàng
năm. Nghe những lời hứa hẹn của cán bộ như “Nếu học tập tốt
thì sẽ được sớm trở về“. Năm đầu chị đi thăm với hy vọng
cuối năm chồng chị sẽ trở về. Năm thứ hai chị ta đi thăm và với
hy vọng là cuối năm chồng chị sẽ được về. Đến năm thứ ba thì chị
cũng đi thăm, nhưng hình như niềm tin của chị cạn dần không còn
như xưa, nên chị viết mấy câu thơ lên tấm giấy, nhét vào trong
gói đồ ăn cho chồng:
“Nếu phải chờ anh mà hóa đá
Thì em cũng thử một lần xem“
!
Và giờ đây, tại học viện nầy chúng con đang thực tập gieo trồng
hạt giống thiện lành, chúng con cũng đang thử thách với chính
mình:
“Niệm bước thiền hành mà an lạc
Thì con nguyện thử một lần xem“
Hay trong bài thơ Tìm Nhau có đoạn: Con đã đi tìm Thế Tôn. Từ
hồi còn ấu thơ… Con đã tìm ra Thế Tôn. Con đã tìm ra con. Nước
mắt con không cầm nổi… với những cảm xúc dâng trào vì hạnh
phúc, vì sung sướng khi được gặp Thế Tôn nên con cũng xin
nguyện:
“Nếu tìm Thế Tôn mà được gặp
Thì con xin nguyện một lần xem“
***
Buổi chiều thứ Bảy ngày 26-5-2012, nơi thiền đường Vô Ưu của Học
Viện được trang trí tuy đơn sơ, nhưng đã gói ghém đầy đủ những
tấm lòng thành kính đang hướng về một suối nguồn huyết thống tâm
linh, để tắm gội thân tâm, để thấm nhuần hiếu hạnh. Đang tận
hưởng nguồn hạnh phúc tràn đầy, chứa đựng hương vị ngọt ngào của
hoa trái yêu thương, của giao thoa tình cảm, của nhớ thương ngập
lòng, của cảm xúc tràn ngập. Những cảm giác ấy thật tha thiết
dịu êm, thật ngọt ngon như đường mật, như xôi nếp một, như đường
mía lau.
Như cách đây tròn sáu mươi năm, thầy Nhất Hạnh đã viết trong
đoản văn Bông Hồng Cài Áo: “
Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà
tình thương là một chất liệu ngọt nào, êm dịu và cố nhiên là
ngon lành…“
Buổi lễ được tổ chức
với phần mở đầu
qua bài pháp thoại ngắn của thầy Pháp Ấn, nói về ý nghĩa của lễ
hội.
Cũng như đọc lại bài văn Bông Hồng Cài Áo làm
nhân chứng cho những đóng góp quý báu.
Để hôm nay Viện Phật Học có thêm dữ kiện giới thiệu những nét
đẹp của nền Văn hóa Phật giáo Việt Nam. Và tiếp theo là buổi văn
nghệ với sự hiện diện của Tăng thân Lá Bối ở Hamburg, Tăng thân
Nắng Mai Hồng ở Dortmund, Tăng thân Vầng Trăng sáng ở Stuttgart,
và Tăng thân Muenchen tương lai sẽ là Bầu Trời Xanh, đang thi
nhau đóng góp phần văn nghệ rất phong phú. Và sau cùng để đáp
lại thịnh tình, quý Thầy Cô Viện Phật Học đồng ca bài Bông Hồng
Cài Áo nhạc Phạm Thế Mỹ, phổ theo ý đoản văn của Sư ông Làng Mai
cùng tựa đề.
Chiều hôm sau với giờ Pháp thoại, cũng trong khung cảnh trang
nghiêm của thiền đường, con nghe cơ hồ như hương vị của buổi lễ
Bông Hồng Cài Áo đang còn đọng lại đâu đây trong căn phòng nầy.
Con đã thấy nguồn cảm xúc của đại chúng rưng rưng khi được đón
nhận một bông hồng hiếu hạnh. Từng giọt nước mắt đang lăn từ từ
xuống má, từng tiếng khụt khịt vì không đè nén được cảm xúc, nên
đành cứ để cho tự do tuôn trào. Vâng, con thấy đại chúng đang
khóc, họ khóc không phải vì khổ đau, không phải vì thương tiếc
mà họ khóc vì trong cùng một lúc, mà nguồn hạnh phúc đã dâng lên
làm lụt lội cả tâm hồn, làm xôn xao kỷ niệm...
Chợt nhớ những ngày xưa trong gia đình con, cha thì hiền lành,
ít nói và thật thà gần như chậm lụt. Còn mẹ thì lanh lợi bặt
thiệp, nên nhiều khi mẹ hay “giăng bẩy” ra để chọc quê cha con.
Có lần nhân trong một bửa ăn, cả gia đình quây quần không biết
cha mẹ đang nói chuyện chi, nhưng trong khi nghe cha nói:
“Nhân chi sơ tánh bổn thiện” thì mẹ liền “cải lại” rằng, đâu
phải vậy, đúng ra là: “Nhân chi sơ là sờ vú mẹ” ! Nghe
hợp lý với suy nghĩ các con, nên tất cả đều nhao lên hùa theo mẹ
và cho là mẹ đúng mẹ hay, mẹ tuyệt vời ! Những lúc như vậy con
thấy cha rất lẻ loi và tội nghiệp. Nhưng con lại vẫn vô tâm
không biết đến tình cha, không biết đến tâm sự của cha rất kín
đáo, không biết cha luôn nuốt trọn vào lòng những oan trái, để
rồi chúng con lại đi xem thường cha không được như mẹ. Cha không
thương con như mẹ, cha không ngọt ngào như mẹ, cha không dịu êm
như mẹ. Cảm giác cha thua mẹ cứ lởn vởn hoài trong tâm con như
một chủng tử khổ đau, như một lỗi lầm đã hái. Bây giờ, khi lớn
khôn thì con thấy cha nhiều thiệt thòi, thấy cha rất lẻ loi,
nghĩ lại càng thương cha vô cùng !.
Không dưng lòng con khởi lên một niệm ghen tỵ, con ghen tỵ với
mẹ. Rằng, tại sao tình cha cũng ấm áp, tình cha cũng ngọt ngào
mà sao cha lại không có một chổ đứng trong con như mẹ ? Rằng,
cha cũng đã sung sướng khi thấy con mới sinh ra còn đỏ hỏn, nằm
gọn lỏn trong vòng tay của mẹ. Rồi cha cũng cảm thấy hạnh phúc
khi thấy con lớn dần biết lật, biết bò rồi biết đi. Rồi dần lớn
lên trong sự bao bọc của cả cha lẫn mẹ. Những lúc ấy thì cha
cũng sung sướng lắm chứ, cha cũng hạnh phúc lắm chứ. Tuy cha
không nói ra là cha đã sung sướng, cha đã hạnh phúc nhưng lòng
cha thì lúc nào cũng chan chứa yêu thương, song luôn dấu kín
trong một gốc khuất cảm xúc của tâm hồn. Và con được lớn lên
cũng một phần nhờ vào những cảm xúc ấy chứ. Vì nhu cầu của con
là phải đầy đủ cả tình cha lẫn nghĩa mẹ. Nếu thiếu một trong hai
thì con không thể nào trưởng thành cho được.
Và con thấy thương cha vô cùng, người cha suốt một đời khó nhọc
chân lấm tay bùn, vất vã cả ngày lo tìm cái ăn cái mặc cho gia
đình. Thêm nữa, chúng con được sinh ra tại miền quê khốn khó,
nghèo nàn vì thời tiết khắc nghiệt, vì đất đai khô cằn với cảnh
:”Mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn...”. Người dân
quanh năm lam lũ mà không kiếm đủ cái ăn cái mặc. Gia đình con
cũng không ngoại lệ, vì trời cứ hành cơn lụt mỗi năm. Bây giờ
nhắc lại cảnh tình của quê nhà, lại thấy thương cha thương mẹ vô
vàn !
Nên con đành thầm hát lại “Tình Cha” như một lời sám hối, như
một lời con muốn nói với cha rằng: Cha ơi con cũng thương cha
lắm, vì trong suốt cả cuộc đời, cha đã quá cô đơn !
“Tình cha ấm áp như vầng thái dương, ngọt ngào như dòng nước
trôi đầu nguồn. Suốt đời vì con gian nan, ân tình đậm sâu bao
nhiêu, cha hởi cha già dấu yêu...”
Nghĩ đến những gian khổ của cha, tình cảm của cha đã luôn lo
lắng cho con. Luôn mong cho con mau được lớn khôn, mau thành đạt
để trở thành người hữu dụng. Nên lòng con luôn vẫn nhớ, nhớ
những ngày tháng thần tiên của tuổi thơ bên cha, nhớ những gian
khổ của cha, nên lòng con luôn vẫn hoài mong được đáp đền ân
sông nghĩa núi, dưỡng dục cù lao. Nên lòng con luôn vẫn hoài
mong nhớ.
Tấm lòng của cha luôn mong muốn cho con nên người, nên mới có
những lời dặn dò chí thiết: “... nầy con yêu ơi con hảy nhớ,
hảy nhớ lời cha sống cho nên người và con ơi chớ bao giờ dối
gian. Nghèo thì cho sạch rách sao cho thơm. Nhưng lời của cha
năm xưa con nguyện ghì sâu trong tim...”
Hoài bảo của cha la thế, mong ước của cha là thế, tình cảm của
cha cũng thế, chỉ thoang thoảng như hương lài hoa lý, chỉ thầm
kín như canh khuya yên ắng, chỉ phảng phất như cơn gió mùa hè
làm mát dịu cõi lòng mà không cần ai biết, chẳng thiết ai hay.
Chỉ luôn mong ước cho con sống một cuộc đời lương thiện !
***
Xin thêm vài hàng để giới thiệu về tình mẹ, chỉ vài hàng về mẹ
thôi, vì mẹ đã có nhiều người xưng tụng, nhiều người ngợi ca, ví
dụ như một nhà văn Tây phương đã viết: Mẹ và quê hương là
những kỳ quan đẹp nhất thế giới. Chỉ một lời nầy thôi thì
cũng đủ biết rằng, tình mẹ bao la đến ngần nào, tình mẹ ngọt
ngào và đằm thắm biết ngần nào, và tình mẹ đẹp đẽ đến dường bao.
Mẹ đã để lại trong lòng những người con của mẹ biết bao là tình
nghĩa, biết bao là yêu thương nên bây giờ có nói thêm lời nào
cũng chỉ toàn là vô nghĩa. Con chỉ lặng lẽ mà cảm niệm về mẹ như
nguồn suối mát, như những hoa trái yêu thương mà con đã tận
hưởng.
“Mẹ tôi tóc xanh nhuộm bạc tháng ngày, mẹ tôi mĩm cười nhìn đám
con ngoan...”
Mẹ tôi là một người rất hạnh phúc, vì mẹ được mang một gốc gác
tâm linh của cội nguồn Lạc Việt thuộc giồng giống Rồng Tiên, nên
mẹ có một đàn con rất ngoan. Biết chia xẻ cho nhau những niềm
vui và nỗi buồn, biết nâng đỡ
cho nhau khi gặp khó khăn, luôn yêu thương nhau vì biết rằng
chúng con đều là con của mẹ. Những người con của mẹ ấy, thường
hay về Viện Phật Học để thực tập sống cuộc đời tỉnh thức, đồng
thời gởi năng lượng chánh niệm nầy về quê nhà để nguyện cầu cho
những người con của mẹ được sống trong thanh bình.
Nên con luôn có được thêm niềm tự hào rằng, con cũng là một
người rất giàu có, con là một người rất hạnh phúc vì con đang có
đầy đủ cả tình cha lẫn nghĩa mẹ. Con xin cám ơn cha, con xin cám
ơn mẹ, con xin cám ơn huyết thống đã cho con có được một nguồn
suối mát tâm linh, một vườn cây trái ngọt ngào, và một nơi chốn
bình an đề trở về. ◊
Nam Mô Bồ Tát Đại Hiếu Mục Kiền Liên.
Trần Đan Hà
|