Văn-Cao, trái tim hóa đá
Những ngày
đầu Xuân, nắng thường dấu mặt sau những tầng mây xám, đôi khi mưa
nhẹ và gió se lạnh, dịu dàng cuốn theo từng chiếc lá cuối đông.
Không gian lãng đãng một chút gì Hà-Nội xa xưa …
Bạn chưa
từng biết đến Hà-Nội, nhưng mỗi lần thời tiết giao mùa, êm ái và
tĩnh lặng như thế này, bạn lại nghe nhạc Văn-Cao và tưởng tượng về
Hà-Nội.
Văn-Cao
với Hà-Nội là một.
Chả thế,
thuở Văn Cao còn sinh tiền, nhiều người bảo, địa chỉ của Văn-Cao là:
“Văn-Cao, Hà-Nội”. Chỉ thế thôi. Và thư sẽ đến tay Văn-Cao, không
sai lạc (trừ khi bị nhà nước kiểm duyệt rồi lấy cắp đi!)
Với tôi,
sinh trưởng tại Hà-Nội, lại càng thấy nhạc Văn-Cao gần gũi biết bao!
Hơn thế nữa, mỗi lần nghe là mỗi lần bắt gặp những cảm xúc mới mẻ,
tùy theo tâm trạng lúc nghe. Như ngày xưa, thời thơ ấu, tôi thường
được nghe cha tôi, vừa đàn mandoline, vừa hát những câu:
“Hồng-Hà mênh mông, trôi cát tới chân làng quê.
Cuối sông, tìm bến ai về,
Có những chàng áo nâu kề,
Say sưa giòng nước, vui tràn trề …”
Tôi đã
tưởng tượng ra bao chàng trai oai dũng, rời làng quê đi kháng chiến
cứu quốc. Nay, cha không còn nữa, khi nghe lại bản nhạc này, tôi
không chỉ thấy những người ra đi vì lý tưởng mà lòng tôi còn chan
chứa cảm xúc ngậm ngùi của những người nằm xuống khi hoài bão chưa
thành!
Gia tài
Văn-Cao để lại không nhiều, so với chiều dài thời gian ông hiện diện
trong chốn nhân sinh ta-bà, nhưng mỗi tác phẩm đều có một chỗ đứng
xứng đáng nơi thế giới nghệ thuật bao la và nơi mỗi trái tim người
Việt Nam yêu nhạc.
Trong gia
tài tinh thần đó, Văn-Cao từng thổ lộ với bạn bè rằng ông đã tốn
nhiều tâm huyết nhất khi viết nhạc phẩm “Thiên Thai”.
Quả xứng
đáng thay! Hơn nửa thế kỷ qua, giòng nhạc Thiên Thai vẫn đứng riêng
một cõi, một cõi trời tràn đầy lãng mạn, tràn đầy huyền ảo, tràn đầy
thi tứ trăng sao.
Chàng
thanh niên hai mươi tuổi, thường đắm mình trong mộng ảo để quên đi
thực tế thiếu thốn áo cơm. Không có một mái nhà, dù nhỏ bé, xiêu vẹo
để nương thân nên đêm đêm, Văn-Cao phải ngủ nhờ ở nhà máy điện
Hải-Phòng. Chính giữa nơi trần tục, bụi bặm, quyện đặc tiếng động ầm
ĩ từ những giàn máy điện đó, Văn-Cao đã viết Thiên Thai!
Sức mạnh
nào đã chắp cho chàng trẻ tuổi đôi cánh đại bàng để chàng bay lên,
bay vút lên không gian bát ngát, xa trần thế, lạc vào Thiên Tiên?
Phải chăng, khi viết Thiên Thai, chính Văn-Cao đã thoát xác thành
Lưu Nguyễn? Lưu Nguyễn ngày xưa có thật hay chỉ là huyền thoại,
không ai biết chắc, nhưng Lưu Nguyễn từ Văn-Cao thoát xác phải có
thật mới tạo thành những giòng nhạc bất hủ, cuốn hút như thác đổ,
vừa rộn rã đam mê, vừa dịu dàng tiên cảnh đến thế!
Ai đã cất
tiếng: “Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng”, khó có
thể dừng ở giữa đoạn mà không bị ma lực âm thanh lôi cuốn, mời gọi
hát tiếp: “Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên. Kìa đường
lênTiên, kìa nguồn hương duyên, theo gió, tiếng đàn xao xuyến. Tiếng
tơ lưu luyến, mấy cung u huyền, mấy cung trìu mến, như nước reo mạn
thuyền …”
Cũng tại
nơi ngủ trọ ầm ĩ tiếng động đó, Văn-Cao đã viết Trương Chi, Buồn Tàn
Thu, Suối Mơ, Bến Xuân …. Cả một trời âm thanh réo rắt, thơ mộng của
những tuyệt tác phẩm đã đến, và ở lại lòng người.
Nhưng
Văn-Cao, người nghệ sỹ tài hoa không phải chỉ là chàng nghệ sỹ mơ
mộng. Văn-Cao chính là tác giả những bản nhạc quân hành hùng tráng
như Hải quân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Lục quân Việt Nam mà
quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã dùng để tiêu biểu cho mỗi binh chủng.
Đặc biệt, Trường Ca Sông Lô, vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp, hào hùng đã
nức lòng bao thanh niên thiếu nữ lên đường kháng chiến chống ngoại
xâm, giành lại độc lập tự do cho xứ sở. Bài trường ca một thời âm
vang khắp núi rừng Việt Bắc với những câu: “Sông Lô, sóng ngàn
Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u. Thu ru, bến sóng vàng từng
nhà mờ biếc, chìm một mầu khói thu. Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến
cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang. Ai qua, bến nắng hồng lặng nhìn
mầu nước sông Lô xưa …”
Chính bản
thân Văn-Cao cũng đã dâng hiến trọn tuổi thanh xuân cho lý tưởng.
Vậy mà, sau 1954, Văn-Cao ở lại miền Bắc, chỉ còn viết vẻn vẹn một
bài Tiến Quân Ca!
Buồn thay!
Và cũng may thay! Nếu Tiến Quân Ca không được chọn làm quốc-ca của
Cộng Sản Việt Nam thì chắc gì Văn-Cao còn được yên thân ở đó, dù chỉ
còn như một chiếc bóng, âm thầm đi, về cùng những ly rượu nhạt!
Tại sao có
thể như thế được? Tại sao chàng Lưu Nguyễn tràn đầy tình yêu người,
yêu đời lại có thể đột ngột biến mất trong cõi sương mù?
Sau năm
1954, tuy một người tên Văn-Cao còn đó, nhưng nhạc-sỹ- Văn-Cao đã
biến mất!
Nhẹ như
tơ, lặng như đêm, cung đàn đã im tiếng! Không ai còn thấy
Văn-Cao-nghệ-sỹ nữa! Chỉ còn một con người già trước tuổi, im lặng
mỉm cười với mọi sự, làm bạn cùng những ly rượu đầy vơi …
Xuân có
đẹp, Hạ có vui, Thu có êm đềm hay Đông băng giá cũng chẳng khiến
người gẩy lên một cung tơ! Trái tim như không còn nằm trong lồng
ngực vì nếu còn, thì trái tim - nhất là trái tim nghệ-sỹ - chắc chắn
còn phải chuyển đạt sự rung động thành tác phẩm. Như con chim ngứa
cổ phải cất tiếng hót, như mây tụ lại, ắt phải mưa, như mặt trời
lên, ắt phải nắng, như đói phải ăn, khát phải uống, như bao nhiêu
điều tất nhiên trong đời sống.
Vậy mà,
Văn-Cao, người nghệ sỹ tài hoa đã từng lạc Thiên Thai ngay giữa khu
nhà đèn trần tục ầm ĩ, đã từng – bằng âm nhạc – kêu gọi bao người
trẻ tuổi ra đi vì lý tưởng, lại có thể im tiếng khi “đất nước thanh
bình”?
Ai?
Chính sách
nào đã bóp chết trái tim nghệ sỹ đó?
Người nghệ
sỹ chân chính, nếu không được viết ra những gì mình thực sự muốn
viết thì thà không viết nữa! Thà là bẻ bút! Thà là đập đàn!
Lịch sử đã
chứng minh bao tài năng Tự Hóa Đá, tự biến mình từ trăm suối ngàn
sông thành những đụn cát quạnh hiu khô vắng, hơn là trở thành những
con múa rối!
Nếu những
kẻ cầm quyền hiểu được rằng, văn-nghệ-sỹ là gia tài chung của dân
tộc thì chắc chắn chúng ta còn có biết bao nhiêu Lá Diêu Bông, Bên
Kia Sông Đuống, Ngã Ba Sông (Hoàng Cầm), bao nhiêu Mầu Tím Hoa Sim
(Hữu Loan), bao nhiêu Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đôi Bờ, Tây Tiến (Quang
Dũng), và, Văn-Cao, với trái tim nghệ sỹ tràn đầy rung cảm, nếu được
tự do đập những nhịp yêu thương thì với hơn nửa thế kỷ qua, chúng ta
còn được nghe bao nhiêu giòng sông cuốn, bao nhiêu con suối chảy,
bao nhiêu rừng lá rơi, bao nhiêu lời tình tự ngọt ngào của muôn chim
với hoa bướm, của người với người, của trăng với sao, của trời với
đất, của cỏ với cây, của muôn ngàn kỳ hoa dị thảo trong vườn hoa
nghệ thuật mênh mông …
Mozart,
thiên tài âm nhạc thế kỷ thứ 18 chết vì kiệt lực khi vừa ba mươi lăm
tuổi. Mozart chết khi tay vẫn đang cố viết nhạc, chết khi nhạc còn
tràn đầy trong tim, trong phổi, còn đang tuôn chảy mênh mang trong
thân xác cạn dần sự sống.
Văn-Cao
của nền âm nhạc Việt Nam chết ở tuổi già bẩy mươi lăm, chết khi Nhạc
Đã Chết trong ông từ hơn bốn mươi năm trước, chết tự lúc thanh xuân,
tự thuở đập đàn!
Nhưng tự
thân, những tác phẩm nghệ thuật giá trị đã sẵn có một đời sống bất
khả xâm phạm.
Vì nghệ
thuật không hít thở không khí đời thường.
Nghệ thuật
được hình thành từ mỗi cõi riêng, nơi tâm người thong dong tự tại:
“ Thanh
thanh túy trúc
Tận thị
pháp thân
Uất uất hoàng hoa
Vô phi Bát-Nhã”(*)
Có đâu,
lấy hẹp hòi xuẩn động thế gian mà trói buộc được.
Xin cám
ơn.
Xin vô vàn
cám ơn những nghệ sỹ chân chính đã vị nghệ thuật mà hóa đá.
Diệu
Trân
(Như-Thị-Am, giao thừa Tết Đinh Hợi)
(*)Lời
Thiền-sư. |