Bán dạ du hành
Nửa đêm hôm đó, cổng thành Ca Tỳ La Vệ nhẹ nhàng hé mở.
Nhịp vó khẽ khàng của hai con ngựa thong thả lách ra. Hình như chúng
cũng biết ý chủ, phải rất từ tốn để không gây tiếng động làm phiền
bao người đang an giấc. Nhất là đám lính canh ngoài cửa thành. Tuy
nhiệm vụ là canh cửa thành, nhưng thời buổi thanh bình thịnh trị
quá, có gì bất trắc đâu mà phải lo lắng. Thế nên, vào thời khắc đã
quá nửa đêm này, họ đều say ngủ, có khi đang chìm trong bao giấc
mộng đẹp không chừng!
Hai con ngựa ra khỏi cổng thành mà không ai hay biết.
Trời tối quá, không nhìn rõ hình dáng và sắc phục của hai người trên
lưng ngựa. Nhất là, cả hai đều im lặng. Vó ngựa vẫn chậm rãi thêm
một đoạn nữa, dường như để giữ an toàn, đủ khoảng cách không làm
thức giấc đám lính canh, hay tâm người trên lưng ngựa đang có chút
bâng khuâng, lưu luyến? Một người bỗng dừng cương, quay nhìn về
phía cổng thành, chắp tay, vái ba lạy. Xong, bằng một thái độ cương
quyết, người ấy giật giây cương. Con ngựa trắng chồm lên, tuân lệnh
chủ, nhắm hướng nam mà phi nước đại.
Người và ngựa bên cạnh cũng làm theo như thế.
Trong bóng đêm, tiếng vó ngựa rộn rã reo vui, đánh thức
những vườn cây hồng táo, những ruộng lúa xanh rì, những đường dốc
lên đồi cỏ, những lối sỏi ven suối trong veo. Tiếng vó ngựa cũng ca
hát với rừng cây, khóm trúc, với làng mạc, thôn xóm, với ruộng lúa,
nương dâu, với giòng sông, với núi, với sương đêm ….. Hình như vạn
hữu, nơi vó ngựa đi qua đang cùng hòa tấu một bài ca bất tận.
Đôi ngựa cứ thế, nhắm hướng nam mà phi nhanh trong bóng
đêm. Bấy giờ, bầu trời long lanh trăng sao cho thấy lờ mờ bóng người
trên lưng ngựa. Người cưỡi ngựa trắng vận áo hoàng bào, người cưỡi
ngựa hồng vận áo chẽn lục.
Họ đi, như đã có chủ đích. Im lặng mà đi. Như giòng
sông.
Im lặng mà không ngừng. Im lặng mà ra biển. Im lặng mà trở thành
trùng dương, thành bao la, thành vô tận …
Một sự im lặng hùng tráng!
Bấy
giờ, bóng đêm đang loãng dần. Ánh dương chưa lên nhưng vầng mây hồng
nhạt đã hiện. Xa xa là cánh rừng trúc xanh mướt, rậm rạp, mạnh mẽ
như muốn vươn tay đón bình minh.
Người vận áo hoàng bào ghìm cương con ngựa trắng chậm
lại, rồi dừng hẳn. Người vận áo chẽn lục cũng làm theo.
-
Ta
nghĩ, đã tới nơi.
-
Thưa …
Người vận áo hoàng bào đã xuống ngựa. Và làm như không
nghe thấy giọng nói nghẹn ngào của kẻ đồng hành. Người ấy vuốt ve
con ngựa trắng, âu yếm ôm lấy đầu nó. Con ngựa ngẩng nhìn chủ rồi
cũng dịu đầu vào vòng tay chủ.
Khi ấy, người vận áo chẽn xanh cũng đã xuống ngựa, rồi
quỳ trên nền đất ẩm.
Vẫn làm như không thấy cử chỉ của kẻ đồng hành, người
vận áo hoàng bào nhìn vào đôi mắt long lanh của bạch mã mà chân
thiết nói rằng:
-
Kiền-Trắc, ta cám ơn con đã đưa ta tới những nơi ta muốn tới. Bao
năm nay ta đã cùng con chứng kiến muôn vàn cảnh khổ của trần gian.
Con có nhớ hay không, Kiền-Trắc? Lần đầu, con đưa ta ra bốn cửa
thành, để ta thấy được bốn cảnh khổ: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Đó là
chặng đường không một chúng sinh nào thoát khỏi. Con có biết là từ
cảnh đó, lòng ta đã khởi lên nghi hoặc “chẳng lẽ chúng sinh phải
chìm đắm mãi trong luân hồi đau khổ này? Phải có con đường thoát khổ
chứ! Con đường đó là gì? Con đường đó ở đâu? Ai sẽ tìm ra? Ai sẽ dẫn
dắt? Hạnh phúc là gì? Nếu cười hôm nay mà khóc ngày mai, nếu có hôm
nay mà mất ngày mai thì đó không phải là hạnh phúc! Đó chỉ là bóng!
Vậy hạnh phúc đích thực ở đâu?” Kiền-Trắc ơi, ta đã không thể ngừng
– dù chỉ phút giây – băn khoăn về những dấu hỏi đó. Ta biết rằng,
rồi một ngày, chính ta phải đi tìm. Muốn đi tìm, ta phải dứt bỏ đời
sống ràng buộc, dù đời sống đó là cung vàng điện ngọc. Tìm được hay
không, ta chưa biết, nhưng biết chắc rằng, ta phải bắt đầu cuộc tìm
kiếm. Ngày bắt đầu đó chính là hôm nay, là giờ phút này. Ta vừa giã
từ hoàng-gia. Bây giờ, ta cám ơn con và sẽ giã từ con. Ta sẽ đi vào
cánh rừng kia và sẽ bắt đầu đời sống của người sa-môn không nhà.
-
Điện hạ!...
Người vận áo chẽn lục khóc nấc lên, vẫn quỳ gối mà hai
tay ôm mặt, khóc nức nở. Người ấy biết rằng lời nói với Kiền-Trắc
chính là nói cho anh ta nghe.
-
Xa-Nặc, anh đã hiểu lòng ta rồi mà! Anh đã biết có ngày ta sẽ rời
hoàng cung, phải không? Anh không phải chỉ là người đánh xe mà còn
là bạn tốt của ta bấy lâu nay. Chính vì vậy mà ta sẽ nhờ cậy anh
thêm một việc quan trọng.
Trong khi Xa-Nặc còn bàng hoàng thì nhanh như cắt, người
vận áo hoàng-bào đã rút thanh đoản kiếm đeo bên hông, nghiêng đầu,
cắt đứt mái tóc xanh và tháo chuỗi ngọc đeo nơi cổ, trao cho Xa-Nặc:
-
Anh
đem hai kỷ vật này về, dâng lên phụ vương và mẫu hậu ta, thay lời tạ
tội. Anh hãy thưa rõ tâm nguyện của ta, ta tin là hoàng-gia sẽ thông
cảm mà thôi.
-
Trăm lạy Điện-hạ, dầu Điện-hạ đi đâu cũng xin cho con theo hầu. Xin
đừng bắt con về báo tin dữ này. Trăm lạy Điện-hạ, xin Điện-hạ nhủ
lòng thương con.
-
Đừng làm ta thất vọng, Xa-Nặc. Giờ này chắc hoàng-gia đang xôn xao
đi tìm ta. Anh là người duy nhất giúp ta đem tin về. Hãy đứng lên và
dắt Kiền-Trắc cùng về. Hãy chăm sóc nó thay ta. Đi mau đi!
Nói rồi người ấy tiến tới, đỡ Xa-Nặc đứng dậy, ôm bạn
giây lát, vuốt ve hai con ngựa, rồi, không nói gì thêm nữa, người ấy
thong thả đi về phía cửa rừng.
Xa-Nặc đứng lặng, nhìn theo từng bước chân vị Thái-tử,
nay là những bước chân đầu tiên của vị sa-môn quyết tâm đi tìm Đạo
Cả, giúp chúng sinh thoát khỏi lưới vô minh luân hồi.
Bấy giờ, ánh dương vừa rạng ở phương đông, lấp lánh
những vệt nắng tinh khôi óng ánh, rực rỡ cánh rừng trúc, nơi vị
Thái-tử con vua Tịnh Phạn của vương quốc Thích Ca vừa đổi chiếc áo
hoàng bào cho người thợ săn để mặc vào mình tấm áo sa-môn bạc mầu
phấn tảo.
Đó là ngày tám, tháng hai của một năm xa xưa.
Ngày Thái-tử Tất Đạt Đa “Bán dạ du thành, xuất gia tầm
đạo”.
Diệu
Trân
(Như-Thị-Am, Xuân Đinh Hợi)
|