Nhập thất
Phật tử sơ cơ như tôi chỉ hiểu hai chữ “Nhập thất”, đơn
giản là tự giam mình trong phòng, trong một diện tích cố định nào
đó, và không giao tiếp với bên ngoài, không quan tâm tới những gì
đang xảy ra xung quanh. Còn mục đích nhập thất để làm gì là do tâm
nguyện riêng của người nhập thất. Theo tôi, có lẽ danh từ nhập thất
chỉ để nói tới những nhà tu hành đạo cao đức trọng. Trong năm, quý
ngài thường chọn một thời điểm nào đó để nhập thất sau những bận
rộn, bôn ba hoằng pháp. Khi đó, các ngài nhập thất để bồi dưỡng năng
lượng an lạc cho thân tâm; nhưng thật ra, nhập thất chính là thời
gian các ngài muốn dành cho việc trước tác, dịch kinh, viết sách,
những việc cần sự an tịnh để hoàn thành.
Với sự hiểu biết ít ỏi, tôi nghĩ về sự nhập thất của Chư
Tôn Đức là như thế. Chẳng phải tôi chỉ tình cờ hời hợt nghĩ vậy, mà
do lòng tò mò khi được diễm phúc đọc những bộ kinh, luật, luận,
trích dịch, tra cứu rất công phu của quý ngài. Tôi tự hỏi, với
Phật-sự đa đoan suốt năm, các ngài tìm đâu ra thì giờ và môi trường
thanh tịnh để trước tác?
Và thời gian nhập thất là câu trả lời cho tôi. Từ đó,
tôi luôn hết sức thầm ghi ơn hai chữ ‘ Nhập thất”, rất khiêm nhường
nhưng công đức thật vô lượng.
Có lẽ, bằng những thời gian nhập thất, cố Hòa Thượng
Thích Trí Thủ, vị Thầy khai sáng con đường tu học Già Lam mà Tăng
sinh nhiều thế hệ đã kính quý gọi bằng tiếng thân thương “Ôn Già
Lam”, đã để lại cho đàn hậu học một gia tài vô giá khi dịch thuật
các kinh Bát Nhã, Đàm Vô Đức Tứ Phần Luật; hoặc dẫn giải Tâm Như Trí
Thủ toàn tập và Yết Ma Yếu Chỉ.
Đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu từng là Viện-trưởng
Viện Đại Học Vạn Hạnh đã viết những bài dịch với nhiều đề tài rất
nghiêm túc như Đại Thừa Và Sự Liên Hệ Với Tiểu Thừa, của Nalinaksha
Dutt; So sánh Kinh Trung A Hàm Chữ Hán Với Kinh Trung Bộ Chữ Pali;
Vai Trò Của Người Có Trí Tuệ Trong Đạo Phật v…v…
Đại lão Hòa Thượng Thích Thiện Siêu viết không thiếu gì
trong cả ba lãnh vực Kinh, Luật. Luận. Kinh thì chúng ta được đọc
Tổng Luận về Kinh Lăng Nghiêm trực chỉ, Khảo dịch bản Việt Ngữ Kinh
Bát Nhã gồm 24 tập với hơn 5 triệu chữ. Luật thì có Đại Cương Về
Giới Luật Tu Sĩ và Luận thì ngài viết Luận Đại Trí Độ, Luận Thành
Duy Thức v…v..
Hòa Thượng Thích Thắng Hoan quan tâm nhiều về Duy Thức
Học nên ngài đã viết Khảo Nghiệm Duy Thức Học, Khái Niệm Về Pháp
Tướng Duy Thức Học, Bát Nhã Tâm Kinh Qua Cái Nhìn Của Duy Thức Học
v..v..
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh mà đa số Phật tử rất quen
thuộc qua các Kinh được tụng đọc mà ngài là tác giả dịch thuật, như
Kinh Hoa Nghiêm (trọn bộ 8 quyển), Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Đại
Bát Niết Bàn, Kinh Đại Bảo Tích (trọn bộ 9 tập) v…v…
Kho tàng kinh điển đồ sộ do công lao và trí tuệ của bao
Chư Tôn Đức đã và đang thực hiện, không ai dám tự hào sẽ liệt kê
được hết vì quá nhiều. Hàng Phật tử được thọ hưởng phải trả ơn sâu
này bằng tâm nguyện gắng sức tu hành tinh tấn.
Mới đây tôi vừa thỉnh được cuốn Huyền Thoại Duy Ma Cật,
tác giả là Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ. Tình cờ tôi được biết hàng năm,
Thầy thường nhập thất khoảng ba tháng. Kiểm điểm lại những cuốn sách
của Thầy mà tôi may mắn có được thì tôi không thể không nghĩ rằng
đây là kết quả những tháng ngày nhập thất.
Ngoài nhiều dịch phẩm viết trước thời điểm 1975 đã thất
lạc, tôi có được cuốn Thắng Man Giảng Luận dày 415 trang mà bản thảo
dở dang từ Phật lịch 2543, phủ đầy bụi bám đã được một thiện trí
thức tình cờ tìm thấy khi Thầy còn lao đao phương xa theo giòng lịch
sử nổi trôi. Bản thảo, với những cái Thầy gọi là “xong và chưa xong”
đó đã được những đệ tử tâm huyết của Thầy trân quý, ấn hành tại hải
ngoại. Từ đó, Phật lịch 2546 Phật tử chúng tôi được đón nhận Kinh
Duy Ma Cật Sở Thuyết, Phật lịch 2547 là cuốn Thiền Và Bát Nhã, Phật
lịch 2548 có Tinh Hoa Triết Học Phật Giáo v…v…Tới nay, Phật lịch
2550 chúng tôi đang có trong tay cuốn Huyền Thoại Duy Ma Cật.
Đó chẳng phải là sự làm việc miệt mài của Thầy những khi
nhập thất ư?
Không biết các đạo hữu của tôi thì sao? Riêng tôi, tôi
từng âm thầm khổ tâm khi học Kinh Duy Ma Cật! Tôi tin rằng không
người học Phật nào không công nhận Kinh Duy Ma Cật là một Kinh Đại
Thừa chứa đựng mênh mông tư tưởng thâm sâu, uyên áo. Học Kinh Duy Ma
Cật không thể học theo kiểu thuộc lòng vì mỗi giai thoại, mỗi câu
nói trong đó đều ẩn dụ những huyền nghĩa sâu sa, Phật tử lơ mơ như
tôi, không biết đến kiếp nào mới hiểu hết. Tôi biết thế, nhưng mỗi
lần đọc Kinh Duy Ma Cật, tôi đều không tránh được cảm giác băn
khoăn, khó chịu khi lần lượt những Đại Đệ Tử của Đức Thế Tôn đều
không dám đi thăm bệnh cư-sỹ Duy Ma vì các vị đều từng bị ông cư-sỹ
này chê trách!
Cảm giác khó chịu này luôn khởi lên song song với niềm
nghi ngờ “Lẽ nào lại thế! Lẽ nào các vị xuất gia đã tinh thông nghĩa
lý thâm diệu của Đạo Pháp lại trở thành như những đứa trẻ nhỏ khờ
khạo trước một người cư-sỹ tại gia, dù người đó có tài trí đến đâu!
Vậy thì, khi một Kinh Đại Thừa được trình bày như vậy, hẳn đằng sau
những hình ảnh cố tình phô diễn này là những ẩn dụ gì đây?”
Tuy khởi được nghi ngờ như thế, nhưng vì quá vô minh,
tôi đã chẳng tìm ra được một ẩn dụ nào, nên cuối cùng vẫn chỉ còn
lại cảm giác khó chịu. Nhưng vì Kinh có những đoạn quá hay, nên tôi
không để ngủ yên trên kệ được, mà thỉnh thoảng lại lôi ra đọc. Những
đoạn hay như đoạn Thiên-nữ rải hoa. Hoa rắc trên thân Chư Bồ Tát thì
liền rơi xuống đất mà rắc trên thân các vị Đại Đệ Tử thì vẫn bám vào
áo. Ngài Xá Lợi Phất phủi mãi không được.
“Thấy vậy, Thiên nữ hỏi Xá Lợi Phất:
-Sao ngài phủi hoa đi?
Xá Lợi Phất đáp:
-Hoa này không như pháp nên phải phủi đi.
Thiên nữ nói:
-Đừng bảo hoa này không như pháp. Vì sao? Vì chúng không
có gì phân biệt mà chính ngài đang khởi tâm phân biệt. Nếu người
xuất gia trong Phật pháp mà còn có cái phân biệt, cái đó mới là
không như pháp.” (*)
Hoặc đoạn đối đáp giữa ngài Xá Lợi Phất và cư-sỹ Duy Ma
Cật:
“Duy Ma Cật hỏi Xá Lợi Phất:
-Ngài nghĩ thế nào, ánh mặt trời khi xuất hiện có hiệp
cùng bóng tối hay không?
Xá Lợi Phất đáp:
-Chỗ nào có ánh mặt trời thì không còn bóng tối.
Duy
Ma Cật lại hỏi:
-Vì sao
ánh mặt trời soi dọi cõi Diêm-phù-đề này?
Xá Lợi
Phất trả lời:
-Đem ánh
sáng soi dọi để xua tan bóng tối.
Duy Ma Cật
bảo:
-Bồ Tát cũng vật, tuy sinh nơi cõi Phật bất tịnh để giáo
hóa chúng sinh nhưng không hiệp cùng với sự ngu ám, mà chỉ để diệt
trừ bóng tối phiền não của chúng sinh.”(*)
Nhưng ở chương nói về Pháp Môn Bất Nhị thì tôi không thể
an lạc được khi cư-sỹ Duy Ma Cật hỏi các vị Bồ Tát hiện diện “thế
nào là Bồ Tát vào cửa Pháp-Bất-Nhị?”
Sau khi ba mươi ba vị Bồ Tát lần lượt dùng những hình
ảnh và trạng huống tương phản để trả lời câu hỏi một cách rất minh
bạch, rất xuất sắc thì ngài Văn Thù Sư Lợi là người cuối cùng mới
hỏi lại Duy Ma Cật:
“Chúng tôi, mỗi người đã nói rồi, xin nhân-giả cho
biết thế nào là Bồ-tát vào cửa pháp-bất-nhị?
Bấy giờ, Duy Ma Cật lặng im không nói.
Văn Thù Sư Lợi tán thán:
Lành thay! Lành thay! Cho đến không còn văn tự và ngôn
thuyết, ấy mới thật là vào cửa pháp-bất-nhị.” (*)
Tôi thấy chỗ này … bất công qúa! Chắc gì sự im lặng của
Duy Ma Cật đã là câu trả lời tuyệt chiêu? Biết đâu 33 câu trả lời
của Chư Bồ Tát đã quá đủ, không còn câu nào dành lại cho Duy Ma Cật
nên cư-sỹ đành … im lặng?
Hôm nay, sau khi đọc rất từ tốn cuốn Huyền Thoại Duy Ma
Cật của Thầy Tuệ Sỹ, tôi đã bật lên lời tán thán Thầy: “Lành thay!
Lành thay!”
Tôi muốn chia xẻ niềm vui bất tận này với quý đạo hữu vì
từ nay, đọc Kinh Duy Ma Cật, tôi sẽ không còn băn khoăn, đau khổ nữa
vì Thầy Tuệ Sỹ đã vừa hóa giải hầu hết cho tôi.
Hãy chỉ đan cử trường hợp ba Đại-đệ-tử hàng đầu của Đức
Thế Tôn là các ngài Xá-Lợi-Phất, Ma-Ha-Ca-Diếp và Mục-Kiền-Liên bị
Duy Ma Cật chất vấn đến mức không dám đi thăm bệnh cư-sỹ khi Đức Thế
Tôn đề nghị.
Ngài Xá Lợi Phất đã từ chối, vì một lần Duy Ma Cật gặp
ngài ngồi thiền định nơi vắng vẻ, đã chê trách rằng:
“Bất tất ngồi như vậy mới là tĩnh tọa. Không hiện
thân và ý ở trong ba cõi, ấy mới là tĩnh tọa. Hiện các oai nghi mà
không xuất diệt tận định, ấy mới là tĩnh tọa. Hiện thân làm việc
phàm phu mà không xả Đạo pháp, ấy mới là tĩnh tọa …”
Trong Huyền Thoại Duy Ma Cật, thầy Tuệ Sỹ đã hóa giải
rằng:
“Bậc Thánh đã xuất ly ba cõi, vượt xa ngoài thế giới
đầy xáo động này, đó là nguồn an lạc do viễn ly và xuất ly. Nhưng
nếu bậc Thánh ấy trở lại thế gian này, hiện thân và ý như phàm phu
ngay giữa thế gian này mà tâm tư vẫn xuất ly ngoài ba cõi. Đó là đời
sống viễn ly chân thật. Qua đó, những lời phát biểu của Duy Ma Cật
là tán dương hay chỉ trích Xá Lợi Phất?” (+)
Ôi, lành thay! lành thay! Có thế chứ! Những con mắt vô
minh như tôi, đứng trước cồn cỏ che khuất, làm sao thấy được núi Tu
Di là cao! Làm sao thấy hết “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”
của bậc Thánh!
Rồi đến Ma-Ha-Ca-Diếp, người đệ tử duy nhất được Đức
Phật trao cho chiếc y phấn tảo của ngài, cũng bị cư-sỹ Duy Ma Cật
chê bai.
“Theo truyền thuyết thường kể, Đại Ca Diếp có tâm ưu
ái đặc biệt với người nghèo nên thường chỉ khất thực từ nơi nhà
nghèo. Cho đến cả Thiên Đế Thích, khi muốn cúng dường Đại Ca Diếp
cũng phải biến hóa thành một bà lão nghèo khó để được ngài thọ nhận.
Ngay khi ấy, Duy Ma Cật xuất hiện và nói:
Kính thưa ngài Ma Ha Ca Diếp, có tâm từ bi mà không rộng
khắp nên ngài bỏ nhà hào phú mà xin nhà bần hàn.” (+)
Giai thoại này, trong Huyền Thoại Duy Ma Cật, Thầy Tuệ
Sỹ hóa giải chỉ bằng một câu ngắn:
“Nếu nói là phương tiện thị hiện, Phật từ bỏ Tịnh-độ
mà hiện nơi uế trược thì có khác gì Ca-Diếp bỏ nhà giầu để đến với
người nghèo?”(+)
Ôi, lại lành thay! lành thay! Đơn giản có thế mà tôi đau
khổ bấy lâu vì không biết làm sao biện minh cho vị Đại-đệ-tử, từng
nhận được Chánh-pháp-nhãn-tạng Đức Phật trao truyền và trở thành vị
Tổ Thiền đầu tiên, gieo trồng bao hoa trái nhiệm mầu cho hàng hậu
học.
Trường hợp Đại-thần-thông Mục Kiền Liên mới thật là vi
tế. Học Phật, chúng ta đều biết rằng Đức Thế Tôn từng nhiều lần từ
chối xử dụng thần thông để thuyết pháp vì “Không ích gì khi có
khả năng biến hóa một người tí hon thành khổng lồ hoặc làm thân hình
bốc lửa các thứ. Chỉ đáng tán thưởng khi phép lạ là khả năng biến
một con người hung ác thành một bậc Thánh từ tâm quảng đại. Đó là
phép lạ của sự giáo dục. Đó là Giáo Giới Thị Đạo.” (+)
Nhưng để
có đủ mọi phương tiện uyển chuyển, Đức Thế Tôn đã chỉ trao
truyền thần thông cho Mục Kiền Liên mà thôi. Nhưng khi Duy
Ma Cật chất vấn Mục Kiền Liên lại không là lúc ngài xử dụng sở
trường mà ngài đang thuyết pháp cho hàng cư-sỹ về các pháp tu để
nhận thức được thân này là không thực, là tồn tại với một tự ngã.
Duy Ma Cật đến trước Mục Kiền Liên mà nói rằng:
“Thưa ngài Mục Kiền Liên, Pháp không chúng sinh vì xa
lìa cáu bẩn của chúng sinh. Pháp không thọ mạng vì xa lìa sinh tử.
Pháp không có con người vì tiền tế và hậu tế đều cắt đứt. Pháp
thường tịch nhiên vì diệt các tướng. Pháp lìa ngoài tướng vì không
sở duyên. Pháp không ngôn thuyết vì lìa các quán. Pháp không hình
tướng vì như hư không …Pháp như vậy, làm sao thuyết?”
Nhưng thực tế, suốt 49 năm hoằng hóa, Đức Phật đã không
ngừng thuyết pháp và trước khi nhập diệt, ngài bảo các đệ-tử: “49
năm qua, ta chưa từng nói lời nào”. Vậy lời Duy Ma Cật chất vấn Mục
Kiền Liên có phải là chê trách không? Hay đây chính là lời tán thán
về “Phép lạ của sự giáo dục” trong tinh thần:
“Người thuyết pháp thì không diễn thuyết, không khai
thị. Người nghe thì không nghe, không sở đắc. Như con người huyễn
giảng pháp cho người huyễn nghe. Sự thuyết pháp như vậy quả là thần
thông diệu dụng.” (+)
Sự dẫn
giải của thầy Tuệ Sỹ rất cô đọng ở ngay câu:
“Duy Ma Cật không đợi lúc Mục Kiền Liên đang hiện
thần thông để đối biện, mà đến ngay lúc Mục Kiền Liên đang thuyết
pháp. Chính ở đó Duy Ma Cật chỉ lối đi vào cảnh giới thần thông của
Phật” (+)
Cứ tuần tự, nhẩn nha như thế, trong cuốn Huyền Thoại Duy
Ma Cật, thầy Tuệ Sỹ đã hóa giải, đã cho thấy trong mọi môi trường,
người cư-sỹ trí tuệ vô song đó đều “cùng làm việc” với Chư Bồ Tát và
các Đại-đệ-tử của Phật, chứ không phải là chê trách nhau. Quý ngài
cùng làm việc trong chủ trương đưa ra những hình ảnh và ngôn từ
tương phản, hầu làm sáng tỏ hơn những tư tưởng quá thâm sâu, uyên áo
trong giáo pháp Đại-thừa, mà với những phương cách bình thường khó
đạt được. Như trên sân khấu phải có vai người thiện, kẻ ác, có người
khôn, kẻ dại thì người xem mới nhìn ra chân lý. Có thế, khán giả vô
minh như tôi mới được hoan hỷ ra về bằng lời dẫn giải của thầy Tuệ
Sỹ về chương Pháp Môn Bất Nhị. Đó chính là chương tôi cảm thấy bất
công sau khi ba mươi ba vị Bồ Tát trả lời câu hỏi về Bất-nhị, chẳng
được công nhận gì; còn Duy Ma Cật, chỉ im lặng mà được ca ngợi là
không còn văn tự và ngôn thuyết, ấy mới thật là vào cửa Bất-nhị!
Thì đây, trong Huyền Thoại Duy Ma Cật, thầy Tuệ Sỹ nhẹ
nhàng nói thế này:
“Nếu Văn Thù không cất tiếng ngợi khen, dễ có ai khám
phá ra ngôn ngữ của vô ngôn trong sự im lặng của Duy Ma Cật? Nếu bậc
giải Không đệ nhất không tỏ ra khiếp đảm ở đây, phàm phu nào khám
phá được cảnh giới tịch mặc vô ngôn trong ngôn ngữ lý luận ly kỳ của
Duy Ma Cật?” (+)
Như kẻ mù vừa được sáng mắt, như người lần mò trong tối
tăm vừa được dắt ra khỏi hang động, tôi đọc mãi câu này không chán,
tưởng như từng nét chữ với hình thù rõ rệt đã dính vào mỗi tế bào.
Xin đa tạ thầy Tuệ Sỹ trong kỳ vừa nhập thất.
Thời gian trôi qua, bình đẳng với mọi người, nhưng sự
hữu ích và vô ích thì thật quá khác biệt.
NAM MÔ
CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT MA HA TÁT.
Diệu Trân
(Như-Thị-Am, mùa Phật Đản 2007)
----------------
(*)
Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Thích Tuệ Sỹ
(+)
Huyền Thoại Duy Ma Cật - Thích Tuệ Sỹ |