Vị đạo sư
tối thượng
Tôn
giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những
điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại. Những vị giáo
chủ, người khai sáng ra tôn giáo đó, tất nhiên là nhà truyền giáo
đầu tiên về đạo của mình.
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại, vị giáo chủ, và cũng là nhà
truyền giáo tích cực nhất, bền bỉ nhất, đơn giản nhất, từ bi nhất,
không thể ai khác hơn là Đức Phật. Điều này không mơ hồ mà có thể
chứng nghiệm, khi ngược giòng lịch sử qua tài liệu, kinh sách, biên
khảo, nhận định v.v… từ hơn hai ngàn năm trăm năm nay.
Suốt bốn mươi
chín năm,
Đức Phật
đi không ngừng nghỉ, từ nơi giầu sang tới chốn nghèo hèn.
Đến đâu, Ngài cũng tùy duyên hóa độ, chỉ dẫn con đường tìm được sự
giải thoát rốt ráo, chấm dứt khỏi sinh tử luân hồi.
Thượng Tọa Narada Mahathera, tác giả cuốn “The Buddha” có cái nhìn
rất sâu sắc khi nhận định rằng, hình thức thành lập tăng đoàn qua óc
sáng tạo tuyệt luân của Đức Phật, chính là mô hình lý tưởng của một
xã hội bình đẳng ngày nay. Ngài thâu nhận đệ tử không phân biệt giầu
nghèo sang hèn, chỉ có sự phân định giới phẩm để nhận lãnh trách
nhiệm sinh hoạt trong Tăng đoàn. (The
Buddha established a classless society by opening the gates of the
Sangha to all deserving individuals, making no distinction between
caste or class. The only distinction was in the seniority of the
ordination).
Để nhấn mạnh rõ hơn điểm này, T.T Narada Mahathera đã dẫn chứng thêm
lời phát biểu của học giả Lord Zetland, là nhiều người rất ngạc
nhiên khi nhận ra hình thức hội chúng và thành lập Tăng đoàn mà Đức
Phật đã thực hiện thời xưa, đang là những mô hình căn bản tại các
nghị trường ngày nay (And, it may come as a surprise to many to
learn that in the assemblies of the Buddhists in India two thousand
years and more ago to be found the rudiments of our Parliamentary
practice of the present day).
Ngài cũng là vị giáo chủ tạo nên lịch sử khi chấp thuận cho người nữ
xuất gia. Bức tường bất công kiên cố không cho phép người nữ tại Ấn
Độ được bước qua ngưỡng cửa nhà bếp, đã bị phá sập một cách nhẹ
nhàng khi Đức Phật khéo léo và tế nhị đưa ra điều kiện Bát Kỉnh để
phu nhân Kiều Đàm Di có cơ hội trở thành vị ni trưởng đầu tiên của
giáo đoàn tỳ-kheo-ni, mở đầu kỷ nguyên mới cho người phụ nữ được
thăng hoa đời sống tâm linh.
H.T.Tiến sỹ K. Sri Dhammananda, tác giả cuốn “What Is This
Religion?” thì lại bầy tỏ lòng kính ngưỡng Đức Phật khi tôn xưng
Ngài là Bậc Đạo Sư Vĩ Đại của nhân loại. Những lời dạy của Ngài từ
hơn hai mươi lăm thế kỷ trước, vẫn được áp dụng một cách hài hòa,
thực tiễn cho đến ngày nay, là minh chứng hùng hồn về giá trị của
giáo pháp mà Ngài đã tìm ra. Một triết gia mà cũng là một nhà lãnh
đạo tài ba của Ấn Độ là Tiến sỹ S. Radha đã không dấu diếm niềm hãnh
diện khi khẳng định rằng, Đức Phật Cồ Đàm là vị tiêu biểu tuyệt kỷ
nhất cho mẫu người vẹn toàn sắc thái tinh hoa của Phương Đông. Tư
tưởng của Ngài ảnh hưởng sâu rộng vào đời sống nhân loại, dù người
đó có là tín đồ của Ngài hay không. Vì sao? Vì giáo lý Ngài chỉ dẫn
là con đường Trung Đạo, biểu trưng cho những hệ thống giáo dục và
đạo đức căn bản, hành trì bằng tinh thần tự do để thực thi ba điểm
chính là: Tránh điều xấu, làm điều lành và thanh tịnh tâm.
(Middle-Way, a righteous way of life, an ethico-philosophical system
and a religion of freedom and reason. It teaches us to do three main
things, namely: Keep away from bad deeds, do good and purify the
mind)
Một con người muốn hướng thiện, tất có thể biết trên lý thuyết là
tránh ác, làm thiện nhưng nếu người ấy không biết thanh tịnh tâm thì
không dễ gì kịp thời tránh ác hay nhiệt thành làm thiện. Chính vì
thế mà Ngài luôn nhắc nhở, cảnh giác chúng sanh phải quán sát tâm
hành. Hạnh phúc hay khổ đau đều do tâm tạo, nên bằng nhiều phương
thức khác nhau, những bài pháp mà Đức Phật tuyên giảng đều khuyên
dạy con người từ bỏ bản ngã vốn vị kỷ của mình để sống đời vị tha,
vì ai biết cho, người ấy sẽ giầu có.
Khi viết cuốn “The Three Greatest Men in History”, nhà sử học nổi
danh H.G. Well cũng đồng ý với giáo sư Joad rằng, trong ba vị đạo sư
vĩ đại vào thế kỷ thứ sáu trước tây lịch thì Đức Phật Cồ Đàm chính
là bậc vĩ nhân cao thượng nhất. Ấy thế mà Ngài lại luôn tiêu biểu
cho những gì cực kỳ đơn giản, hòa nhã, dạy các đệ tử nhìn Ngài như
một con người bình thường, tuyệt đối không được tôn sùng Ngài như
một đấng thần linh, vì một đấng thần linh khó có thể gần gũi với khổ
đau một cách hiện thực. Chính vì lời dạy “vô thần linh” này mà nhà
văn Bertrand Russell phải thốt lên lời cảm khái không thể kìm giữ
nổi khi ông tìm hiểu về Đạo Phật: “Ôi, Đức Phật Cồ Đàm, Ngài quả là
nhà vô thần thánh thiện nhất của nhân loại dưới bất cứ thời đại nào”
(The greatest atheist of all times)
Muốn cảm thông những lời ca ngợi này, chỉ cần nhìn tổng quát con
đường Đức Phật đã đi chúng ta cũng thấy ngay những nét tuyệt hảo về
một con người thực, tuy có mặt trên thế giới này mà vẫn như huyền
thoại bởi vì người đó đã soi tỏ được những gì tối tăm nhất, hóa giải
được những dị biệt hằn sâu nhất, an ủi được những gì khổ đau nhất,
mở rộng được những cánh cửa ngục tù kiên cố nhất … Hơn hai mươi lăm
thế kỷ trước mà Đức Phật đã thành công trong cuộc cách mạng nhân
quyền với bối cảnh lịch sử, xã hội khắc nghiệt thời đó.
Chỉ nhắc lại thôi, cũng khiến chúng ta rúng động. Một xã hội với
những giai cấp như được phân chia từ muôn kiếp trước. Sinh ra trong
nhà trưởng giả thì đương nhiên làm chủ, toàn quyền sinh sát những kẻ
sinh ra trong kiếp tôi tớ, nghèo hèn, không gì có thể chuyển hóa,
thay đổi được. Ấy thế mà, với lòng Từ Bi vô cùng, với Trí Tuệ vô
song, với Dũng Cảm vô bờ, Đức Phật đã độ cho người gánh phân nhập
Tăng đoàn. Một người ở giai cấp hạ tiện là thành phần không bao giờ
được ngẩng mặt nhìn một người ở giai cấp khác, nói chi tới việc trở
thành một vị sa môn là giai cấp mà vua quan cũng phải cung kính cúi
chào.
Thực hiện điều này, Đức Phật đã sẵn sàng chờ mọi phản ứng. Thì đây,
tin đồn đã đến tai vua Pasenadi. Nhà vua không thể tin được lời đồn
nên quyết định tìm Đức Phật mà hỏi cho ra. Các vị giáo chủ những
giáo phái khác xin tháp tùng nhà vua vì họ cũng không thể chấp nhận
một điều mà họ cho là sự sỉ nhục!
Tới trước
Kỳ-Viên-tự,
nhà vua muốn một mình vào trước nên bảo mọi người chờ bên ngoài.
Lững thững tiến về hướng tịnh thất của Đức Phật, nhà vua thấy thấp
thoáng đó đây, bóng dáng những vị tu sỹ nhẹ nhàng di động hoặc tĩnh
lặng tọa thiền. Dù trong tư thế nào, những đệ tử của Đức Phật đều
tỏa sáng năng lượng đạo hạnh, an lạc khiến nhà vua vô cùng kính
phục.
Khi vừa rẽ vào con đường có dòng suối nhỏ thì nhà vua nhìn thấy một
thầy trẻ đang thuyết pháp trên một phiến đá lớn, xung quanh, khoảng
hơn hai chục thầy khác đang lắng nghe với sự khâm phục và thích thú.
Nhà vua cũng dừng lại dăm phút và bị lôi cuốn ngay bởi nhân dáng nhu
hòa, giọng nói trầm tĩnh, lời pháp từ bi, xúc tích. Nhà vua tự nhủ,
để gặp Đức Phật xong rồi sẽ trở lại đây cúng dường vị thầy trẻ đáng
quý này.
Có ngờ đâu, khi hỏi tên người đang thuyết pháp trên phiến đá thì Đức
Phật mỉm cười nhẹ nhàng:
- Đó là Sunita, là người gánh phân mới nhập Tăng đoàn không lâu đó.
Thành trì sụp đổ cũng không thể kích động nhà vua hơn, khi nghe Đức
Phật xác nhận như thế!
Không tốn một thanh gươm, không đổ một giọt máu, mà sự bất công mọc
rễ nhiều đời tự bật gốc trước ánh sáng của Bi Trí Dũng.
Nhưng, ai là người có đủ Bi Trí Dũng để là nhà-hiền-triết kỳ
tài khi thuyết giảng những triết lý thâm sâu bằng sự đơn giản xúc
tích cho người nghe nắm bắt được?
Là nhà đạo-đức-học cao trọng khi đưa ra những quy tắc nghiêm
minh tột bực nhưng với hình thức từ bi để người nghe noi theo được?
Là nhà xã-hội-học uyên thâm khi san bằng những bất công mà
không làm xáo trộn xã hội?
Là nhà lãnh-đạo-tự-do đã tôn trọng tuyệt đối tự do của người
khác khi luôn nhắc nhở những người đi theo mình, là chớ vội theo tôi
khi chưa tự suy xét những điều tôi nói?
Là nhà-khoa-học lỗi lạc khi từng giảng nhiều lần về
lý-duyên-khởi, về sự tương nhập, tương túc mà tới năm 1986, khoa học
gia Alan Aspect mới chứng minh được sự tương dung?
Là nhà tâm-lý-học sâu sắc, nhìn Tâm như một họa sỹ tự vẽ mọi
cảnh trí, để dạy chúng sanh biết rằng, con người là những hành động
của chính họ?
Vân vân … và vân vân … Hằng hà sa số những điều mà không một vị giáo
chủ của một tôn giáo nào có thể hội tụ đủ.
Vị giáo chủ tột cùng cao thượng, tột cùng trí tuệ như thế lại là
người thường khuyến khích chúng sanh rằng: “Ta là Phật đã thành.
Các con là Phật sẽ thành”.
Sự khiêm cung của Ngài song song với ân đức vô lượng Ngài đã ban cho
nhân loại là điều chúng ta có thể hiểu, vì sao, đã hơn hai mươi lăm
thế kỷ, giáo lý của Ngài vẫn rực sáng với mọi thời gian, không gian.
NAM
MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Huệ Trân
(Cốc Thảnh Thơi – Tháng Ba, 2008)
|