Bãi chiến trường
Tựa bài viết có vẻ bạo động quá, nhưng xin thưa ngay, đây chỉ là bãi
chiến của tâm, không có gươm đao chém giết gì cả.
Nhưng ai bảo bãi chiến này không khốc liệt bằng bãi chiến của những
đối tượng thù nghịch, quyết tiêu diệt nhau bằng khí giới thế gian?
Trong kinh Phạm Võng hình như có dạy đại khái thế này: “Niết-bàn
tùy thuộc nơi khả năng buông bỏ của mình. Dù ta có gạn lọc phiền
não, an trú được trong hiện tại nhưng nếu tâm ta vẫn phải cẩn thận
theo dõi xem phiền não đã đi chưa? an lạc đã tới chưa? Và nếu an lạc
đã tới thì phải vội vã nắm bắt ngay, thì đấy chưa thực là Niết-bàn”
Chúng ta thường dễ dàng chấp nhận cái tương đối bằng khái niệm
“không có gì tuyệt đối”. Nhưng thực tế, định lực, trí lực của ta
thường nhiều hơn ta tưởng, như người đang đau chân, đi khập khiễng,
chậm chạp nhưng nếu bất ngờ bị kẻ gian rượt đuổi thì người ấy sẽ
chạy rất nhanh, rất khỏe, quên hẳn cái chân đau, vì khi ấy là chạy
để sống còn! Chỉ khi đã thoát hiểm, dừng lại mới cảm nhận sự ê ẩm
của toàn thân và … đau chân tiếp.
Quán tâm để tìm ra những vi tế của cảm thọ cũng thế. Nương vào lẽ Vô
Thường để xả bỏ những hệ lụy ngỡ là Thường, ta đã vội tưởng đạt được
an lạc rồi ư? Chưa chắc đâu vì chỉ khi ý thức an lạc chứ không cần
dụng công nắm bắt nó, khi ấy mới thực sự là thong dong, an lạc; chứ
mới xả được chút phiền não đã tưởng an lạc, vội giữ chặt, nắm bắt vì
sợ nó bay đi, thì mới chỉ là vỏ ngoài của an lạc, một hạt sương
phiền não rơi xuống, cũng đủ vỡ tan cái vỏ mong manh ấy. Nghĩa là,
khi phải vất vả chống trả với khổ đau, phải biến ta thành “bãi chiến
trường” để tìm an lạc thì an lạc đó chỉ ngắn ngủi, nhất thời. Khổ
đau và phiền não như những giặc cướp luôn túc trực trước cửa nhà,
chỉ cần ta lơ là, hé mở (lục căn) là chúng xâm nhập ngay và muốn tìm
an lạc, ta lại phải “ra chiến trường” để vất vả chiến đấu tiếp!
Nhưng phàm, muốn đạt tới mục đích gì đã đặt ra mà không dụng công
quyết tâm quyết chí đi tới thì làm sao có thành quả! Với Tâm, hành
động quyết đi tới mục đích là hành động quyết xông pha vào bãi chiến
trường, nơi giặc vô minh, phiền não thường xuyên hoành hành, dẫn dắt
hành giả vào những vọng tưởng mờ mịt, tạo nghiệp chập chùng chẳng
thấy lối ra. Loại giặc này vô hình vô tướng nên khí giới để diệt trừ
chúng cũng phải cực kỳ vi tế. Trong trận chiến này, trước hết, hành
giả phải có niềm tin rằng bên trong hình hài của thân tứ đại này là
sự hiện hữu vô tướng nhưng thường hằng của Chân Tâm.
“Ngoại hiện phàm phu chi tướng
Nội bí Bồ Tát chi tâm”
Bên ngoài hiện tướng là phàm phu nhưng bên trong ẩn tâm Bồ Tát.
Chân Tâm này có nhiều tên gọi, tùy tông phái, tông môn, tùy ngay cả
nơi ý thích của hành giả. Gọi là gì cũng được nhưng bản chất của nó
thì không hề đổi thay. Bản chất đó là sự nhận biết đến, đi của mọi
sự vật, mọi cảm thọ bằng cái nhận biết thuần khiết, không qua một
lăng kính phân biệt nào. Nhìn bông hoa thì nhận là bông hoa. Hoa mầu
đỏ thì là hoa đỏ, không phân biệt héo tươi, tốt xấu gì! Cũng bởi
không khởi tâm phân biệt nên cái nhận biết đó rỗng rang, thảnh thơi,
bình đẳng, khoáng đãng. Chân Tâm này là không gian mênh mông, tĩnh
lặng, vô ngôn nhưng lại có khả năng siêu việt nhận biết tất cả mọi
cảm thọ đang vận hành, từ ở tầng cạn là Ý đến tầng sâu là Thức. Nếu
cái nhận biết này có một trái tim thì ta có thể hình dung trái tim
đó luôn mở rộng với vạn hữu, mọi người và mọi loài, thinh lặng và
sáng rỡ.
Hình hài phàm phu chỉ là khối thịt xương do duyên hợp từ đất, nước,
gió, lửa, tự nó không có khả năng thấy, nghe, hay cảm nhận gì, mà
cái thấy được, nghe được, nhận biết được là từ Chân Tâm
(cái-nhận-biết-bên trong), là con-người-thật, là Phật-tánh, là Đức
Phật. Mỗi hình hài phàm phu đều mang một Đức Phật bên trong, nhưng
phàm phu vẫn rong ruổi khổ nhọc đi tìm ông Phật bên ngoài vì không
đủ thông minh và không đủ niềm tin là đang sẵn có ông Phật bên
trong! Đức Thế Tôn biết thế, thương hại nhân gian quá, mà phải xác
quyết rằng: “Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành”.
Lời Phật nói, chúng ta từng nghe. Kinh Phật dạy, chúng ta từng học
nhưng nghiệp chướng phiền não cũng vẫn theo chúng ta từng bước vì
những huân tập sâu dầy của kiếp nhân sinh không một sớm một chiều
gột bỏ được. Chính tấm màn vô minh này đã che mờ Ông Phật hằng có
bên trong. Ông Phật này luôn lặng thinh, tỉnh sáng, tọa ngay nơi lằn
ranh rất mỏng giữa mê và ngộ. Vì lằn ranh quá vi tế nên ta vẫn vấp
ngã, lạc nẻo mà không hay! Tôi và Buồn phải ở hai hình thái, chủ thể
và đối tượng; nếu mơ màng nói “Tôi buồn” là rất dễ biến thành “Nỗi
buồn của tôi” để bị nhận chìm trong hố thẳm đau buồn đó; trong khi
thực thể, “Tôi” là chủ, đứng nhìn “Buồn” là khách. Chủ không đổi
rời, chỉ có khách đến rồi đi nhưng vọng tâm vô minh đã không kịp
nhìn ra lằn ranh đó mà đồng hóa hai vai trò.
Chính nơi đây, bãi chiến trường thường xảy ra khi một lúc nào đó, ta
bị sức ép quá nặng của khổ đau mà bật lên ước muốn tìm cầu giải
thoát. Trên đường tìm giác ngộ, việc chọn pháp môn hay tư thế thích
hợp căn cơ mình chỉ là hình thức để nương tựa. Động lực thiết yếu
phải khởi từ niềm khát khao mãnh liệt, cực kỳ mạnh mẽ và nghiêm túc,
như câu chuyên bà già cô đơn trong chòi lá dưới chân núi. Bà cụ chỉ
học lóm được dăm câu kệ, trong đó có câu đúng, câu sai nhưng cụ nào
biết, mà chí tâm chí thành, tận lực trì tụng ngày đêm nên chính cái
chân tâm ấy đã chiêu cảm tới Chư Phật, biểu hiện thành hào quang rực
rỡ phát ra từ căn chòi nghèo nàn đó.
Hành giả đi từng bước, phải lần tìm cái nguồn sinh ra vọng rồi “lâm
chiến” với nó bằng tất cả sự tự tin, dũng mãnh của ý chí tìm cầu
giải thoát giác ngộ. Trận chiến này nhẹ nhàng hay khốc liệt, trường
kỳ hay đoản kỳ là tùy thuộc trí tuệ và quyết tâm của hành giả.
Theo kinh nghiệm của bao người xưa thì khi công phu tu tập đạt tới
trạng thái rỗng-không-tuyệt-đối là lúc ta có thể nhìn thấy
mặt-mũi-thật của bao khổ đau mà ta từng bị giam hãm ngày đêm.
Hóa ra, cái khổ đau đó vẫn đứng tách rời. Nó là đối tượng bị nhìn.
Ta là kẻ đứng nhìn. Nó và ta chẳng có chi ràng buộc, sao nó lại có
khả năng khiến ta khổ đau?
Khi tâm-vọng bị tâm-không nhận diện một cách dũng cảm như thế, nó sẽ
lập tức biến dạng từ khổ đau thành phương tiện giải thoát hữu hiệu
nhất cho hành giả!
Đó là, sự kỳ diệu khi ta nhận ra cái ta quyết diệt, quyết tìm, đã
hòa tan thành cái rỗng rang, cái nhận biết mọi sự vật hoàn toàn qua
cảm quan khác.
Đó là, qua bao nhiêu quá trình tu tập khổ nhọc, cái ta tìm ra chẳng
có gì là mới mẻ! Nó chính là những cái vẫn Từng-Là, Đang-Là; chỉ
khác, ta không lầm lẫn nhìn nó Là-Ta hay Của-Ta nữa. Ta vừa giải
thoát khỏi sự ràng buộc với nó. Ta đã bước ra, đã tách rời. Ta trở
về được ngôi vị chủ-nhân-ông mà ta vẫn-hằng-là.
Tới đây, bãi chiến trường đã lặng!
Ôi, để bước qua được lằn ranh Mê và Ngộ rất vi tế này, biết bao bãi
Chiến-Trường-Tâm khốc liệt đã và đang xảy ra, đã cứu vớt hoặc dìm
sâu bao hành giả miệt mài khổ lụy. Có lẽ biết thế nên Ngài Tuệ Trung
Thượng Sỹ đã sách tấn chúng ta qua ba câu thơ ngắn nhưng thật đầy
đủ, khi diễn tả về Tâm:
“Tâm, tâm, tâm, nan khả tầm
Khoan thời biến pháp giới,
Trách gĩa bất dung châm”
Một thiền-sư đã dịch rất sát nghĩa là:
“Tâm, tâm, tâm, khó thể tìm
Rộng thời trùm pháp giới,
Hẹp không dung mũi kim”
Nghe được lời khuyến tấn này, dù đã bị quần thảo tả tơi, tôi lại
hăng hái lên đường. Ra bãi chiến trường lần này, khí giới tôi mang
theo là hạnh thứ ba, thứ tư và thứ năm trong Lục Độ Ba La Mật. Đó là
Nhẫn Nhục, Tinh Tấn và Thiền Định.
Tôi tự biết, năng lượng của mỗi hạnh, tôi đều chỉ có rất giới hạn,
nhưng nương theo lời cổ nhân “Biết mình biết người, trăm trận
trăm thắng”, tôi có thể thành thật tự nhủ rằng: “Biết mình
biết người, trăm trận … một thắng!”
Chiến đấu với những đối thủ hữu hình còn dễ, chứ đối tượng đã vô
hình, lại, khi bao trùm cả pháp giới, lúc nhỏ như mũi kim thì trận
chiến này chẳng đơn giản đâu! Chiến sỹ lơ mơ như tôi, trăm trận
thắng một cũng là … kỳ công lắm! Nhưng nếu thắng được một, rồi thừa
thắng xông lên, tiếp tục chiến đấu, biết đâu …..
Vâng, biết đâu …. biết đâu …..
Đó là lời các Bậc Thầy Từ Bi luôn khuyến khích chúng ta.
Điều quan trọng là hãy can đảm cất bước.
NAM
MÔ THƯỜNG TINH TẤN BỒ TÁT
Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am, chớm đông 2008)
|