Tịnh độ ngay nơi tâm tịnh
Chúng
ta đang ở vào thời mạt pháp. Trong thời này, pháp môn Tịnh Độ là
phương tiện có thể đưa hành giả qua sông mê, tới bờ giác vì chỉ cần
sự thành tâm niệm Phật bền bỉ, không phải toát mồ hôi vận dụng trí
lực gì cả.
Tôn chỉ của pháp môn này được căn cứ trên kinh A Di Đà mà dựng lập.
Ba yếu tố chính mà pháp môn đòi hỏi nơi hành giả là Tín, Nguyện và
Hành.
Tín là tin sâu. Nguyện là mong muốn hết sức tha thiết. Hành là thực
hành việc trì danh hiệu Phật A Di Đà.
Hành giả tin sâu những gì?
- Tin Đức Thích Ca Như Lai là đấng Giác Ngộ hoàn toàn.
- Tin cõi Tây Phương Cực Lạc là cõi có thật, do Đức Phật A Di Đà làm
Giáo Chủ.
- Tin Chư Phật sáu phương đều ca ngợi pháp môn Tịnh Độ là công đức
bất khả tư nghì.
- Tin cõi Ta-bà ngũ trược do chiêu cảm ác nghiệp của chúng sanh; còn
cõi Cực Lạc thanh tịnh là do tịnh nghiệp chúng sanh mà thành.
Hành giả nguyện thiết những gì?:
- Nguyện hướng về tánh giác của mình. Tánh này là Phật tánh, ai cũng
sẵn, nhưng thường bị phiền não mê lầm che lấp.
- Nguyện ly khổ đắc lạc. Bỏ bát-khổ cõi Ta-bà là sinh, lão, bệnh,
tử, xa người thương, gần người ghét, mong cầu không được, năm ấm
không an. Đạt an lạc cõi Cực Lạc là vui hóa sinh hoa sen, vui tự tại
không bệnh, vui thọ mạng, không tứ đại phân ly …
- Nguyện được lên ngôi cửu phẩm không còn thối chuyển.
- Nguyện được thấy Phật A Di Đà.
Hành giả hành trì những gì?
- Chỉ một lòng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, niệm thiết tha chân
thật, niệm thành tiếng cũng như niệm thầm, phải kết được những câu
niệm Phật thành chuỗi, thành phiến để đạt được nhất tâm bất loạn.
Ba yếu tố này như cái đỉnh ba chân, thiếu một chân, cái đỉnh sẽ ngã
đổ. Đây là ba món tư lương mà những hành giả tu pháp môn Tịnh Độ cần
có trên lộ trình về Tây Phương Cực Lạc. Được vãng sanh hay không là
do hành giả có hay không có tin và nguyện; và phẩm vị cao thấp là do
hành trì cạn hay sâu.
Hành giả pháp môn Tịnh Độ, ngoài niệm hồng danh Đức Phật A Di Đà,
còn được hướng dẫn tụng hai cuốn kinh đại thừa là Kinh Vô Lượng Thọ
và Kinh A Di Đà. Những Kinh này đều giới thiệu cõi nước đẹp đẽ của
giáo chủ Tây Phương và cùng đề cập tới một chi tiết rất từ bi, rất
đặc biệt. Đó là, nơi đây không chỉ hoàn toàn dành cho các bậc Thánh
mà cũng có chỗ cho kẻ phàm, vì kẻ phàm nào quyết tâm tinh tấn tu
học, quyết buông bỏ hệ lụy thế gian, quyết xin vãng sanh về cõi Phật
thì giây phút lâm chung, dù còn nghiệp cõi này chưa trả hết, chư
Phật vẫn hoan hỷ cho “quẩy nghiệp mà đi”, danh từ nhà Phật gọi là
“Đới nghiệp vãng sanh”, lên cõi Phật tu tiếp và xả tiếp.
Với lòng từ bi vô lượng này của chư Phật mà cõi Cực Lạc mới có
Phàm-Thánh-đồng-cư. Khi phàm được ở cùng cõi nước với Thánh để tu
tiếp thì nhờ năng lượng Thánh, sự chuyển hóa nơi phàm sẽ hạnh thông
gấp bội vì theo tinh thần lời Đức Phật Thích Ca khuyến tấn “Ta là
Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” thì trong tự
thân mỗi cá nhân đều có sẵn chất Thánh; hội đủ duyên, chất Thánh đó
sẽ hiển lộ nhanh chóng hơn.
Được ở trong môi trường Phàm-Thánh-đồng-cư, chính là cơ duyên đó.
Nhưng chúng ta có cần chờ tới khi vãng sanh về Cực Lạc mới được
hưởng hạnh phúc Phàm-Thánh-đồng-cư không?
Có lẽ là không.
Chúng ta có thể tạo cho nhau cảnh giới đó ngay bây giờ, ngay tại
đây. Chúng ta không lạc quan quá đâu. Xin cùng giở kinh A Di Đà, rồi
“y nghĩa bất y ngữ”, chúng ta sẽ thấy. Này nhé:
Thế giới Cực Lạc có ao bảy báu, cát vàng ở dưới đáy ao tỏa ánh sáng
xung quanh; thì thế giới Ta-bà cũng có biển xanh mây trắng, đáy biển
cũng có biết bao san hô lộng lẫy, bao loài hải sản lớn nhỏ đủ mầu
thảnh thơi bơi lội.
Thế giới Cực Lạc có những ngọn gió thơm thổi qua hàng cây báu phát
ra vô lượng pháp âm vi diệu khiến người nghe âm thanh đó liền được
tâm thanh tịnh; thì cõi Ta-bà cũng có tiếng chuông, tiếng khánh,
tiếng đại hồng chung, người nghe được âm thanh mầu nhiệm đó cũng
thức tỉnh khỏi cuồng mê phiền não.
Thế giới Cực Lạc có hoa sen sắc vàng, hồng, tía; thì cõi Ta-bà cũng
có ngàn hoa dị thảo nở rộ bốn mùa.
Thế giới Cực Lạc có các loài chim Khổng Tước, Anh Võ, Xá Lợi, Ca
Lăng Tần Già, Cọng Mạng thuyết pháp, người nghe được sẽ khởi tâm
niệm Phật; thì thế giới Ta-bà cũng có Oanh, Yến, Họa Mi … cùng nhau
líu lo, ai nghe tiếng hót vui vẻ đó, phiền muộn cũng nguôi ngoai.
Còn nhiều, nhiều nữa. Thế giới Ta-bà có thiếu gì, so với thế giới
Cực Lạc đâu. Nhưng chúng sanh ở Ta-bà đầy khổ đau, sân hận, vì chúng
sanh thường vụng về để cho tâm mình chìm trong vô minh như thế!
Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng chúng sanh nào muốn hiểu rõ, thấy rõ chư
Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai thì phải biết quán, là bản
chất của tất cả các pháp đều do TÂM tạo:
“Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng pháp quán giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo”
Phải chăng tinh thần bài kệ này dạy rằng cõi Tịnh Độ là sáng tạo của
tâm chư Phật, chư Bồ Tát, mà cũng là sáng tạo của chúng sanh, nếu
tâm chúng sanh biết quán như thế.
Đạo tràng Tịnh Độ mở ra là để những hành giả theo pháp môn Tịnh Độ
cùng ngồi với nhau, nhất tâm nhất trí sáng tạo ra cõi nước Cực Lạc
ngay hiện tiền, ngay nơi tiếng niệm Phật tiếp nối nhau, trầm hùng
cất lên, hòa vào âm thanh đại hồng chung ngân dài, tiếng khánh lảnh
lót, tiếng mõ khoan thai. “Tự tánh Di Đà. Duy tâm Tịnh Độ”
thì thế nào tiếng niệm Phật thiết tha chẳng nở thành đóa sen trong
tâm hành giả. Với đóa sen Tịnh Độ trong tâm, cần thêm một chút quán
chiếu, chúng ta sẽ nhận ra lời trong kinh khi đề cập “Chư
thượng thiện nhân câu hội nhất xứ”
và những vị Bồ Tát “Nhất sanh bổ xứ”. Họ chẳng ở đâu
xa. Họ ngay quanh chúng ta. Họ có thể đang là Thầy ta. Cũng có thể
đang là bạn ta. Và ngay chúng ta, cũng đôi lúc có thể là như thế,
với họ.
Đó là những phút giây chúng ta niệm Phật đạt tới nhất tâm bất loạn
thì chính khi đó tâm chúng ta trở thành giống như tâm của các bậc
thiện nhân. Đơn giản thế thôi, nên kinh A Di Đà mới dạy “ Nhược
hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục
sanh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng giai đắc bất thối
chuyển ư a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam bồ-đề, ư bỉ quốc độ nhược dĩ sanh,
nhược kim sanh, nhược đương sanh”, ý nói là, ngay khi hành giả
chí tâm phát lời nguyện sanh về thế giới Cực Lạc là lập tức đã
sanh rồi, chứ không can chi hoàn cảnh khi ấy là hành giả sẽ
sanh, đang sanh hay đã sanh. Ở đây, phải hiểu đã sanh rồi là
nở sẵn được đóa sen trên cõi Cực Lạc. Đóa sen đó chờ ngày hành giả
về với Phật. Nó tăng trưởng tốt tươi hay lụi tàn héo úa là do thời
gian còn ở Ta-bà, hành giả có tiếp tục tu hành tinh tấn hay không.
Sáng tạo của sự phát bồ-đề-tâm mầu nhiệm như thế nên suốt khóa tu
niệm Phật chín ngày vừa qua tại chùa Phật Tổ tỉnh
Long Beach
đã đem lại biết bao hạnh phúc cho hàng trăm Phật tử xa gần về tham
dự.
Khóa tu chín ngày liên tục, từ 20 tháng 12 tới 28 tháng 12 năm 2008,
mỗi ngày ba thời tụng kinh, niệm Phật, kinh hành, thuyết pháp và
pháp đàm, từ tám giờ sáng đến 8 giờ tối.
Đặc biệt, chiều thứ bảy 27 tháng 12, nhị vị Đại Đức Thường Tín và
Thường Chơn đã chỉ dẫn Phật tử cách thức Tam Bộ Nhất Bái. Và đúng
sáu giờ chiều, sau hai ngày mưa to gió lớn vẫn không làm chùn bước
chân bao người con Phật, thì đất trời đành êm ả, bình lặng, yểm trợ
đoàn Phật tử nối theo nhau trong trật tự và chánh niệm. Tiếng niệm
Phật vang lên theo nhip khánh của quý thầy hướng dẫn, cứ ba bước,
đoàn người lại đồng loạt, năm vóc sát đất, quỳ xuống nền sân xi
măng, kính cẩn, lạy một lạy.
Từng bước, từng lạy, hẳn là trong tâm mỗi hành giả đều rưng rưng
hình ảnh đại lão hòa thượng Hư Vân, người đã báo hiếu cha mẹ bằng
lời phát nguyện ba bước lạy một lạy, khởi từ hướng đông, núi Phổ Đà
tới hướng bắc, núi Ngũ Đài. Suốt thời gian thực hành hạnh nguyện,
chỉ trừ khi qua sông lội suối hay bão tố không thể cất bước, ngoài
ra, ngài không hề ngưng nghỉ. Vậy mà, cũng hơn ba năm ròng rã ngài
mới tới được chùa Hiển Thông trên núi Ngũ Đài.
Đoàn Phật tử phát nguyện lạy Tam Bộ Nhất Bái, tuy chỉ đi vòng quanh
bên ngoài khuôn viên chùa Phật Tổ, nhưng tấm lòng cung kính cúng
dường thì mênh mông vô hạn. Chẳng thế mà sau Tam Bộ Nhất Bái, hàng
trăm Phật tử lại tham dự Hội Hoa Đăng, mỗi người nhận một ngọn nến
lung linh thắp trong đóa sen bằng thủy tinh, rồi cùng kinh hành niệm
Phật quanh chánh điện. Ánh nến tỏa sáng theo từng bước chân, nhắc
nhở ánh Vô Lượng Quang, nếu ta luôn giữ tâm chánh niệm.
Cao điểm của lòng thành dũng mãnh là Chư Tôn Đức, Tăng, Ni và đại
chúng đã thực hiện lời phát nguyện niệm Phật suốt đêm thứ bảy để cầu
nguyện cho nền hòa bình và an lạc của một thế giới đang chìm đắm
trong quá nhiều tai ương, thảm họa do cả từ thiên tai lẫn nhân tạo.
Trăng khuya nghiêng xuống nghe kinh có phải là vầng trăng Lăng Già
từng lơ lửng trên cổng tam quan tháng tám? Và cho tới hửng đông,
tiếng niệm Phật vẫn âm vang có phải là hồi-chuông-thức-chúng, tới
những ai còn say ngủ trong vô thường mộng ảo?
Với bao nhiêu tâm thành khẩn thiết như vậy, khóa tu niệm Phật chín
ngày tại chùa Phật Tổ tỉnh Long Beach để hoàn thành món quà đẹp đẽ,
dâng lên cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, cũng đã đồng thời chứng
minh văn kinh: “TỊNH ĐỘ NGAY NƠI TÂM TỊNH”
NAM
MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM
MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am, những ngày cuối năm 2008)
|