Về làng
Thế là mùa An Cư Kiết Đông năm nay tôi lại được qua Pháp, về Làng.
Ủa, sao Pháp là “qua”, mà Làng lại là “về”?
Âm thanh của bốn tiếng này chạy qua đầu một cách rất tự nhiên, không
hề sắp xếp hay suy nghĩ, nhưng nó chạy qua rồi, mới nhận ra.
Có phải chữ “về” thường để chỉ nơi chốn thân thương, ấm cúng,
nơi có những người chờ đợi, hoặc nơi chính ta mong đợi? Đi làm về
(nhà). Ra tỉnh về (quê). Mới ở xa về (gia đình) v.v…
Nhưng
Làng Mai là ở nước Pháp, là xứ người chứ có phải làng xóm ở quê
hương mình đâu, sao hai tiếng “Về Làng” lại hiện lên, gần gũi
và ấm cúng như thế?
Ôi là cái tâm phân biệt rắc rối này! Thử nhắm mắt lại, thở và cười
đi! Thế thôi. Rồi cảm nhận những cảm thọ thuần khiết, tinh khôi từ
trái tim rộng mở, xem sẽ thấy gì nào! Thở. Cười. Thở. Cười. Về Làng.
Thở. Về Làng. Cười. Cả không gian mênh mông vô tận đang mở ra cùng
với thở và cười …
Thì ra đơn giản quá! bước chân lữ thứ đang Về Làng vì nơi đó có tình
thương, có sự hiểu biết, có lòng từ bi, có sự chia sẻ, có dạy dỗ, có
chăm sóc, có học hỏi, có hòa đồng, có hoa biết thở, có lá biết cười,
có chuông nhắc nhở, có chim thuyết pháp, có suối biết đàn …Người và
vạn hữu nơi đó như quyện vào nhau từng giây từng phút để cùng tỉnh
thức, để cùng thăng hoa trong mỗi sát na. Những nơi như thế luôn gọi
ta về, gọi thầm lặng bằng chính bản chất kỳ diệu từ nơi ấy chứ chẳng
hề cần tới hành động, ngôn ngữ nào. Những nơi như thế, dù ở bất cứ
đâu trên đại địa, dù bất cứ tên gọi là gì, nơi đó cũng đều là Quê
Hương Tâm Linh với những ai khẩn thiết đi tìm dòng suối ngọt giữa sa
mạc khổ đau sinh tử và khô cạn tình người.
Hai năm rồi, nay tôi lại được Về Làng. Chuyến bay dài, từ Los
Angeles, Hoa Kỳ, đáp xuống phi trường Charles De Gaulle (CDG) Paris,
rồi từ đó chuyển máy bay tới Bordeaux. Tại đây, tôi may mắn được anh
Guy Pasteur, người hai năm trước đã đón tôi. Nay, Sư Cô Chân Không
điện thư bảo “Nếu em đến Bordeaux lúc 6 giờ chiều thì anh Guy
Pasteur đã đi làm về, có thể lại đưa em về Làng được đó”. Cùng
với điện thư khuyến khích này, sư cô cho tôi số điện thoại của anh.
Rồi, giữa sự “sợ làm phiền” và “liều mạng tìm đường
xe lửa khi trời đã tối”, tôi vì nhát gan nên đã chọn sự “làm
phiền”. Nhưng giọng nói vui vẻ từ đầu giây bên kia khi tôi
gọi tới, đã cho tôi niềm an tâm là anh rất hoan hỷ giúp tôi, không
có chi phiền cả. Anh còn bảo, sẽ ghi rõ trên cuốn lịch, ngày giờ tôi
xuống phi trường, để tôi đừng lo anh quên.
Cám ơn anh Guy Pasteur.
“Un lotus pour vous. Bouddhas-en-devenir”
Lần trước, khi xuống phi trường CDG, tôi chỉ có 25 phút để chạy ra
chuyến bay đang chờ sẵn ngoài phi đạo, đi Bordeaux, nên không hề
nhìn ngang ngó dọc gì ở CDG cả!
Lần này, tôi có những hai tiếng đồng hồ thảnh thơi giữa hai chuyến
bay nên thong thả ghé quán, mua một ly cà phê rồi bắt đầu “nhàn
cư vi bất thiện!” Bất thiện đây là cái tâm lang thang nhớ
tưởng vẩn vơ chứ không phải là làm hành động bất thiện nào đâu!
Trong vòng gần mười năm qua, tôi đã từng dừng chân ở phi trường CDG
này dăm lần, mà lần đáng nhớ nhất là lần đầu tiên, được ông thầy
người Pháp, dạy lớp Pháp văn ở Cerritos College dẫn 42 đứa học trò
đủ mọi quốc tịch từ bên Mỹ sang Paris trong chương trình trao đổi
sinh hoạt với sinh viên toàn cầu về tham dự.
Tôi là một, trong 42 đứa học trò đó. Chín năm trước, tóc cũng đã bắt
đầu muối tiêu rồi, vậy mà còn vác cặp đến trường chen đua với lớp
trẻ. Không biết tôi can đảm hay chỉ là “điếc không sợ súng”?
Ly cà phê đậm với hai tiếng đồng hồ nhàn hạ ở phi trường đã dẫn trí
tưởng tôi lang thang về ký túc xá Fondation Deutsch nằm trong La
Cité Universitaire, hiên ngang tọa lạc suốt mấy dãy đường, từ 1 tới
61 Boulevard Jourdan, trung tâm Paris. Nơi đó, tôi đã một mình được
một căn phòng nhỏ trong suốt thời gian lưu trú. Rồi mỗi ngày, bước
chân học trò từ đại lộ Raspail băng qua vườn Luxembourg để tới lớp
Phonétique ở đường St. Jacque, thế nào chúng tôi cũng phải dừng ở
quầy hạt dẻ nướng của ông già Ấn Độ để mua một túi hạt dẻ thơm lừng,
vừa đi vừa bóc, vừa suýt xoa. Những giờ tan lớp từ Sorbonne ra thì
không thể không ghé vào những quán sách dọc đại lộ St. Michel để mà
lục lọi.
Chương trình của chúng tôi, chỉ học buổi sáng với thời khóa tùy theo
mỗi lớp, ở mỗi địa điểm, còn buổi chiều thì nhóm nào theo thầy giáo
của nhóm đó, đi tham quan, mà chúng tôi chơi chữ, gọi là “học
đường”, nghĩa là học hỏi mọi thứ ở ngoài đường.
Giáo sư Roland Bellugue không chỉ là một ông thầy tận tâm mà còn là
một hướng dẫn viên tuyệt vời. Chỉ với thời gian ngắn ngủi hơn một
tháng, vừa học vừa chơi mà thầy đã dẫn chúng tôi đi cùng khắp những
địa danh nổi tiếng. Tới nhà hát lộng lẫy Opéra Garnier xem vũ
ballet, tới hội trường La Sainte Chapelle nghe giàn hòa tấu Les
Archets de France trình diễn nhạc cổ điển, thăm các viện bảo tàng
lớn, nhỏ quanh Paris, trong đó, tất nhiên không thể thiếu Louvre,
nơi được nghiên cứu là, nếu mắt bạn chỉ dừng lại một phút trên mỗi
tác phẩm trưng bầy ở đó thôi, thì cũng ít nhất một năm rưỡi mới nhìn
hết! Chúng tôi chỉ ở đó từ sáng đến tối nên coi như … chưa nhìn được
gì cả!
Những cuối tuần, chúng tôi được đi xa hơn. Lên xe lửa tới Versailles
để thăm từng phòng vua chúa trong những lâu đài mênh mông, đi xe bus
tới thành phố cổ Saint-Malo ven biển, chạy suốt sa mạc mênh mông để
đến Le Mont Saint-Michel, rồi thăm Chateaux de la Loire với những
lâu đài cổ và vườn hoa Villandry nổi tiếng, thăm từng ngõ ngách
trong lâu đài rực rỡ Vaux-Le-Vicomte, vẫn còn được công nhận là một
tuyệt tác nghệ thuật kiến trúc từ thế kỷ 17 đến nay.
Chúng tôi đã học và chơi thỏa thích, như không biết mỏi mệt, nhưng
chặng dừng ở Normandie, khi đứng trên bãi cát của bãi biển Omaha,
tôi đã bật khóc. Nơi đây. Ngay tại nơi đây. Ngay bờ cát này, đêm
mồng 5 rạng ngày 6 tháng 6 năm 1944 quân đội đồng minh đã đổ bộ với
đợt đầu 120,000 chiến sỹ cùng 20,000 chiến xa để quyết tử với lực
lượng Đức Quốc Xã đang tham vọng làm bá chủ hoàn cầu!
Đó là ngày mang cái tên rất ngắn mà tinh thần, sự tổn thương và giá
trị lịch sử lại rất dài, rất lớn: ngày D-DAY.
Lần đổ bộ để chiến đấu cho nền hòa bình và tự do toàn cầu đó, riêng
Hoa Kỳ đã đóng góp 9,386 ngôi mộ tại đây, mà cho đến nay vẫn còn 307
bia đá được ghi là “Unknowns”!
Trang sử hào hùng và bi thảm này chưa bao giờ mờ nét trên dòng sử
bất tận của nhân loại.
Hai tiếng đồng hồ ngồi chờ chuyến bay tới Bordeaux, đã làm sống dậy
trong tôi bao cảm xúc bồi hồi về những cống hiến bi tráng cho lý
tưởng Tự Do, Nhân Bản, Nhân Quyền. Những cống hiến này, dù nhìn dưới
bất cứ lăng kính nào cũng không thể phủ nhận sự hy sinh và lòng dũng
cảm.
Cảm xúc này cũng không thể không đưa tôi về quê hương, khi cả thế
giới đều đã biết, hơn tám mươi triệu người Việt Nam vẫn đang sống
trong sự kiềm tỏa của nhà nước. Bất luận làm gì, từ học hành, buôn
bán, tu tập, đi đứng, nói năng, viết lách …nhất nhất đều qua sự kiểm
soát của nhà nước. Nhà nước gật, thì được làm, nhà nước lắc, thì dẹp
ngay. Những ai còn chần chừ chưa dẹp, sẽ mang tội, cái tội đã buộc
nhà nước phải dối trá, phải đàn áp, thẳng tay hoặc dấu tay, trực
tiếp hoặc gián tiếp!
Sự độc tài ở những xứ thiếu tự do vẫn luôn mơ hồ có cùng một lằn
ranh mờ nhạt. Lằn ranh đó thường dừng lại trước một lãnh vực rất tế
nhị và nhạy cảm. Đó là lãnh vực tôn giáo. Sử sách trên khắp thế giới
đều chứng minh điều
này. Người dân ở những xứ độc
tài thường bị kiềm chế, cướp đoạt mọi thứ quyền
căn bản, theo từng môi trường, từng lớp lang che đậy vụng về dưới
nhiều chiếc mặt nạ. Nhưng, điều cuối cùng người dân phải mất và kẻ
cầm quyền phải tự lột mặt nạ thì đa phần thường xảy ra ở lãnh vực
tôn giáo. Điều đó nói lên sự tự do tôn giáo quan trọng đến thế nào.
Kẻ tham quyền, độc tài đảng trị cũng biết, nhưng lòng tham không
dừng được thì vẫn là không, vẫn dẫm đạp lên đồng bào mình bằng tất
cả sở trường của tàn nhẫn, nham hiểm, vô luân, lừa gạt … dù biết
rằng khi người dân bị mất tới cái quyền thiêng liêng cuối cùng đó,
là đã không còn gì để mất nữa!
Không còn gì để mất sẽ không còn gì để sợ!
Những gì cực đẹp và cực xấu sẽ hiển lộ nơi đây.
Lòng quặn thắt khi nghĩ tới những huynh đệ tôi chưa từng gặp nhưng
đã như gặp tự kiếp nào. Cùng một mầu áo, một mầu khăn, chúng tôi đã
may mắn được bước vào Nhà Như-Lai với tất cả tin yêu và hoài bão dấn
thân cứu mình, giúp người. Chúng tôi đang hạnh phúc. Chúng tôi luôn
hạnh phúc vì chúng tôi có thể thấy được bằng mắt, nghe được bằng
tai, cảm được bằng tấm lòng, là những người tìm đến chúng tôi, hoặc
chúng tôi tìm đến họ, để chia sẻ, để an ủi, để nâng đỡ, đều đã và
đang được chuyển hóa. Chúng tôi thấy được nơi họ, sự khổ đau vơi đi
và niềm vui nhẹ đến. Thế giới mới mẻ này là hiện thực, với những
người thực, những cảnh thực chứ không phải huyền thoại, không phải
truyện kể mơ hồ. Cũng không phải chỉ ở một nơi, một chốn, mà ở nhiều
nơi, nhiều chốn, khắp năm châu bốn biển này, khi đoàn sứ giả Như-Lai
từng đi qua.
Vậy mà, thảm thương thay, ngay trên quê hương của chúng tôi, tuổi
trẻ Việt Nam và dân tộc Việt Nam đã không được hưởng! Vì thiếu
chánh-tư-duy, những người nắm quyền sinh sát đã để sự hoài nghi, lo
sợ dẫn tới tà kiến mà xô đuổi huynh đệ chúng tôi, đã để lòng tham
lam ác độc của họ làm thui chột những mầm xanh hy vọng cho những giá
trị đạo đức, luân lý, lễ nghĩa đã bị úng rã từ gốc rễ!
Những kẻ không sợ luật nhân quả, không tin sanh tử luân hồi thì
không điều ác nào không thể làm. Kinh Pháp Cú dạy như thế. Là con
Phật, chúng tôi tin như thế, biết như thế, nên chúng tôi đã thương
xót họ. Huynh đệ chúng tôi đã không oán hận khi bị họ đánh đập, xô
đuổi khỏi Bát Nhã dưới trời đêm, mưa lạnh và đói khát! Giáo pháp
hiển lộ trong từng bước chân của huynh đệ chúng tôi nương tựa nhau,
đỡ dìu và khích lệ nhau suốt đoạn đường 17 cây số khổ nhục đó để đến
được nơi tạm trú.
Huynh đệ Bát Nhã của tôi ơi, thế giới đã bước theo các vị, không
thiếu một bước nào. Mỗi bước đã qua là mỗi đóa sen trong lòng người
cảm phục. Quý vị rất xứng đáng nhận sự cảm phục này, dù có khiêm
nhường phủ nhận thì lòng người cảm phục cũng hiểu được tinh thần lời
tôn giả Tu Bồ Đề thưa thỉnh Đức Thế Tôn, để nương theo mà nói rằng
“không nói xứng đáng mới thực là xứng đáng”.
Hôm
nay, tôi lại được về Làng.
Tôi biết, nơi xa kia, huynh đệ cũng đang Về Làng, dù địa danh Bát
Nhã đã là huyền thoại, dù sự áp bức, truy lùng vẫn chưa ngưng. Huynh
đệ đang thở và cười phải không? Chúng ta thở chánh niệm và cười an
lạc vì biết rằng, không ai chặn được đường Về Làng của chúng ta khi
ngôi làng đó đã vững trong tâm. Với thành quả cực kỳ mầu nhiệm mà
huynh đệ vừa đạt được, tôi tin chắc, mỗi huynh đệ đã là một tu viện
Bát Nhã. Và mỗi tu viện Bát Nhã sẽ tùy duyên xây dựng mỗi tăng thân.
Dẫu biết, và tin chắc như thế, tôi vẫn không ngừng cầu xin Chư Phật
cho chúng ta có một ngày, tay trong tay, mắt trong mắt, cùng bước
trên đường Về Làng, nơi mà đóa hoa nào, lá cỏ nào bên đường cũng
biết thảnh thơi múa hát bài Bát Nhã Tâm Kinh.
Huệ Trân
(Làng Mai – Xóm Mới, cuối thu 2009)
|