Hương vườn xưa
Chỉ hai tuần, sau
khi dọn tới căn nhà mới, tôi đã biến đổi hoàn toàn mảnh vườn, khi
được người chủ nhà bảo: “Muốn trồng gì, làm gì, xin tùy ý!”
Đó là một căn nhà nhỏ hai phòng, rất cũ kỹ, ước chừng cũng phải bốn,
năm chục tuổi. Nhưng mới xem qua, tôi đã biết mình sẽ mướn nơi này,
vì có sân cỏ phía trước và nhất là khu vườn sau, rộng mênh mông.
Căn nhà bỏ trống đã lâu, cỏ sân sau mọc cao tới đầu gối. Khi mới
bước ra, tôi phát kinh hãi, nhưng chỉ một thoáng thôi, tôi hình dung
ra ngay một vườn rau xanh tươi với những mùi vị thân quen của húng,
ngò, của những lá răm thơm cay, của dãy cà pháo đầy hoa tím, giàn
bầu bí lủng lẳng trái xanh non hay bụi ớt hiểm chi chit, đỏ tươi,
nhìn đã thấy cay sè, mời gọi tô bún Huế …
Và tôi đã mướn căn nhà cũ kỹ vì hình ảnh khu vườn tương lai thân yêu
đó.
Việc đầu tiên sau khi dọn vào là tôi gọi người tới phạt cỏ, soi đất.
Hai bàn tay tôi trầy sước, tê buốt vì gai nhọn khi thanh toán những
bụi hồng dại, mọc men theo hàng rào, không biết đã từ bao năm. Rồi
những cây xương rồng, những ụ đất đá mấp mô, lồi lõm phải được san
bằng, tưới nước, sau đó là hỳ hục khiêng về hàng chục bao đất tốt để
sẵn sàng gieo hạt, lên luống trồng rau.
Hai tuần sau, người chủ nhà ghé tới, lấy vài món còn sót trong nhà
xe, đã sửng sốt khi thấy khu vười được khai quang sạch sẽ. Hai tuần
sau nữa đến lấy tiền nhà thì ông ta đã phải thốt lên: “Không thể
tưởng tượng được tinh thần của người Á Đông!”
Nói thế, hẳn ông ta đã từng chứng kiến người Á Đông chăm sóc nhà
cửa, vườn tược thế nào rồi.
Riêng tôi, khu vườn sau của căn nhà cũ, nơi xứ người, đang mỗi ngày
mỗi đưa tôi về gần vườn rau quê nội. Khi đi tìm mua hạt giống hoặc
cây non, tôi cứ tưởng là tình cờ, sau mới biết rằng những hạt ấy,
cây ấy, đã từ trong tiềm thức. Vườn rau xanh non bên kho chứa thóc,
ở một căn nhà trong thôn Phương Viên, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà
Đông, nơi mỗi mùa hè chị em tôi được cha mẹ cho về quê nội vui chơi
thỏa thích, đã có những hạt ấy, những cây ấy. Cải bẹ xanh từng luống
nõn, cắt vào luộc, chấm với tương, bầu bí nấu canh, chỉ chút bột nêm
mà cũng ngọt lịm! Rau dền thì cứ như thi nhau mọc lên như thổi, quơ
tay là hái cả rổ. Hôm nào bác Cả nấu bún riêu thì không phải chỉ có
kinh giới thêm hương vị mà mọi thứ rau thơm ngoài vườn đều được
chiếu cố, thơm lừng tô bún!
Vườn rau quê nội đang thầm lặng thành hình nơi tạm trú, khiến ở sở
làm về, cơm nước xong là tôi quanh quẩn ngoài vườn đến xẩm tối. Tôi
biết rõ từng lá non mới mọc, từng nụ hoa mới trổ. Tôi nói chuyện với
những cây cà khi chúng bắt đầu nhú trái. Tôi kể cho chúng nghe rằng,
ở quê hương Việt Nam tôi, người ta thường đo lường sự khéo léo của
người nội trợ qua vại dưa, lọ cà. Mẹ tôi là con dâu trưởng trong một
gia tộc lớn, càng bị chú ý nghiêm túc hơn. Có lẽ vì vậy mà mẹ chịu
khó học hỏi, từ cách nấu ăn, may vá, thu vén trong ngoài, nhất nhất
đều một tay mẹ đảm đương.
Tôi cũng tâm sự với giàn bí khi chúng bắt đầu trổ hoa, là ở quê
ngoại tôi, canh hoa bí đầu mùa là món chỉ dành để đãi khách. Nghe
thế, tôi tưởng như các bông hoa bí dụi đầu vào nhau, khúc khích cười
…
Chỉ một loài hoa không thấy trong vườn quê nội mà tôi vừa trồng bên
hiên nhà. Đó là hoa cúc vàng, nụ nhỏ, lá biếc xanh. Một lần, tình cờ
vào thăm vườn cây của người Nhật, thấy những chậu cúc vàng này, tôi
như bị thôi miên, không bước đi nổi, vì đây là loài hoa cha tôi yêu
thích nhất. Cha thường nói: “không kiêu sa như lan, không đài các
như hồng, không lạnh lùng như vạn thọ, chỉ giản dị sắc tươi, dáng
đẹp mà gần gũi, thân thương”
Hôm đó, tôi can đảm trích một phần tiền chợ trong tháng để khiêng về
10 chậu cúc vàng. Tôi làm cỏ thật kỹ nơi sẽ trồng cúc, đào đất xấu
đi, bỏ đất tốt xuống, tưới cho đất ẩm rồi mới cẩn thận, nhẹ nhàng an
vị từng cây. Mỗi cây trồng xuống, tôi đều thầm thì: “Cha ơi, con
trồng cúc chờ cha đó, cha sang mà chăm sóc nhé!”
Có những đêm, trời trở lạnh đột ngột, tôi thao thức, sợ những bụi
cúc sẽ tê cóng mà chết trước lúc mặt trời thức dậy. Tôi nghĩ đến
cha, đến mẹ, đến những tờ giấy bảo lãnh vô tri, lênh đênh mù mịt đã
mấy năm trời vẫn chưa được cứu xét! Cha mẹ thì tuổi già sức yếu,
biết có còn kịp thăm con cháu phương xa không! Thư cha viết, thường
an ủi tôi rằng; “Con đừng quá bận tâm lo lắng, cha mẹ già rồi, đi
hay ở không thành vấn đề. Đi cũng tới bến, mà ở thì bến ngay dưới
chân ta. Quê nhà cũng còn các em con, và các cháu, rau cháo đỡ đần
chúng cũng là niềm vui tuổi già, mang sức tàn mà giúp suối ra sông
…”
Cúc chưa vàng hoa, tin xa đã tới.
Cha đi rồi!
Cha mất rồi!
Cha đi quá nhẹ nhàng vì áp huyết đột ngột tăng nhanh! Ly trà sau bữa
cơm tối đang còn cầm trên tay, đã bất ngờ sóng sánh, rơi xuống sàn
nhà, vỡ tan tành! Mảnh vụn thủy tinh như ghim vào trái tim mẹ, trái
tim con cháu quê nhà, con cháu phương xa!
Cha ơi! Gia đình ta, nhờ tinh thần và ý chí mạnh mẽ của cha mà vượt
qua bao cuộc thăng trầm, dâu bể, từ chiến chinh miền Bắc tới khi
xuôi Nam. Nay, cuộc phân ly còn vượt đại dương, trùng trùng cách
biệt, cha đã vội ra đi, mẹ và các con, các cháu biết nương tựa vào
đâu?
Non cao núi thẳm, mờ mịt trời mây, tôi ra vườn, run rẩy cắt những
bông cúc chưa kịp nở tròn sắc vàng, mang vào cúng cha. Qua ánh nến,
những bông cúc trên ban thờ cha như long lanh nhỏ lệ. Những bông cúc
đang cùng khóc với tôi. Nhạt nhòa nước mắt, tôi bồi hồi như cha
phảng phất đâu đây, và nụ cười dịu dàng của cha, thầm lặng nhưng
mãnh liệt, đang ân cần chuyển tải năng lượng an lạc cho tôi…
Phút giây, tôi bỗng cảm nhận ngay rằng, cha vẫn còn đây, vì từ cha
mẹ, tôi đã chào đời. Tôi luôn mang bố mẹ mà trưởng thành, cũng như
bố mẹ luôn ở trong tôi để cùng đi.
Chậm rãi lau nước mắt, tôi khoanh chân, ngồi trong thế kiết già, mời
gọi cha, thở cùng tôi, khi những ý tưởng lung linh đan nhau, thành
bài thơ tháng bẩy:
Pháp thân như trúc biếc,
Bát Nhã tựa hoa vàng
Tóc rơi từng sợi nhỏ,
Tàn cây nhang.
Người xòe tay,
Tay trắng
Bình bát, củ khoai lang
Cúng dường Xá Lợi Phất
Công đức ba ngàn thế giới
Hồi hướng Vu Lan.
Cha về với Phật,
Mẹ còn đây
Sương sớm có tan,
Trăng có gầy
Mẹ ơi tháng bẩy,
Vu Lan tụng.
Đóa hồng cài áo,
Hồi chuông xa bay …
Cha như núi,
Mẹ như sông,
Núi cao dựng vách,
Xanh phấn thông
Sông chảy mênh mang, dòng sữa ngọt
Một trời hư không.
Con xuống tóc, đi tìm cha
Sợi vương cửa động, san hà lung lay
Rừng chiều, một cánh chim bay
Chợt nghe gió thoảng,
Hương say hoa rừng.
Con về,
Ngủ dưới gốc thông
Trong mơ hé nụ, đóa hồng Vu Lan
Huệ Trân
(Vu Lan, hồi tưởng ngày được tin cha) |