Đi tìm quê hương
Có lẽ trong
đời, nhiều người đã từng nói, hoặc từng nghĩ tới câu này “Đi tìm quê
hương”. Ai đi tìm quê hương? Chắc hẳn phải ngầm có chủ từ Tôi, Anh,
Chị,
v.v…
Khi lòng ta hướng về tâm trạng đi tìm quê hương thì không phải chỉ
vì ta đang xa quê hương, đang nhớ quê hương mà ngay cả khi đang sống
giữa lòng quê hương lại cảm thấy ta như khách lạ! Nên đi tìm quê
hương không phải chỉ là đi tìm mảnh đất quê hương mà còn là tìm về
quê hương tâm linh.
Vậy, tìm quê hương là đích thực tìm gì?
Mỗi người đều có cái nhìn khác nhau. Riêng tôi, quê hương đích thực
là những phút giây tôi an lạc, tôi vững chãi, tôi thảnh thơi, tôi
biết yêu mình và yêu người.
Quê hương với ta phải là Một. Tìm quê hương ngoài ta sẽ chẳng thể
thấy.
Tôi đã từng lạc quê hương.
Tôi đã từng lạc tôi.
Những khi ấy, tôi vô cùng hoang mang, sợ hãi vì tôi chưa biết cách
tự vệ và chấp nhận sự bất xứng do lòng người thâm độc gây ra, nên
nhìn cành cây cong nào cũng ngỡ là cung tên! Trong cơn hoảng hốt,
tôi lại sai lầm khi cất bước chạy trốn với ý nghĩ “Tôi phải đi tìm
cho ra quê hương. Where’s my true home?”
Nói như thế, giống như TÔI là sự ĐÃ tìm ra rồi, trong khi tôi đang
lạc tôi, tôi không biết tôi là gì, tôi là ai, mới để cho sự tuyệt
vọng, sự sợ hãi lấn áp mình như thế! Khi tôi chưa tìm ra tôi thì tôi
chỉ là VỌNG. Một cái đang còn là vọng lại khởi bước đi tìm một cái
khác thì làm sao thấy được! Thật đáng tội nghiệp!
Người xưa thường nói “cùng tất biến”. Không biết cái vòng tội nghiệp
mà tôi phải lăn trôi đã tới cùng chưa, nhưng khi chuỗi Bồ Đề 108
hạt, lần trên tay, bỗng đứt ở hạt thứ 99, đang trên câu niệm Đức
Quan Thế Âm thì tôi đã biết.
Đây chính là lời tôi phát nguyện trước Đại Tôn Tượng Quan Thế Âm
trong Lễ Hội Quan Âm lần thứ sáu tại chùa Việt
Nam,
Houston,
Texas.
Tôi đến trước ngày khai mạc Lễ Hội, quỳ rất lâu trước Tôn Tượng hiển
linh và xin Đức Đại Từ Đại Bi chỉ cho tôi con đường tìm về Quê Hương
qua bất cứ một hình thức nào khi tôi đang niệm danh hiệu Ngài. Đó
cũng là thời gian đài khí tượng địa phương chính thức thông báo sẽ
có giông bão và mưa đá trút xuống thành phố. Khi tôi bước qua chiếc
cầu gỗ bắc ngang hồ Hương Thủy để đến quỳ trước Tôn Tượng thì gió
bốn phía đang ào ạt thổi tới, làm nghiêng ngả hàng dừa cao vút,
tưởng như những đám rễ dưới lòng đất đang hoảng sợ, rên xiết trước
sức mạnh hung hãn của cuồng phong! Gió bão ngoài trời và gió bão
trong lòng tưởng sẽ quật ngã một sinh linh vô minh yếu đuối như tôi.
Nhưng lạ thay, khi tôi phải hết sức ngửa cổ ra sau mới có thể nhìn
suốt tới vầng hào quang trên đỉnh đầu Tôn Tượng, thì lòng tôi bỗng
bình lặng. Tôi nhìn thấy rõ ánh mắt Mẹ Quan Âm. Đó là ánh mắt của
“Từ nhãn thị chúng sanh”, mắt thương nhìn xuống chúng sanh khổ
lụy.
Đại Tôn Tượng Mẹ Quán Âm hùng vĩ lắm, tưởng như chạm tới khung trời
Đâu Suất. Vậy mà Mẹ đã nhìn thấy tôi, một sinh linh nhỏ bé đang quỳ
dưới chân Mẹ. Quả thật, Mẹ không bỏ sót một ai thành tâm cầu khẩn
Mẹ. Nếu không thế, giông bão trong lòng tôi sao bỗng nhiên êm ả khi
tôi vừa chạm vào ánh mắt từ bi của Mẹ?
Rồi chẳng phải chỉ bão trong lòng lắng yên mà bão ngoài trời do
những chuyên viên khí tượng đo lường và dự đoán cũng đứng ngoài hết
mọi chương trình Lễ Hội, như một phép lạ mà những ai không có lòng
tin sẽ chẳng thể hiểu nổi! Sự nhiệm mầu này, hàng ngàn Phật tử khắp
nơi về dự Lễ Hội Quan Âm lần thứ sáu, vào ba ngày cuối tuần của cuối
tháng ba năm 2007 đều đã chứng kiến!
Từ ngày cầu nguyện trước Tôn Tượng Mẹ, tôi đã tụng niệm danh xưng Mẹ
bao nhiêu ngàn lần trong suốt hơn một năm qua nhưng chưa thấy một
biểu hiện nào rõ nét. Tôi biết, đó là vì nghiệp mình chưa dứt. Tôi
chưa trả hết nợ đời, nợ người, cho đến khi xâu chuỗi lần trên tay
đứt ở hạt thứ 99, đồng thời với mũi tên tẩm thuốc cực độc do lòng
ích kỷ, dối trá của nhân thế bắn ra, thì tôi biết đã đến lúc tôi
được lên đường.
Ngay lập tức, tôi nhìn thấy Quê Hương mình.
Bao nhiêu khổ đau phiền não bỗng tan biến, như phẩm Gánh Nặng trong
kinh Tạp Hàm, có một người thường nhẫn nhục, gánh một gánh mà đi
trong khổ nhọc. Nhưng khi người ấy nhận ra, cái gánh vẫn oằn vai
khiêng vác bấy lâu chỉ là gánh nặng, người ấy liền bỏ gánh xuống,
rồi đứng thẳng, nhìn con đường thênh thang trước mắt và mỉm cười,
tiếp tục đi.
Những bước chân sau đó là những bước chân an lạc, thảnh thơi.
Chỉ cần biết buông bỏ gánh nặng, người ấy không cần nhọc công tìm
cũng đã thấy Quê Hương.
Hôm nay, tôi nhận được một lá thư, đóng dấu bưu điện từ tiểu bang xa
gửi tới. Lá thư của một đạo hữu thân thương, hằng theo dõi bước chân
tôi. Mở ra thì đây không thuần túy lá thư mà là một bài viết được
cắt ra từ một tờ báo, kèm theo năm chữ “Thân quý tặng sư cô”.
Đạo hữu này biết là bấy lâu nay tôi không đọc báo, cũng không mở
những website chỉ có những thị phi làm vẩn đục thân tâm, nên đã gửi
cho tôi trang báo này. Đây là bài viết của một Phật tử trong lần ghé
thăm Thầy Tuệ Sỹ tại Quảng Hương Già Lam ở Quận Gò Vấp. Chỉ vừa nhìn
tấm ảnh kèm theo cũng đoán được phần nào nội dung. Hình chụp Thầy
ngồi trên chiếc võng, trước Thị Ngạn Am, tiếp người bạn trẻ đến
thăm.
Hình ảnh Thầy và chiếc võng trên hành lang nhỏ hẹp dẫn vào Thị Ngạn
Am là hình ảnh quá thân quen đối với Phật tử Việt Nam khắp năm châu,
vì hình ảnh đó không hề thay đổi từ khi vị tu sỹ mang bản án tử
hình, được đổi thành chung thân khổ sai, rồi quản thúc vô thời hạn
tại tu viện Quảng Hương Già Lam cho đến ngày nay. Tất cả những từ
ngữ “tử hình, chung thân, quản thúc …” rồi bây giờ đang là “thân
cộng, phản bội, chạy theo danh lợi v.v…”
đều do tâm địa và miệng lưỡi thế gian đặt cho. Còn Thầy ư? Thầy vẫn
lặng thinh như vạn hữu. Vạn hữu có nói gì đâu mà vẫn đủ bốn mùa mưa
nắng! Thầy có nói gì đâu mà tâm lượng Bồ Tát vẫn tỏa rộng năm châu!
Chỉ có lòng người đổi thay, tự biến dạng thành những ngọn gió đen,
làm ngả nghiêng hoa trái. Thầy vẫn ngồi đó, trên chiếc võng năm xưa,
rồi công phu sớm tối ba thời, ngày ăn một bữa, đêm đắp một chăn đơn,
chứ có lẽ Thầy cũng chưa tận dụng đủ tới ba Y một Bát!
Nhẩn nha đọc bài báo thì tôi cũng bật cười như Thầy đã cười vậy. Khi
người phương xa ghé thăm, hỏi Thầy về những lời cáo buộc bên ngoài,
rằng Quảng Hương Già Lam là “bản doanh của Hội Thân Hữu Già Lam, là
đầu não những âm mưu lật đổ GHPGVNTN”! Kẻ phàm phu nào mà bị cáo
buộc như vậy, chắc chắn sẽ có nhiều phản ứng ngoạn mục lắm. Nhưng
Thầy Tuệ Sỹ chỉ mỉm cười nhẹ nhàng: “Thì quý vị đến thăm bất ngờ
đó, quý vị cứ tham quan và nhìn xem có những ai và những gì nơi đây”
Thầy nói, có lẽ chỉ để đáp lòng khách, chứ nói như thế cũng như
không nói! Chỉ có hương trà, hương thanh khiết từ những giò lan dọc
hành lang hẹp và thanh âm thánh thót, lao xao từ những phong linh
treo quanh vườn đang len nhẹ vào hồn, chuyển hóa uẩn khúc thế gian
thành an lạc, mới là câu trả lời cho khách.
Tinh thần Hoa Nghiêm từng dạy một câu rất thâm sâu nhưng chỉ cần
lắng tâm là có thể nắm bắt được. Đó là: “Khoảnh khắc chứa đựng
thiên thu”. Mỗi phút giây là mỗi thách thức của ta qua sự hiện
hữu ở cõi Ta Bà này. Ta phải nghĩ thế nào để có chánh niệm, thở thế
nào để có tỉnh thức, sống thế nào để có an lạc. Bước được một bước
chân vào Tịnh Độ thì cần gì trăm năm?! Khoảnh khắc đó chính là thiên
thu đấy.
Vị tu sỹ ngồi đó, tâm không lay động như thiết thạch vạn cổ, nhưng
nụ cười nhẹ lại là vô lượng từ ái của phút giây hiện tại.
Nên tôi nhìn Thầy, dù chỉ qua tấm ảnh, mà thấy Thầy có mặt ở cả
tích-môn lẫn bản-môn.
Không thở không khí nhiễm ô thì tâm không ô nhiễm.
Không lụy nơi uế trược thì thân không vấy bẩn.
Nhìn hình ảnh Thầy, trước sau như một, xuất thế gian mà không rời
thế gian pháp, tôi lại thấy cả một trời Quê Hương.
Với tôi, Thầy Tuệ Sỹ vẫn mãi mãi đồng nghĩa là Quê Hương Đích Thực.
Huệ Trân
(Cốc Thảnh Thơi, Tháng Ba, 2008)
|