Cánh đại bàng
Mấy năm gần đây, những thiên tai bất ngờ trên khắp thế giới mà sức
tàn phá ngày càng khốc liệt, là thông điệp cảnh báo nghiêm trọng của
thiên nhiên trước sự lạm dụng của con người. Xứ này phá rừng, xứ kia
vét biển, nơi này đập núi lấy đá, nơi kia lấp sông làm nhà; nam bắc
ra sức khoan dò, đào sới tìm bí ẩn của thiên nhiên, rồi đông tây mặc
tình thải khí độc, tuôn rác rưởi … những chất liệu mà biển chẳng thể
tiêu hóa, đất chẳng thể chôn vùi! Thiên nhiên tuy mênh mông nhưng
sức chịu đựng nào chẳng có giới hạn. Lời cảnh báo nhè nhẹ là hiện
tượng khí hậu bất thường. Âu châu đông đá, Á châu tuyết phủ, ở những
thời điểm chưa từng như thế, trước đây. Cũng đã có biết bao người
quan tâm, lên tiếng kêu gọi và đưa ra những phương thức bảo vệ trái
đất chung, nhưng tỷ lệ đáp ứng chẳng bao nhiêu vì bản chất con người
vốn tự tin lạ kỳ “không xảy ra cho tôi, sao tôi phải giảm bớt sự
hưởng thụ?” Khác chi, những người đi dự đám tang, tuy thẳm sâu tâm
thức, phải chấp nhận có sinh là có tử, nhưng vẫn nhìn người nằm
trong quan tài bằng sự thương xót của người “không bao giờ phải nằm
trong đó!”
Trên chuyến bay hướng về Paris, nơi trước đó mấy ngày đã được thông
báo là có thể bị đình trệ nếu thời tiết quá khắc nghiệt, lòng tôi
chợt ấm áp với lời nhắn nhủ của Sư Ông Làng Mai “Thế kỷ 20 đầy vị
kỷ. Thế kỷ 21 phải đầy tình thương để cùng nhau Leo Đồi Thế Kỷ”
Chúng tôi tới tham dự Đại Giới Đàn Lắng Nghe, tại Làng Mai, Pháp
quốc, bắt đầu từ 20 tháng hai, 2011 tới 26 tháng hai, 2011. Theo
thông lệ của Làng thì thời điểm hoàn mãn Đại Giới Đàn cũng là lễ Tự
Tứ kết thúc An Cư Kiết Đông ba tháng, bắt đầu từ trung tuần tháng
mười một năm trước, tới cuối tháng hai, năm kế tiếp.
Bóng áo nâu thấp thoáng các phi trường Charles De Gaulle, Bordeaux;
nhất là tại nhà ga Sainte Foy-La-Grande, khi tăng đoàn đi đón Chư
Tôn Đức từ khắp nơi về tham dự, và chứng minh. Sân ga, phút chốc
tràn ngập mầu áo nâu, an nhiên từng bước thong dong. Người bản xứ,
chắc đã từng thấy hình ảnh này, nên họ mỉm cười, chắp tay cung kính
xá. Tôi có cảm tưởng, nếu bất ngờ, Sư Ông ngồi xuống, rồi cất lời
ban pháp, thì họ cũng sẽ hoan hỷ ngồi xuống. Rồi những con tầu sẽ
dừng lại, còi tầu sẽ lặng thinh để cùng sân ga hóa thân thành một
giảng đường lộ thiên. Và lời Đức Thế Tôn được trùng tuyên, giao
rảng.
Quán chiếu sâu xa thì hình ảnh đó, âm thanh đó chưa từng ngưng
chuyển động. Hai mươi sáu thế kỷ qua, sự hoằng pháp vẫn chảy như con
suối, các tăng đoàn vẫn đi như dòng sông. Có khác chăng chỉ là hình
thức, mà hình thức chỉ là phương tiện, và phương tiện chỉ là chiếc
bè đưa ta qua sông. Hình thức và phương tiện lại cần được uyển
chuyển qua mỗi hoàn cảnh, mỗi thời đại, cập nhật với những bước tiến
quá nhanh của văn minh nhân loại thì chiếc bè kia mới đủ sức mời gọi
người bước xuống.
Ai tu, nấy chứng, mà cũng phải mời gọi ư?
Có chứ. Mời gọi là vì lòng từ bi. Đức Phật A Di Đà, chẳng những chỉ
mời gọi mà Ngài còn quá lân mẫn, qua lời dạy Xá Lợi Phất mà dỗ dành
chúng sanh “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên, đắc
sanh bỉ quốc. Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A Di
Đà Phật, chấp trì danh hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược
tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất
nhật, nhất tâm bất loạn, kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật
dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhân chung thời, tâm bất
điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ”
Mỗi lần tụng tới đoạn kinh này, tôi tưởng như đang nghe lời ân cần
của một người mẹ: “Chẳng phải chỉ có chút ít căn lành mà được
sanh về xứ Phật đâu! Các con ơi, hãy niệm danh hiệu Phật, một lòng
không tạp loạn thì phút lâm chung sẽ được Chư Phật đến tiếp rước.
Niệm bảy ngày không nổi thì sáu ngày, năm ngày, bốn ngày; mà vẫn
không được thì ba ngày, hai ngày; hay thôi, một ngày vậy nghe con …”
Chư Phật từ bi và kiên nhẫn như thế. Chỉ cần chúng sanh quyết tâm
xuống thuyền, vượt bể khổ, qua sông mê.
Hãy bỏ lại trên bờ những uế nhiễm, não phiền.
Hãy thở sâu. Thở nhẹ.
Hãy lắng nghe ta, bằng chính hơi thở chánh niệm của ta.
Ta biết ta đang thở, mới là ta đang sống.
Hạnh phúc là biết ta đang sống. Vì có sự sống, ta sẽ có tất cả. Sự
sống hiện diện ở đây là sự sống từ hơi thở chánh niệm. Sự sống này
mới giúp ta biết trân quý mình và người.
Thở, và lắng nghe, để đích thực có mặt cho nhau thì đây mới là sự có
mặt tuyệt đối và sự có mặt này mới vượt qua mọi ranh giới của mầu
da, sắc áo cùng những dị biệt vi tế ẩn sau bản ngã.
Hôm nay, sự có mặt này đã hiển lộ rực rỡ trong Đại Giới Đàn Lắng
Nghe, hiển lộ tự nhiên như mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng
chiếu sáng ban đêm, không cần một ngôn từ nào diễn giải hay yểm trợ.
Nhưng để đáp tấm lòng bạn hằng theo dõi, nên tôi xin chia sẻ chút
cảm nghĩ riêng mà thôi
Này bạn.
Đây là Xóm Thượng. Từ thiền đường Chuyển Hóa, tiếng chuông, khánh
điểm nhẹ, Chư Tôn Đức cung nghinh
Giới bản Ba-la-đề-mộc-xoa dưới hai tàn lọng, nối bước là quý
thầy cô, đi theo tuổi hạ. Con rồng vàng nhẹ nhàng uốn khúc, tiến lên
thiền đường Nước Tĩnh, nơi âm vang của chuông trống Bát Nhã đang rộn
rã đón chờ. Trời không lạnh lắm, vì gió Xuân đến sớm, vờn quanh
những nếp y vàng để lắng nghe.
Lắng nghe.
Gió trên đồi nghe và thấy những gì?
Gió thấy, không chỉ mọi mầu da trong đoàn tăng ni đang uy nghiêm mà
an lạc, thong dong mà vững chãi tiến bước kia, mà đại chúng đông đảo
hai bên nghênh đón cũng hiện diện mọi sắc tộc. Họ từ bốn phương trời
về đây vì đã lắng nghe được lời mời gọi. Họ đã bỏ lại gánh phiền
não, để nghe cho rõ, nhìn cho sâu, cùng với không gian thênh thang,
mỉm cười, và an lạc cất bước.
Suốt thời gian Đại Giới Đàn, trước mỗi thời, họ được nghe lời dâng
hương và tụng kinh Bát Nhã bằng ba ngôn ngữ, hoặc Anh, Việt, hay
Pháp. Âm thanh trầm bổng mà hùng tráng lạ kỳ. Đây là bản hòa tấu
tuyệt vời, đi thẳng vào trái tim người tụng cũng như người nghe, để
cùng trực nhận chúng ta đang chỉ là một
“The Bodhisattva Avalokita while moving in the deep course of
perfect understanding, he light on the five skandhas and found them
equality empty. After this penetration, he overcame ill-being …
Bồ Tát quán Tự Tại. Khi quán chiếu thâm sâu.
Bát Nhã Ba La Mật. Tức diệu pháp Trí Độ.
Bỗng soi thấy năm uẩn. Đều không có tự tánh. Thực chứng điều ấy
xong. Ngài vượt thoát tất cả. Mọi khổ đau ách nạn …
Le Bodhisattva Avalokita en pratiquant la voie de la compréhension
parfaite, posa son regard éclairé sur les cinp skandas et les trouva
pareillement vides. Après cette pénétration, il dépassa toute
souffrance …”
Buổi chiều, ngày khai đàn, là lễ truyền Ngũ giới. Khi vị chủ lễ cất
tiếng mời các giới tử đứng lên, tiến về Phật đài thì đa số đại chúng
đông đảo phía dưới đã tuần tự đứng lên.
Thật cảm động và kinh ngạc.
Thì ra họ từ muôn phương lặn lội tới đây chẳng phải chỉ tham dự mà
còn để được thọ nhận Năm giới luật căn bản của người xin làm con
Phật. Họ bước rất khoan thai, quỳ lạy rất thuần thành, cung kính
theo từng tiếng chuông hướng dẫn.
Với khối lượng đông đảo giới tử mọi sắc dân nên lời truyền giới cũng
được thực hiện bằng ba ngôn ngữ chính là Việt, Pháp, Anh.
Thật hiếm thấy nơi nào lại có hình ảnh đặc thù trong lễ quy y Tam
Bảo như thế. Tự hình ảnh này đã nói lên tinh thần bình bẳng của Đạo
Phật, nói lên cái tâm là họa sỹ của chính mỗi người. Họa sỹ đó hướng
về cảnh trí nào mà phác họa thì người sẽ nương cảnh đó mà tới.
Vậy tại sao họa sỹ kia không chỉ vẽ cảnh đẹp, cảnh thiện, mà còn khi
là cảnh xấu, cảnh ác?
Đó là bởi chúng sanh đã từng tạo nghiệp ác, gieo duyên xấu nên cái
tâm còn vướng theo nghiệp đó mà đi. Khi vừa Giác Ngộ, Đức Thế Tôn đã
nhìn rõ, mọi chúng sanh đều có Phật tánh, chỉ bởi vô minh che lấp mà
thôi, nên Ngài đã ở lại ta-bà, nguyện giáo hóa và độ cho những ai
còn độ được.
Đại Giới Đàn Lắng Nghe, đã theo dấu chân Như Lai mà thể hiện từng
bước như thế. Từ lễ truyền Ngũ giới cho đại chúng ở thiền đường Nước
Tĩnh, Xóm Thượng, tới lễ truyền giới Thức Xoa cho các Sa-di-ni ở
thiền đường Hội Ngàn Sao, Xóm Hạ, rồi lại lên Xóm Thượng với ngày
truyền giới Khất- sỹ- nam, Khất- sỹ- nữ, và cao hơn, là lễ truyền
Đăng tại thiền đường Trăng Rằm cho các vị đã được hội đồng duyệt xét
cẩn thận sau nhiều tháng năm, đủ vững chãi để trở thành những vị
Giáo thọ.
Trong không khí cực kỳ trang nghiêm, nhìn đoàn giới tử xin thọ giới
Khất sỹ được xướng danh, tiến về bàn Phật, lạy Phật, rồi cùng quỳ
xuống, thành khẩn lắng nghe lời đàn hạch của vị ni trưởng Yết Ma,
mới cảm thông lời phát nguyện của họ là cội phước đã gieo trồng và
tưới tẩm mới tới ngày được thọ nhận Y Bát trước hai hàng Chư Tôn Đức
uy nghiêm như thế, chứng minh cho:
Đẹp thay áo giải thoát
Áo ruộng phước nhiệm mầu
Con cúi đầu tiếp nhận
Đời đời nguyện mang theo.
Và cùng cung kính nâng bình bát ngang trán, thầm đọc bài kệ đã từng
đọc mỗi khi thọ trai:
Bình bát của Như Lai
Nay được nâng trên tay
Nguyện hết lòng thực tập
Pháp tam luân không tịch.
Trở về thiền đường Trăng Rằm là lễ truyền Đăng. Được hiện diện trong
không gian đó, được thở không khí đó, được theo dõi bước chân từng
vị Giáo thọ tương lai chậm rãi tiến đến trước Sư Ông, quỳ xuống,
dâng kệ kiến giải, nhận đèn Chánh pháp, nhận kệ trao truyền, mới
thấy rõ được sức mạnh của những dòng sông đang cùng chảy ra biển
lớn.
Bạn ơi, bạn sẽ cảm thấy gì khi nhìn một giới tử, gốc Do Thái, quỳ
trước vị Thiền sư truyền giới, người Việt Nam, để đọc bài kệ kiến
giải của mình bằng tiếng Do Thái? Riêng tôi, tôi cảm nhận là vị đó
đã không phụ đất nước mình, tổ tiên mình, qua hình thức dùng ngôn
ngữ chưa được phổ thông trên toàn cầu để dâng bài kệ kiến giải lên
Chư Phật. Đó phải chăng, không chỉ là xin đất nước, tổ tiên chứng
minh, mà còn là sự mời gọi gia đình huyết thống về với gia đình tâm
linh mà vị đó đã có cơ duyên gặp được.
Lạ thay, bài kệ kiến giải bằng tiếng Do Thái lại được Sư Ông trao kệ
truyền đăng bằng tiếng Hán. Sư Ông bảo “Tự nhiên chữ Hán hiện ra.
Thế thôi!”
Rồi cứ thế, bài kệ tiếng Việt cũng “tự nhiên” hiện ra để trao cho
thầy Pháp Đệ, người Hoa Kỳ. Nếu tôi nhớ không lầm thì trước khi hội
đủ duyên đến với đạo Phật, Thầy đã từng là một Linh mục, nên bài kệ
Sư Ông trao cho thầy Pháp Đệ như vầy:
Pháp
thiêng nuôi dưỡng tình huynh đệ
Kết hợp đông tây một giải đồng
Thế giới đi về phương hướng ấy
Suối nguồn tuệ giác đã khai thông.
Và tiếp tục lễ truyền đăng, kệ tiếng Việt lại được đọc lên, trao cho
cư sỹ Giác Uyển (Steffi Holtjie) người Hòa Lan:
Giác
hoa vừa hé trong thiền uyển
Áo mới xuân về đẹp sắc xuân
Thuyền xưa lướt sóng tìm chân tế
Mây trắng về non thấy cội nguồn.
Cũng tình cờ, kệ tiếng Hán lại được trao cho cư sỹ Mật Chiếu (Denise
Bergez) người Đức:
Tuệ nhật miên mật chiếu
Từ nhãn thị nhân gian
Bộ bộ trước thật địa
Xúc xứ phóng hào quang.
Và có những vị tân giáo thọ người Việt, được trao kệ tiếng Việt,
cũng là do khi ấy tiếng Việt tự nhiên tới mà thôi (Thưa Sư Ông, có
phải thế không ạ?) Chẳng hạn như cư sỹ Chân Minh, người phụ trách
trang mạng Phù Sa. Trước khi đọc kệ, trao đèn, Sư Ông đã ưu ái giới
thiệu Chân Minh như một chiến sỹ can trường, đã dũng cảm dùng toàn
trí lực, toàn thời gian để cập nhật và phổ biến tin tức về pháp nạn
Bát Nhã khi nơi này bị quyền lực đương thời thẳng tay đàn áp! Cũng
nhờ sự chuyển đạt thông tin nhanh chóng của trang mạng này mà dư
luận toàn cầu đã nhìn thấy tận mắt những gì cực đẹp cũng như cực xấu
trong biến cố lịch sử này. Chẳng phải ngẫu nhiên mà thế giới đã cảm
phục và yêu thương, giang rộng tay đón nhận những đứa con bị đánh
đuổi ra khỏi đất mẹ!
Suốt thời gian biến động đó, Phù Sa thường xuyên bị đánh phá, cá
nhân người phụ trách nhận nhiều lời hăm dọa, bị ngộ nhận là một cơ
phận của Làng Mai, trong khi Phù Sa chỉ là nhóm thông tin hoàn toàn
tự lập và độc lập. Nhưng Phù Sa đã không nao núng, cũng chẳng cải
chính, chỉ thấy những gì đáng nói thì nói, đáng làm thì làm thôi.
Hôm nay, trước đông đảo Chư Tôn Đức khắp năm châu về chứng minh,
trước Tăng thân và đại chúng, Chân Minh đã thẳng thắn xác nhận quan
điểm của mình, khi thành kính nhận đèn truyền đăng với bài kệ nhắn
nhủ:
Chân
nghĩa không quản ngại
Quang minh đường lớn đi
Nguyền xưa nay trọn vẹn
Một lối thênh thang về.
Chẳng phải những nét đặc thù chỉ dừng lại ở đấy, mà năm nay, trong
số tân giáo thọ, sư cô Đắc Nghiêm đã lên nhận đèn trong hình ảnh
tuyệt vời của ba thế hệ tinh chuyên tu tập. Thân mẫu của sư cô là sư
cô Hiền Hải, tu trên tu viện Lộc Uyển đã hơn mười năm, được các thầy
cô trên đó yêu thương, đặt biệt danh là “Sư ngoại, thiên thần quét
lá” vì sư ngoại thường siêng năng quét sạch lá rừng quanh thiền
đường và tịnh xá. Sư ngoại là câu trả lời cho bài hát “Đố ai quét
sạch lá rừng. Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây”. Con trai của sư
cô chính là thầy giáo thọ Chân Pháp Uyển. Năm trước, khi lên nhận
đèn, thầy Pháp Uyển đã đọc bài kệ kiến giải của mình bằng bốn ngôn
ngữ Anh, Pháp, Việt và Nhật. Bài kệ của thầy, bằng Việt ngữ như vầy:
Đứng yên giữa cuộc bão giông
Nhìn sâu, hiểu rõ ngọn nguồn thế gian
Ra vào ba nghiệp tịnh an
Đóa hoa tuệ giác trong lòng nở ra.
Duy tuệ thị nghiệp có đâu xa! Chỉ vài nét chấm phá cũng có thể thấy,
với một Đại Giới Đàn mở rộng mọi cánh cửa như thế, tự thân nơi chốn
này đã lung linh thiền vị của Vô Môn Quan.
Cửa không cánh cửa
mới thực là cửa Phật.
Còn nhớ, khi được thỉnh ý đặt tên cho thiền đường Bát Nhã ở Việt
Nam, lúc mới thành lập, Sư Ông im lặng giây lát, rồi buông ba tiếng:
“Cánh Đại Bàng”. Có vị hiện diện hôm đó đã thưa: “Đại Bàng bay cao
lắm, xa lắm, lỡ bay mất luôn thì sao ạ?”
Quả thật, giữa muôn điểu, chỉ đại bàng mới có thể soải cánh bay xa,
và đại bàng vỗ cánh là để tới khắp mọi phương trời cao rộng chứ mất
đi đâu được!
Trong tinh thần đó, bạn ơi, bằng tâm thảnh thơi hòa ái, hãy nhìn và
lắng nghe xem, có phải như muôn chim từ tám hướng mười phương tụ về,
nhận những hạt lành để rồi sẽ tung cánh thật cao, thật xa, rải những
hạt ấy khắp đại địa với tâm nguyện hạt lành này sẽ trổ hoa trái tình
thương, cho thế giới thanh bình, chúng sanh an lạc.
Xin chào mừng những Cánh Đại Bàng, vẫn kiên cường, âm thầm tiếp nối
đến và đi khắp năm châu, để những lời thuyết pháp năm xưa còn được
truyền mãi, trong nắng và trong gió.
Huệ Trân
(Đại Giới Đàn Lắng Nghe 20/2/11 - 26/2/11 Làng Mai, Pháp quốc)
|