Tách trà buổi sáng và những mật ngôn
tình cờ
Mỗi
tuần, tôi có một ngày để làm hai việc tuyệt vời. Đó là, thứ nhất:
làm thinh, thứ hai: không làm gì cả!
Hôm nay đang là phút
giây tuyệt vời đó.
Sau những ngày lạnh
bất thường, nắng sáng nay rất đẹp, vàng óng và ấm áp. Cây cỏ hoa lá
rộ lên niềm vui. Mọi cánh cửa mở rộng để nắng ghé vào, mang hương
thơm của đất trời chuyển hóa. Không mùi hương nhân tạo nào so sánh
được với hương gió núi mây ngàn. Ít nhất, chủ quan tôi như thế.
Một ngày đẹp như vầy,
được tự tại với hai việc: làm thinh và không làm gì cả, thì có tuyệt
vời không!
Chậm rãi pha một bình
trà.
Hốt nhiên, tôi thích
thú với ý tưởng khởi lên rõ rệt “Tôi không đang PHẢI LÀM cái việc
pha trà, mà là ĐANG HƯỞNG sự pha trà”.
A! Bấy lâu nay, hàng
ngày ta làm đủ thứ việc, lẫn lộn giữa những cái “phải làm” và
những cái “đang hưởng” mà mấy khi nhận rõ như thế. Cũng hành
động đó, cũng công việc đó, nhưng làm bằng trạng thái “hưởng”,
tất hạnh phúc gấp bội hơn là “phải”.
Vậy, cánh cửa niềm vui
là ở đây chăng? Đâu là chìa khóa chuyển hóa “phải’ thành “hưởng”
để ta tra vào ổ khóa của cánh cửa này?
Trà sen bạn cho đã
lâu, nhưng được ủ kỹ nên hương vẫn còn ngát. Sen mọc dưới ao bùn mà
lại mơ màng tới bốn câu kệ Làng Mai:
Trà trên đỉnh núi
Tản
Nước giữa lòng sông
Đà
Thiền vị chỉ một
ngụm
Tịnh Độ đã sinh
qua.
Vì căn bản nội điển
còn yếu kém nên trước đây, mỗi khi nghe hai tiếng “Tịnh Độ” là tôi
chỉ có thể nghĩ đến cõi Tây Phương Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà. Sau
này, nhờ dần dần được học thêm, tôi mới biết, tùy căn cơ chúng sanh,
Đức Phật đã chỉ bày tới bốn thế giới Tịnh Độ tiêu biểu, chứ không
chỉ một.
Còn nhớ, khi biết điều
này, tôi vô cùng hứng khởi, như kẻ đang dọ dẫm, được dắt từ cái hữu
hạn tới cái mênh mông vô hạn.
Mỗi thế giới Phật cũng
đã mênh mông, nhưng từ một, tới vô cùng mênh mông, quả là bội phần
hạnh phúc, như cánh cửa bất ngờ mở tung, mới biết ánh sáng ban mai
ngoài kia chan hòa, rực rỡ!
Khi Đức Phật tới thành
Xá Vệ thuyết giảng kinh A Di Đà dưới hình thức “vô vấn tự thuyết”,
nghĩa là không ai hỏi mà tự giảng. Nguyên do, vì khi đó, vua Ba Tư
Nặc quá yêu kính Đức Phật và Tăng đoàn nên đã ban một sắc luật hy
hữu: “Nếu là người xuất gia thì dù phạm tội gì cũng không bị
trừng phạt”. Do khe hở quá lớn của sắc luật đó, mà nhiều thành
phần bất lương đã len lỏi vào Tăng đoàn để lợi dụng làm nhiều điều
bất thiện. Họ đã quy tụ tới sáu nhóm ác tăng mà dân chúng thời đó
gọi là Lục Quần Tỳ Kheo!
Những vị chân tu không
thể chung sống trong môi trường bất tịnh, nên cùng nhau xin với Đức
Phật để được rời đi nơi khác. Đức Phật bèn khuyến tấn họ nên nhiếp
tâm niệm Phật thì dù hoàn cảnh xung quanh thế nào, cũng chiêu cảm
được mười phương Chư Phật.
Và thế giới Tây Phương
Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà được Đức Phật Thích Ca giới thiệu trước
thính chúng, như sự khẳng định hứa khả đối với những ai có tín tâm
bất hoại.
Đó là dấu mốc đầu tiên
để hành giả pháp môn Tịnh Độ nương vào thế giới này như một Điểm Tới
lý tưởng, khi thân tứ đại tan rã nơi cõi ta- bà.
Nhưng thế giới Phật
không ngừng ở đó.
Khi sự sinh hoạt của
Tăng đoàn tạm yên ổn, thành phần ác tăng, kẻ được chuyển hóa, kẻ bị
lộ diện không nơi ẩn núp, đành tự rời đi, thì Đức Phật đã tạo điều
kiện để tăng chúng phát khởi Bồ Đề Tâm.
Và Pháp Hội Yêm La
thành hình ở thành Ca Tỳ La Vệ.
Nơi đây, hình ảnh Thế
giới Tịnh Độ không phải chỉ là Tây Phương Cực Lạc, với ao thất bảo,
với chim thuyết pháp, mà thính chúng trong Pháp Hội Yêm La không chỉ
thụ động thính pháp. Tinh thần của Pháp Hội là thính chúng vừa được
chứng kiến, vừa đóng góp vào sự nhiệm mầu của tương quan giữa cá
nhân và tập thể. Pháp hội, với số lượng đông đảo hàng nhiều chục
ngàn vị, đủ cả Phạm Thiên, Bồ Tát, Tỳ Kheo, nhưng tất cả đều nhận
được lời Phật dạy, theo căn cơ và sở đắc riêng của mình nên tâm mỗi
vị đều trở nên thanh tịnh. Mỗi tâm thanh tịnh đó đã tương quan với
nhau, thành Thế Giới Phật Thanh Tịnh.
Ở cõi Tịnh Độ này, sự
quán tâm là chính.
Ở cõi Tịnh Độ Tây
Phương, lấy câu trì danh hiệu Phật A Di Đà làm chuẩn.
Nhưng rốt ráo, quán
tâm và trì danh hiệu Phật để làm gì? Có phải để đạt được đoạn trừ
phiền não, tiến tới giải thoát nghiệp chướng, ra khỏi vòng sinh tử
luân hồi?
Cũng thế, theo căn cơ
chúng sanh, Đức Phật dẫn dần tới cõi Tịnh Độ ở Kinh Hoa Nghiêm với
tư tưởng đại thừa “Trùng trùng duyên khởi” và Kinh Pháp Hoa
với lời hứa khả “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật”.
Như thế, mọi điểm đi
(hình thức) có khác, mà mọi điểm tới (kết quả) thì như nhau. Suy ra,
hành giả chọn pháp môn nào, hướng về Thế Giới Tịnh Độ nào, cũng khởi
từ tâm mình. Tu Thiền mà đạt tâm thảnh thơi thì cũng như tu Tịnh mà
đạt tâm an lạc.
Người tu thiền chạm
vào công án “Người niệm Phật là ai?” có khác người tu Tịnh,
kiên trì với từng chuỗi hạt “Nhất tâm bất loạn”?
Một con chim bay ngang
bờ hiên, cất tiếng gọi bạn, chợt đưa tôi về với tách trà, về với hai
việc của ngày tuyệt vời là: Làm thinh và không làm gì cả!
Nếu nhìn qua lăng kính
tích môn, tôi đang làm thinh và không làm gì cả. Cái thân tứ đại vẫn
đang ngồi yên, không nói và không làm.
Nhưng nhìn qua lăng
kính bản môn, nghĩa là nhìn sâu vào những bước đi của tâm linh, thì
dường như tôi đang nói nhiều và làm nhiều.
Khi tâm khởi lên hình
ảnh những Thế Giới Tịnh Độ thì bỗng nhiên cái công án nổi tiếng “Niệm
Phật thị thùy?” (Người niệm Phật là ai?) cũng đồng thời hiện ra.
Công án này được coi là cây cầu nối liền giữa Thiền và Tịnh, mà một
lần Sư Ông Làng Mai đã gợi ý, là người tu Tịnh mà giải được công án
này thì sẽ trở thành thiền- sư.
Không thấy ghi lại ở
đâu, có hành giả tu Tịnh nào đã giải công án này, nhưng con đường
tìm học, tự nó, không hề tự dựng nên rào cản nào. Hành giả mọi pháp
môn, mọi căn cơ, trong lúc nâng tách trà, nhấp một ngụm, đều có thể
bâng khuâng tự hỏi “Người niệm Phật là ai?”
Người học Phật, đều
biết trên Lý, rằng vạn hữu, gồm mọi người, mọi loài, đều biến diệt,
đổi thay từng sát na. Lớn như hòn núi, đứng đó khi ta chưa sanh, còn
đó khi ta chết đi, tưởng như nó vô sanh bất diệt. Nhưng sự thực nào
phải thế! Sự biến chuyển, hao mòn của núi chỉ là quá chậm, quá nhỏ
đối với kích thước của nó, khiến ta không thấy mà thôi. Rồi phải tới
lúc, nó không là rặng núi, mà chỉ là ngọn đồi, tang hải hóa nương
dâu, huống chi thân người mong manh! Cái gì biến hoại, cái đó là Vô
Thường.
Trái với núi, những
biến diệt trên thân người có thể thấy thật gần, thật rõ. Tóc mới
xanh, nay đã bạc, đẹp đẽ bao lâu, mà nay xấu xí, mới vừa khỏe mạnh,
nay sao ốm o …. Phàm những gì đổi thay, thành hoại, cái đó là vô
thường. Thân ta đã vô thường, còn chấp cái Ngã nào là ta không?
Có một giai thoại khi
hành giả về tham thiền, hỏi thiền sư Duy Khoang:
- Thưa
thiền sư, đạo ở đâu?
Thiền sư buông gọn hai
tiếng:
- Trước
mắt!
Hành giả chau mày:
- Con
không thấy.
Thiền sư tội nghiệp:
- Vì ngươi
đang bận nghĩ tới Ta và Người.
Hành giả hào hứng, như
câu giải đáp sắp tới đích:
- Thiền sư
thấy không?
- Nếu ta
cũng đang bận nghĩ về Ta và Người thì ta không thấy.
Kiên nhẫn tới đây,
hành giả tin rằng câu giải đáp phải ngay sau câu hỏi kế tiếp. Bèn
hỏi:
- Nếu
không còn bận nghĩ gì về Ta và Người thì thiền sư có thấy không?
Thiền sư cười lớn:
- A ha!
Khi tâm đã rỗng rang, không bận nghĩ gì về Ta và Người thì làm gì
còn ai hỏi, để mà trả lời đạo ở đâu, thấy hay không thấy!
Tách trà suýt rơi khỏi
tầm tay khi giai thoại này bất ngờ tung một móc xích vào công án
oái oăm : ”Người niệm Phật là ai?”
Khải bạch Như Lai,
Trong Bát Nhã Bát
Thiên Tụng, có đoạn: “Tâm Như Lai không trụ bất kỳ ở đâu. Không
trụ trên các pháp hữu vi, không trụ trên các pháp vô vi. Do đó,
không hề rời khỏi sở trụ.”
Thiện tai! Thiện tai!
Vậy thì, Sở Trụ này ở
đâu? Phải chăng Sở Trụ này chỉ do Thức, khởi lên từ Vô Thức? Nó vốn
Như Thị. Nó vốn Như Thế. Nó được gọi là Sở Trụ mà lại chẳng phải là
Điểm Trụ; vì nếu là Điểm Trụ, nó sẽ là đối tượng chướng ngại, ngăn
đường đến cảnh Phật! “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” Hãy để
cho tâm tự tại khởi lên, can chi phải cố định nó ở nơi nào!
Đến đây thì, người
niệm Phật là ai?
May quá, phút trước đỡ
kịp tách trà; chứ không, phút này lấy gì thấm giọng mà hào sảng ngâm
lên hai câu bất hủ của Thiền sư Chân Nguyên:
Vì Người đưa một
nét,
Đầu núi ánh dương
hồng.
Nào hay, sức mạnh ngút
ngàn vô song của nội lực trí tuệ tiềm ẩn trong mỗi tâm-sanh mới dũng
mãnh nhường nào!
Bình trà buổi sáng của
kẻ phàm phu chưa cạn, đã thấy thấp thoáng bóng Ngài Trúc Lâm trên
non Yên Tử, đang thong dong đãi khách một Thiền Trăng:
“Bình xưa dốc
nguyệt, trời khuya nấu trà!”
Huệ Trân
(Tào- Khê tịnh thất-
một ngày tĩnh lặng)
|