Chỉ biết ngậm ngùi
Trong
chuyến viếng thăm tiểu bang Utah, tôi đi thăm hầu hết các thắng cảnh
nơi đây. Thủ phủ của tiểu bang là Salt Lake City. Hồ nước mặn Great
Salt Lake rộng mênh mông nằm trong vùng đồi núi Rocky Mountains cao
hàng ngàn bộ cách mặt biển. Ðộ muối trong nước cao gấp năm lần nước
biển đại dương. Một kỳ công của Thượng Ðế đã ưu đãi cho vùng đất cao
nguyên này.
Utah còn là Thánh địa của đạo Mormon, đang phát triển rất mạnh. Ðến
Utah không thể không đến viếng Mormon Temple. Một thắng cảnh, một kỳ
quan có chiều dài lịch sử gắn liền với sự khai khẩn, xây dựng và phồn
thịnh của Utah. Ðạo Mormon (Mạc Môn) còn tên gọi khác là Ðạo LDS viết
tắt của chữ Latter Day Saints, có nghĩa là Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày
Sau của Chúa Jesus Christ (The Church of Jesus Christ of Latter Day
Saints). Ðền thờ trung tâm có sáu ngọn tháp cao chót vót xây dựng suốt
bốn mươi năm mới hoàn thành. Trung tâm giáo hội (Temple Square) trải
rộng 35 mẫu Anh là một quần thể kiến trúc vĩ đại, tân kỳ, lộng lẫy và
trang nghiêm. Trên đỉnh tháp đền thờ (Temple Of The Lord) cao vút là
tượng một người đàn ông bằng vàng đứng thổi kèn. Ðây là tượng của vị
thiên sứ ánh sáng Moroni hiện ra vào ngày 21 tháng 9 năm 1823. Ngài
soi dẫn cho tiên tri Joseph Smith đương thời biết nơi chôn giấu biên
sử cổ xưa. Sách ấy chứa đựng trọn vẹn Phúc Âm vĩnh cửu do chính Ðấng
Cứu Rỗi đã ban cho các dân tộc. Từ đó, kinh sách Mormon được dịch và
viết ra dựa vào bảng khắc bằng vàng (Gold Plates) chôn cất trên đồi
Cumorah gần làng Manchester thuộc tỉnh hạt Ontario, tiểu bang New York
từ năm 421 sau Thiên Chúa. Toàn bộ sách Mormon là lời rao giảng của
Chúa Jesus Christ giữa người Nephites không lâu sau khi Chúa phục
sinh. Ngài tiên tri Joseph Smith còn được Chúa khải thị viết nên tập
Giáo Lý và Giao Ước.
Luật tiểu bang Utah không cho mở sòng bài và các hình thức đánh bạc
công cộng. Các chợ chỉ bán bia với nồng độ 3 phần trăm. Kết hợp với
"Lời Thông Sáng" của đạo Mormon, đạo hữu không cờ bạc, không hút
thuốc, không uống các loại nước có ga và có màu khiến cho đời sống nơi
đây yên bình hơn, ít tội phạm hơn so với tình trạng chung trên đất Mỹ.
Và có thể nói là môi trường thích hợp cho tuổi thơ được nuôi dưỡng và
lớn lên trong nếp sống trong lành.
* * *
Tôi đi theo đoàn người vào thăm khu Temple Square. Dọc theo lối đi là
những luống hoa khoe màu rực rỡ. Mặt nước hồ nhân tạo được xây cao
trên mặt đất nằm im phăng phắc như tấm gương vĩ đại phản chiếu lấp
lánh ánh mặt trời. Các hình tượng điêu khắc đầy nghệ thuật và phong
phú được trưng bày trên những bực thềm và dựng rải rác trong khuôn
viên rộng lớn. Các chức sắc, những người truyền giáo và tín hữu làm
công tác thiện nguyện trang phục vét-tông cà-vạt chỉnh tề. Họ có nhiệm
vụ giữ trật tự, hướng dẫn và giải thích những điều mà khách thăm viếng
và tín đồ hành hương cần tìm hiểu.
Tôi vừa bước lên khỏi bậc thềm khu nhà thờ Church Office Building, tòa
cao ốc 26 tầng dùng làm trung tâm điều hành của giáo hội, chợt một
thanh niên trong bộ vét-tông đen trông chững chạc và đạo mạo đến trước
mặt tôi :
- Thưa, bác là người Việt ?
Tôi nhận ra là một thanh niên Việt Nam. Có lẽ đây là thầy Tư tế, một
chức phẩm trong dòng đạo này làm công tác thiện nguyện vào ngày Chúa
Nhật. Tôi đứng lặng nhìn người thanh niên đang đứng trước mặt tôi có
khuôn mặt giống người bạn của tôi năm xưa khi ở chung trong trại tù
sau năm 1975. Sự bàng hoàng trải qua mấy phút đồng hồ, tôi mới thốt
nên lời:
- Vâng, tôi là người Việt. Xin lỗi cậu về sự thất thố đã đường đột
nhìn cậu trong khung cảnh này. Có điều tôi cũng xin thú thật là cậu có
khuôn mặt giống người bạn tôi hồi còn ở quê nhà.
Người thanh niên hướng dẫn tôi đi thăm khu Bảo tàng viện và Nghệ thuật
gồm tranh ảnh và những bức tượng điêu khắc các vị Lãnh đạo
(Presidents) và 12 Sứ Ðồ từ thời khai sáng đạo Mormon đến bây giờ.
- Này, cậu qua Mỹ năm nào? Tôi gợi chuyện, khi người thanh niên đứng
lại đợi đoàn khách thăm viếng còn trụt lại sau.
- Thưa bác, cháu qua đây vào giữa năm 1992 theo diện HO cùng với mẹ
cháu và một người chị được định cư ở tiểu bang Utah này ngay từ ngày
đầu.
- Thế ba cậu đâu ?
- Ba cháu chết trong trại tù An Ðiềm.
- Ba cậu tên gì?
- Tôn Long Mỹ.
Tôi sửng sốt đến lặng người, rồi nhắc lại:
- Tôn Long Mỹ là cha ruột của cậu sao?
- Vâng ạ. Me cháu bảo ba chết lúc cháu mới ba tuổi.
- Cháu ơi, Tôn Long Mỹ là bạn của bác sống gần nhau suốt ba năm trong
tù.
Người thanh niên đứng khựng lại nhìn tôi rồi thảng thốt kêu lên:
- Ba cháu là bạn cùng tù với bác? Ôi, quý hóa quá. Ðiều ước nguyện của
me cháu là mong gặp được người nào đã chứng kiến cái chết của ba cháu
trong tù. Thượng Ðế ơi ! ngài đã chuẩn nhận lời cầu xin của con và
ngày hôm nay Cha trên trời đã mang đến cho gia đình con ân sủng của
ngài. Con xin tạ ơn Chúa, Amen.
Người thanh niên ngẩng đầu lên:
- Thưa bác, tên cháu là Tôn Thất Trương Thuật. Cháu nghĩ bác không
phải là người ngụ cư ở tiểu bang này vì vậy xin phép bác cho Me cháu
được gặp mặt trong ngày mai. Có được không, thưa bác?
Tôi móc bóp lấy tấm danh thiếp của con trai tôi đưa cho Thuật:
- Ðây là số phôn và địa chỉ nhà con tôi. Qua đây chỉ để thăm con cháu
và viếng cảnh, tôi chẳng có gì phải bận bịu. Me cậu muốn gặp tôi giờ
nào cũng được, còn cả tuần nữa tôi mới quay về Cali.
* * *
Cuộc thăm viếng vẫn tiếp tục nhưng hình ảnh của Tôn Long Mỹ qua những
năm tháng trong tù như một đoạn phim hiện ra trong trí nhớ của tôi:
Mỹ nhỏ hơn tôi 5 tuổi, vóc người tầm thước, khỏe mạnh và xốc vác. Tính
tình thuần hậu, phóng khoáng. Anh rất sùng đạo Phật. Tuy nội quy cấm
mọi hình thức có tính cách tôn giáo, nhưng Mỹ vẫn cố lén ăn chay vào
ngày mồng Một và ngày Rằm âm lịch..
Ban giám thị trại chỉ định đội 3 phụ trách xây dựng chiếc cầu treo bắc
qua dòng sông Côn để dân chúng làng Thượng và tù nhân có thể qua lại
trong mùa nước lũ. Bên kia sông là cánh đồng rộng chạy dài đến tận
chân đèo. Mỗi năm, tù phải sản xuất đủ ba mùa lúa. Mùa mưa thì tháo
bớt nước ra, mùa nắng thì thay nhau đêm ngày tát nước lên đồng.
Hai bên bờ sông toàn là đất núi bị nước xoi mòn lâu ngày thành sông.
Người ta chọn nơi có hai mô đất nhô ra là nơi hẹp nhất của dòng sông
để bắc cây cầu đi qua. Những ngày đầu khởi công, đội làm cầu phải đào
đất, đóng kè xây dựng hai môi cầu cho vững chãi để giữ chân bốn thanh
đường ray xe lửa làm trụ chịu đựng sức trì kéo của cây cầu treo dài 80
mét.
Mùa lũ, nước chảy xiết đã khoét lõm sâu vào chân dọc hai bên bờ. Ðể
nâng giữ khối đất phía trên khỏi bị sụp lở, tù phải xây những lớp đá
vào chỗ lõm bên dưới. Ðang trong mùa nắng hạn, mực nước sông xuống
thấp tận cùng nên hai môi cầu là hai khối đất khổng lồ đứng chênh vênh
bên bờ vực. Ðám tù hì hục đưa đá tảng lấp đầy khoảng trống dưới chân
môi cầu.
Mỹ là tay thợ xây trong toán cất nhà cửa từ ngày vào tù. Cách làm việc
của anh là tận lực, yêu nghề và tinh thần trách nhiệm cao mặc dầu anh
chỉ là tù nhân. Mỹ có quan niệm : Bất cứ lãnh vực nào người sĩ quan
Miền Nam phải thể hiện tài năng trước bọn cai tù. Ðừng để họ lấy cớ sự
sai sót mà mạt sát lăng nhục mình. Chính vì thế mà anh nhận công việc
nặng nề nhất là xây bệ đỡ cho khối đất bên dưới môi cầu.
Hàng trăm viên đá chẻ được một đội tù khác cung cấp chất đống trên mô
đất dự định xây móng chân cầu. Sức nặng của đống đá cùng với sự hỏng
chân của doi đất, khối đất trên đầu Mỹ bất ngờ đổ sụp. Mỹ bị chôn sống
dưới khối đất khổng lồ. Bạn tù đã nổ lực đào bới để cứu anh. Nhưng,
con người chỉ là sinh vật bằng xương bằng thịt làm sao chịu đựng nổi
sức nặng hàng chục tấn của đất đá đè lên. Xác anh cuốn tròn mềm nhũn
như con sùng. Nước mắt chúng tôi chảy ràn rụa. Lần đầu tiên người tù
không che giấu dòng lệ của mình trước mặt bọn cai tù. Mỹ ra đi để lại
nỗi đau đớn tận cùng cho người vợ trẻ và hai đứa con thơ.
- Thưa bác, đây là vị Tiên tri Joseph Smith được Chúa mặc khải viết ra
Giáo Lý và Giao Ước. Cũng là vị Chủ tịch đầu tiên của Giáo Hội bầu ra
tại một buổi họp của Hội Ðồng Thượng Phẩm trong ngày 24 tháng Chín năm
1834 tại Kirtland, Ohio.
Lời giới thiệu của Thuật làm tôi bừng tỉnh. Trước mặt tôi là bức tượng
bán thân bằng đồng đỏ mà mắt tôi chỉ nhìn thấy thân thể của Mỹ đầy
máu. Tất cả xương trong người anh từ đầu đến chân hầu như nát vụn. Thi
hài anh khi được khiêng lên nó oằn xuống thoạt trông như một chiếc bao
tời đựng thịt. Ðầu và mặt anh hoàn toàn bị biến dạng. Ðến đây, tôi
không còn tinh thần và hứng thú để đi xem hết các công trình nghệ
thuật trong viện bảo tàng nữa nên cáo từ Thuật ra về.
* * *
Sáng ngày hôm sau, tôi nhận được cú phôn của Thuật thật sớm mời tôi
đến nhà hàng Mỹ Tiên vào lúc 12 giờ trưa, nhân tiện me của cậu xin
phép được gặp mặt.
Tôi vừa đến cửa nhà hàng, Thuật đã vội vàng ra đón. Một phụ nữ mặc áo
dài màu khói hương đứng dậy cúi đầu:
- Kính chào ông anh.
Tôi thật sự xúc động, khi Thuật giới thiệu đây là me của cậu. Khuôn
mặt người đàn bà thanh tú, phúc hậu nhưng trong ánh mắt vương vất nỗi
buồn. Tôi cúi đầu chào đáp lễ, rồi ngồi vào chiếc ghế đối diện mà
Thuật vừa mới kéo ra mời.
- Thưa ông anh, giọng Huế nhè nhẹ, trầm buồn, người đàn bà tự giới
thiệu:
- Em tên là Trương Thị Ngọc nghe cháu Thuật nói gặp được ông anh,
người ở cùng chung trại tù An Ðiềm với ba nó. Em mừng lắm. Mặc dầu anh
Mỹ mất đã gần 25 năm mà lòng em cứ phân vân, thắc mắc mãi khi nhận
được giấy báo của trại tù rằng chồng em chết vì bệnh nhiễm trùng gan
cấp tính. Trong khi đó đã hai lần em được anh ấy về báo mộng với khuôn
mặt đầy máu me nhìn em trong đau đớn. Hình ảnh đó chưa phai mờ trong
trí nhớ của em. Trước khi đi Hoa Kỳ, chúng em có đến trại An Ðiềm để
xin dời mộ nhưng Ban Giám Thị trại không xác định được vị trí nơi chôn
anh Mỹ, còn tù nhân toàn là lớp hình sự sau này. Cái nghĩa địa tù bị
nước trên đỉnh núi cao đổ xuống xói mòn gần hết. Em vô cùng đau khổ,
đến lúc ra đi mà chưa lo cho chồng được mồ yên mả đẹp. Hai đứa con em
biết rõ niềm trăn trở đó, chúng nó luôn luôn cầu nguyện mong được gặp
người biết rõ về cái chết của ba chúng. Cách đây hai đêm, em nằm mộng
thấy nhà em về chùa. Trong cơn mơ em mừng quá chạy đến ôm anh ấy nhưng
hình hài đó tan biến ngay. Không biết có phải đây là điềm báo của anh
Mỹ rằng em sắp gặp được ân nhân. Em hy vọng ông biết rõ cái chết của
chồng em và còn nhớ địa điểm mộ phần của anh ấy.
Người phụ nữ nói một mạch như trút cả nỗi lòng u ẩn bấy lâu nay. Tôi
trân trọng trước lòng trung trinh tiết nghĩa của người vợ sống trọn
đời thờ chồng nuôi con. Trước khung cảnh này đây, tôi không muốn khơi
lại hình ảnh cái chết khủng khiếp của Mỹ. Tôi không muốn tạo thêm sự
khủng hoảng trong lòng mỗi người. Vì thế, buộc lòng tôi phải lặng
thinh xem như đồng lõa với sự dối trá của một chế độ luôn luôn che đậy
sự thật và chối bỏ trách nhiệm của mình.
- Thưa chị, tôi lên tiếng. Cái chết của anh Mỹ, anh em tù chúng tôi
đau lòng lắm. Ðời người chỉ một lần chết, tiếc rằng anh ra đi quá sớm.
Phải chăng định mệnh đã an bài. Mong chị và các cháu thôi băn khoăn về
nó nữa. Tôi vẫn còn nhớ chỗ chôn anh ấy trong nghĩa địa tù. Hứa với
chị khi về lại Cali, tôi sẽ vẽ sơ đồ địa điểm ngôi mộ của anh Mỹ.
Khi tôi ngưng nói, bà lấy khăn thấm giọt lệ còn đọng lại trong khóe
mắt, rồi tiếp lời:
- Thưa ông, nếu được, xin gởi cho em bản vẽ địa điểm mộ của anh Mỹ
càng sớm càng tốt. Cuối năm này, cháu Thuật đi Việt Nam với phái đoàn
thuộc "Hội Bạn Người Cùi Việt Nam" trụ sở ở Mỹ kết hợp với nhóm "Vòng
Tay Bạn Bè" ở Hà Nội làm công tác thiện nguyện ủy lạo, giúp đỡ và chăm
sóc cho những người mắc bệnh cùi. Nhân dịp này em sẽ theo cháu về dời
mộ cho ba chúng nó.
Thuật đang ngồi yên trong góc bàn chăm chú nghe, tôi liền quay sang
hỏi:
- Cậu về Việt Nam công tác bao lâu ?
- Cháu tình nguyện một năm.
- Sao lâu đến thế !
Bà mẹ tiếp :
- Cháu nó theo ngành Y, còn một năm cuối cùng thực tập trong bệnh viện
ở tiểu bang này trước khi ra trường. Người yêu của nó là nữ sinh viên
Việt Nam qua Mỹ du học. Chúng nó yêu nhau và dự tính sau chuyến đi này
trở về sẽ tổ chức đám cưới tại đây. Thằng con em, nó sống cho tha
nhân. Sẵn lòng dấn thân giúp đỡ cho người nghèo khổ, hoạn nạn dù bất
cứ dân tộc nào. Hai chị em nó có cùng một quan điểm: “Thương người như
thể thương thân.”
Tôi ngắt lời :
- Vậy hiện giờ cháu gái ở đâu?
- Cháu có chồng là một Mục Sư Tin Lành người Mỹ hiện ở Colorado. Trận
thiên tai, bão lụt nào ở Việt Nam bị thiệt hại nặng nề là vợ chồng nó
đều gởi về cả tấn áo quần, chăn mền do Thánh đường quyên góp.
Sau bữa cơm trưa tại nhà hàng, tôi từ biệt mẹ con Thuật ra về. Một
tuần lễ sau tôi lên máy bay trở lại tiểu bang Cali. Ðể thực hiện điều
mình đã hứa, tôi ôn lại vị trí của nghĩa địa tù An Ðiềm để vẽ cách nào
đơn giản nhất mà gia đình của Mỹ có thể tìm được mộ anh dễ dàng. Tôi
không tưởng tượng được hiện giờ nghĩa địa ấy bị hoang phế ra sao,
nhưng chắc chắn là nước mưa từ trên núi đổ xuống đã san bằng tất cả.
Những tấm bia bằng gỗ tạp trải qua trên hai chục năm không thể tồn tại
với thời gian. Rất may là ngôi mộ của Mỹ nằm sau gốc một cây đại thụ
che chắn. Nước có thể xoi mòn phần trên mặt nhưng xương cốt Mỹ nằm sâu
dưới đất không thể trôi theo dòng nước. Trong sơ đồ, tôi ghi rõ trên
thân cây đó có bốn nhát búa hình chữ M do anh em tù trong đội thay
nhau khắc vào. Ðó là dấu tích mà tôi hy vọng gia đình của Mỹ sẽ tìm
ra.
Nhận được bản phác họa chỉ dẫn,
Thuật điện thoại sang cảm ơn và tin cho tôi hay tháng tới sẽ lên đường
về Việt Nam.
* * *
Ba năm sau, tôi trở lại Utah trong mùa Giáng Sinh. Ðồi núi vây quanh
thung lũng rộng lớn trở thành những dãy núi tuyết sáng trắng. Tuyết
phủ đầy trên mái nhà và tràn ngập hai bên lề đường.
Trong ngày Giáng Sinh, tôi theo đoàn người tiến vào khu Temple Square.
Vừa bước chân vào đây là tôi cố ý tìm gặp cậu Tôn Long Trương Thuật để
hỏi thăm tin tức về mẹ cậu và việc dời mộ của bố cậu như thế nào. Tôi
dạo trong khu Tabernacle nổi tiếng với cây đàn Orchestra khổng lồ gồm
11,000
ống tupe kim loại ghép lại. Có thể nói đây là cây đàn lớn nhất thế
giới. Rồi đến khu Conference Center, chứa 21,000 chỗ ngồi và 900 ghế
cho ca đoàn. Hội trường được thiết kế với kỹ thuật hiện đại mà âm
thanh của hai mảnh giấy cọ vào nhau trên khán đài, người ở cuối phòng
cũng nghe được. Sau cùng, tôi tìm tới khu Joseph Smith Memorial
Building, nơi đây chung quanh tường có những phù điêu chạm khắc mỹ
thuật và tinh xảo nhưng vẫn không thấy Thuật đâu. Tôi ra về mà nghe
lòng mình trống trải vô cùng.
Ngày mồng một âm lịch, tôi đến viếng cảnh chùa Tam Bảo. Những bông
tuyết rơi đầy trời, phủ trắng cả sân chùa như trải thảm bằng bông.
Hàng cây kiểng chạy dài trước sân lung lay những mảnh tuyết vỡ trên
cành lá. Tôi đang dạo bước trên lối đi vào chánh điện, chợt một ni cô
đến trước mặt tôi vái chào. Tôi sững sờ khi nhận ra người phụ nữ ba
năm về trước,
Trương Thị Ngọc. Bà cho biết đã quy y mang pháp danh Diệu Ngọc. Chỉ ba
năm thôi mà trông bà cằn cỗi, già đi rất nhiều. Ðôi mắt tràn ngập nỗi
ưu tư, sầu não. Bà mời tôi vào nhà khách dùng trà. Ni cô lên tiếng:
- A Di Ðà Phật, trước tiên bần ni xin đại diện gia đình bày tỏ lòng
tri ân đến ông anh. Nhờ bản vẽ địa điểm ngôi mộ rõ ràng từng chi tiết
nên chúng tôi đã tìm được mộ phần của anh Mỹ khá dễ dàng. Hài cốt của
anh ấy đã được đem qua đây thờ trong chùa. Những tưởng linh hồn anh Mỹ
được thanh thoát... Nói đến đây, chợt những giọt lệ long lanh trong
mắt của ni cô trào ra.
Tôi ngạc nhiên, vội hỏi:
- Ðã có chuyện gì xảy ra?
Ni cô cúi đầu để dấu đi những giọt lệ mà một sa di cần phải đè nén.
Hồi lâu bà mới ngẩng mặt lên:
- Sau một năm chăm sóc những nạn nhân bệnh cùi ở Việt Nam, cháu Thuật
trở lại Hoa Kỳ. Ban đầu, Thuật trốn tránh người yêu của nó và cuối
cùng quyết định dứt khoát không còn liên lạc với nhau. Một thời gian
sau, trên mặt cháu xuất hiện những mụn sưng đỏ. Tôi hỏi, nó lảng
tránh, không trả lời. Dần dần cháu nó ít về nhà hơn. Cách đây một năm,
cháu về Việt Nam ở lâu dài. Vừa rồi tôi nhận được thơ của nó.
Bà ngưng kể, lấy trong túi áo trao cho tôi một lá thư đã nhàu, nội
dung khá ngắn gọn: “Có lẽ ý muốn của Chúa dành cho con một đời phải hy
sinh phục vụ cho nhân sinh đang gánh chịu nỗi thống khổ của căn bệnh
hiểm nghèo. Con rất thỏa lòng khi chính bàn tay mình thoa dịu được nỗi
cô đơn của bao người bất hạnh. Tuần này ở trại cùi Quy Hòa thuộc tỉnh
Bình Ðịnh. Tuần sau có thể ở làng phong cùi Ðồng Lệnh tận tỉnh Tuyên
Quang để chăm sóc cho các bệnh nhân. Mong me xem con như được Chúa đón
đi từ lúc mới lọt lòng.”
Chờ tôi đọc xong bức thư, bà tiếp :
- Khi hiểu ra thằng con đã mắc bệnh phong cùi, tôi đã khóc suốt đêm
trường. Mỗi lần nghĩ đến nó là lòng tôi quặn thắt như đứt từng đoạn
ruột, tê dại cả tâm hồn.
- Thưa bà, tôi lên tiếng an ủi : Có phải chăng đây là sự sắp đặt
củaThượng Ðế? Theo tôi được biết bệnh phong cùi không dễ truyền nhiễm
cho người chăm sóc khi đã ngăn ngừa đầy đủ, vả lại đã có thuốc điều
trị tổng hợp từ thập niên 70 – 80. Thuốc tiêu diệt được vi khuẩn, giảm
thiểu lây lan.
- Nhưng, thưa ông anh, bà mẹ của Thuật nhìn tôi không còn là ánh mắt
một ni cô mà trở về với ánh mắt chuyên môn của một y tá viên điều
dưỡng, nghề nghiệp của bà ngày xưa:
- Thuốc có thể chữa lành bệnh với đa hóa trị liệu nầy, nhưng không
phục hồi được tổn thương của dây thần kinh làm biến dạng mặt, biến
dạng bàn tay bàn chân. Ðó là những dấu tích mà con tôi phải chịu đau
lòng, mang mặc cảm tủi nhục suốt đời của người mắc bệnh phong cùi !
Nói đến đây, bất chợt ni cô Diệu Ngọc ôm ngực chạy về hướng tịnh thất.
Tôi thật sự xót xa trước nỗi đau của người mẹ như đã nhận lãnh cơn đau
của con trai mình. Riêng về Thuật, tôi cảm nhận được đức tin cao cả
của chàng. Ðức tin đã vượt lên trên những ước vọng tầm thường mà người
phàm đeo đuổi. Tôi tin rằng Chúa sẽ dẫn dắt cậu ấy đi trọn vẹn cuộc
đời hạnh phúc sống vì tha nhân.
Chỉ biết ngậm ngùi, tôi đẩy cửa bước ra ngoài. Gió mỗi lúc mỗi mạnh
thổi nghiêng ngả hàng cây trụi lá đứng chơ vơ hai bên đường. Cái băng
giá ngoài trời làm tăng thêm nỗi u hoài trong tôi. Lê đôi chân nặng
trĩu, tôi bước đi dưới bầu trời đang cơn bão tuyết. Từng mảnh tuyết
hắt vào mặt tôi như những mảnh vỡ thủy tinh thay nhau cứa vào da thịt
tôi rát buốt. Tôi vuốt mặt, tuyết tan ra nhơn nhớt trên đôi tay. Bất
giác, tôi có cảm tưởng như máu và đất trộn lẫn nhầy nhụa trên tay tôi
ngày nào đã vuốt mắt cho Mỹ khi xác anh nằm bất động trên bờ sông Côn.
Tôi lau nhanh những giọt lệ đọng bờ mi trước khi bước lên chiếc xe bus
cửa mở sẵn đợi chờ.
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích |