Cho tôi ôm trái tim Việt
Nam
Kính tặng nhà văn Tiểu
Tử.
Hôm nay, thứ Sáu, ngày nghỉ thường lệ của tôi. Thay vì đến thăm má
tôi và thu dọn nhà cửa, tôi làm một việc hơi khác thường. Nhét chiếc
võng vào ba lô, kem chống nắng, thêm bình nước lọc, vài trái cây,
bọc hột điều, gói khăn giấy, cùng một quyển sách, món quà tôi mới
nhận được hôm kia, do một anh bạn bên Pháp gởi qua. Tôi lái xe vào
khu công viên quốc gia, trực chỉ vùng Wattamoolla. Lựa một chỗ
khuất, có bóng mát, biển mở ra bạt ngàn trước mắt. Hai bên là núi
chập chùng ngọn gần ngọn xa, một mình với thiên nhiên tỉnh lặng. Cột
dây võng vào hai gốc cây, tôi dành ngày hôm nay để đọc sách, tập
truyện ngắn “ Bài ca vọng cổ” của Tiểu Tử.
Tôi
có lý do để trân trọng về tác giả nầy. Cách đây vài năm, trong một
chuyến rong chơi của bốn nàng “ sồn sồn”: Anh Thư, Kim Ngọc, Thanh
Yến và tôi. Bốn cô nương đến nhà anh Hai Trần tạm trú. Đêm đầu tiên
ở Roissy en Brie, một vùng ngoại ô nước Pháp. Trước khi đi
ngủ, tôi vói tay lấy một tạp chí cũ chủ gia để sẳn cạnh bên giường
đọc để dỗ giấc ngủ. Đó là lần đầu tiên tôi biết đến Tiểu Tử qua
truyện “Chị Tư Ù”. Đọc để ngủ, nhưng lại thao thức vì thương nhân
vật Tư Ù làm sao!
 |
Đầu
năm ngoái, người bạn khác chuyển qua email truyện “Thằng chó đẻ
của má”của nhà văn Tiểu Tử . Đọc vài dòng mở đầu, tôi
nghĩ má tôi sẽ thích bài nầy. Tôi in ra giấy, chạy xuống lầu đi
thẳng vào phòng má tôi đọc cho bà nghe. Đọc, mà tôi cứ phải ngừng
lại vì nghẹn ngào, vì nước mắt cứ chảy. Má tôi giục tôi đọc tiếp
trong khi bà cũng rút khăn giấy chậm nước mắt. Má tôi cũng bị xúc
động như tôi. Sau nầy, thỉnh thoảng má tôi hay hỏi: “Cái ông viết
bài thằng chó đẻ có viết bài nào nữa không? Có, con nhớ đọc cho má
nghe với.” Chị Tư Ù, sau bao nhiêu năm vẫn lẻo đẻo theo tôi. Với
má tôi, thằng chó đẻ cũng vậy.
Mở
đầu là truyện “Bài ca vọng cổ”, được dùng làm tựa cho tập
truyện ngắn. Truyện kể về một đứa con Việt lai Mỹ đen sống ở Phi
châu tâm hồn còn đầy tính chất Việt Nam, tình cờ gặp một người Việt
Nam rặt. Nó ca vọng cổ, “xuống hò” đàng hoàng. Thằng “Jean
le vietnamien” có bề ngoài bên nội và :
-“Còn
bên ngoại của con, nó nằm ở trong. Ở đây nè bác”, nó để một tay lên
ngực và vỗ nhè nhẹ về phái trái tim”.
Thế là hai người Việt cô đơn, một lai
một rặt, một già một trẻ, gặp nhau, ở một nước xa lơ xa lắc, ôm ghì
nhau mà tưởng tượng như “ôm
lại được góc trời quê mẹ…”
Truyện kế tiếp “Nước chảy đá mòn”,
kể về một người già cô đơn sống nơi xứ người, nhớ miên man đủ
chuyện, chuyện ngày xửa ngày xưa, những kỷ niệm hồi năm nẳm, như
cuốn phim được quay lại, sờ sờ trước mắt, trong đầu. Nhìn nước chảy
ở suối bên ni nhớ về dòng sông bên nớ. Tuổi già quên trước lộn sau.
“Vậy mà hình ảnh quê hương vẫn còn nằm nguyên đâu đó trong
lòng…chỉ cần một chất xúc tác là nó bật lên rỏ rệt…làm như mình đang
sống trong đó mới hôm qua”. Tiểu Tử kể về làng của ông và kết
luận: “Làng tôi đó! Quê trân! Chẳng chút màu mè. Vậy mà sao tôi
vẫn thương”. Có ai trong chúng ta không thương và nhớ về Mẹ. Hãy
nghe ông tâm sự, lời giản dị mà đầy hồn : “Mẹ
gánh xôi ra ngồi bán ngoài chợ…mẹ đi chân không, mỗi bước chân của
mẹ giậm xuống làm tung lên một chút bụi đường….Hơn sáu chục năm sau,
ngồi ở trời Tây nầy, tôi đâu cần nhìn, mà sao vẫn thấy được - thấy
rõ - hai bàn chân của mẹ”.
“Làm
thinh” là truyện thứ tám. Một câu chuyện tôi cảm thấy rất “nặng
ngực” khi đọc. Chuyện kể về một nhân vật rất thành công trước 1975.
Một sớm một chiều sau cuộc đổi đời, bỗng hoá trắng tay như trong cơn
mộng dữ. Oái oăm! Đó không phải là giấc chiêm bao dữ dằn. Đó là sự
thật một trăm phần trăm! Không làm thinh thì làm gì ai, hoặc làm gì
nhau? Làm thinh để nén uất ức, vì nếu bộc lộ thành lời sẽ thêm “tiền
mất tật mang”. Làm thinh vì thất thế: “Bây giờ, người chồng thần
tượng của ngày trước chỉ còn là một cái bóng! ” Ông Lê Tư càng
im thinh thích sau khi được con bảo lãnh qua nước ngoài. Lý do làm
thinh lần nầy khác hẳn với lý do lần trước. Làm thinh vì ứ hự! Ba sự
khép miệng chỉ giống nhau ở cái chỗ đắng cay, thứ cay đắng “ muốn
nuốt ực mà nó cứ nghẹn ở cổ”, làm tôi phải lắc đầu hởi ôi! Cuối
cùng ông đã làm thinh mà đi. Đi đâu? Đọc truyện, tôi cũng làm thinh
đi cùng ông một đoạn đường rồi dừng lại. Tôi để ông tiếp tục đi một
mình, để ông tự quyết định đời mình khi thời điểm đã đến, khi mà cả
ba tài sản qúy giá của một đời người đều bị phá sản không còn xót
lại bóng dáng: vật chất, tinh thần và tình cảm . Này bạn! Khi đọc
truyện này, khi bạn cùng đi với ông Lê Tư đến bước cuối. Xin bạn hãy
cho tôi biết bạn nghĩ gì và hành xử ra sao? Nhớ cho tôi biết nhé!
Truyện thứ mười “Mùa Thu cuộc tình” nói về sự xum họp của
Ngưu lang Chức Nữ. Kể tâm sự một người đàn ông xa vợ mười năm. Có
biết bao nhiêu sự chia cách não lòng như thế sau cuộc đổi đời bảy
mươi lăm! Anh ghe nầy em ghe kia, ghe anh đi thoát, ghe em bị bắt
lại. Ghe con đến bờ, ghe mẹ chìm vào lòng biển sâu! Hoặc có gia đình
chỉ đủ tiền để một hai thân nhân ra đi mà thôi!!! Tiểu Tử kể tâm
trạng người chồng chờ gặp lại vợ sau bao năm xa cách… Gần đoạn cuối,
thêm một bước ngoặt của câu chuyện với hai chữ “Bởi vì” làm tôi nín
thở. Còn thêm ba dấu chấm… Và, Trời ơi. Tôi đã kêu lên như thế với
những dòng kế tiếp của ông.
Còn
nữa, các truyện khác trong tập truyện Bài Ca Vọng Cổ của Tiểu Tử: “Con
Mén” đứa con đang sống ở Tây muốn học tiếng Việt để viết thư về
thăm ba nó còn kẹt lại ở Việt Nam. “Made in Việt Nam” đứa gái
da vàng bỏ nhà đi hoang vì nền tảng gia đình bị tan rã trên đất
người, may mắn tạo lại được tương lai nhờ lòng tốt của một gia đình
người Việt, “lá lành đùm lá rách” nơi đất lạ. “ Nội” về lòng
mẹ, nỗi đau cắt rún lìa con lần thứ hai vì thời cuộc.. Mười bốn
truyện, nội dung nào cũng xúc tích. Có những lúc tôi phải ngừng lại
vì xúc động. Ôi nhân vật! Ôi tình người! Ôi thế sự! Ôi đời!
Đọc
xong tập truyện của Tiểu Tử, xếp sách lại. Thừ người bất động một
hồi lâu. Tôi nhìn kỷ lại bìa quyển sách. Bìa trình bày đơn sơ như
không thể đơn sơ hơn. Lật bìa sau, cũng không có hình của tác giả.
Lật lại vài trang đầu cũng không có lời giới thiệu của bất cứ nhân
vật nổi danh nào. Cũng không có lời vào truyện của chính tác giả.
Chỉ một dòng nhắn gởi ngắn ngủi: “Thương tặng những ai trong lòng
còn giữ được dấu ấn Made In Việt
Nam”
và địa chỉ email của ông cho đọc giả muốn mua sách. Chỉ vậy! Mười
bốn truyện, hai trăm ba mươi bảy trang. Những dòng văn đơn sơ mà
xoáy vào tim tôi thành những giọt nước mắt muốn cầm cũng “chẳng
đặng”. Những chữ dùng mộc mạc Nam kỳ rất quê mùa mà tôi thường được
nghe, khi tôi còn học tiểu học ở quê, lâu lắm rồi mới được thấy lại:
cắc ca cắc củm, xém, hà rằm… Những tiếng mắng, tiếng kêu đầy
yêu thương của người miền Nam : “cha mầy” của ông Nội. “Thằng
chó đẻ” của người mẹ. Mồ Tổ mầy… nghe sao như được sống
lại những ngày tôi còn đưa tay áo lên quẹt mũi chảy thò lò, những
lúc cả chục đứa trai gái trong xóm trần truồng tắm mưa, vọc nước…vô
tư cười dòn ran.
Anh
Tiểu Tử! Sau hôm nay, anh nợ tôi những giọt nước mắt, tiếng thở dài,
những nhịp tim đập nhanh, lần cắn môi để khỏi bật khóc thành tiếng.
Những cái lắc đâù hởi ôi. Ngược lại, tôi cũng nợ anh những nụ cười
chúm chím, tiếng cười khoái chí, những kỷ niệm trẻ thơ đựơc khơi
lại. Cám ơn anh đã cho tôi, một đọc giã phương xa, chia những vui
buồn của riêng anh. Tôi đoán ít nhiều: có anh, gia đình anh, và
những ưu tư của anh được gởi gấm qua các mẫu truyện này. Hơn thế
nữa, từ đó, tôi được biết thêm những thảm cảnh, kinh nghiệm máu
xương và nỗi lòng của hàng trăm ngàn người Việt Nam Hải Ngoại và
Quốc Nội.
Tôi
áp quyển truyện vào tim mình như muốn ôm một trái tim Việt Nam còn
nóng hổi. Tôi đặt quyển truyện vào lòng như muốn được chia sẻ với
các nhân vật trong mười bốn câu truyện nầy, nhân vật chánh, nhân vật
phụ, mỗi người một nét, một thảm cảnh, thắt thẻo bao niềm riêng…
Tôi muốn cho
thằng Jean le Vietnamie, cô Kim Made In Viet Nam,
hai nhân vật của Tiểu Tử biết: tôi cũng là một người Made- In- Viet
Nam, nhỏ hơn nữa, Made- In- Rach Giá.
Ngày mai thứ Bảy, tôi sẽ thăm má tôi bù cho hôm nay. Tôi sẽ đọc cho
bà nghe dần những câu truyện trong quyển Bài Ca Vọng Cổ. Để bà nghe
mà như thấy lại những hình ảnh cũ trên quê hương, chắc bà sẽ vui như
được sống lại ở Giòng Đá.
Nắng vẫn đầy trên cây, nắng ngả về bên kia núi. Chim vẫn líu lo nhảy
nhót trên cành. Lâu rồi tôi không ca vọng cổ, vừa cuốn lại cái võng,
tằng hắng lấy giọng, tôi hát thật to, hát tự nhiên như hồi tháng Tám
năm 2002, tôi đã hát vọng cổ giữa trời đêm ở vùng Vancouver, trước
đám lữa trại bập bùng, vây quanh bởi những tâm hồn rất Việt Nam: Chị
Ngọc, anh Trần, Song, Quý, Hoàng, Sơn, Xuân, Hải Triều; anh chị
Ninh, Siêu, Tam, Lạc Châu, Phúc, Tuyết, Khởi, Dũng, Hòa…tổng cộng
hơn trăm, không thể kể tên hết.
“Điệp
ơi, Lan cắt đứt dây chuông là để rẽ chia đời đạo đôi ngã, nhìn theo
bóng anh đi mà lã chã lệ tuôn…dòng”.
Này
bạn! Hãy đọc truyện ngắn của Tiểu Tử, để thấy thấp thoáng bạn bè
thân nhân mình trong đó, để tìm lại những dễ thương của quê hương
mình, và để coi bạn có thấy thèm ngân nga một câu vọng cổ như tôi
không?
Bỗng dưng tôi muốn cất cao giọng rao, một giọng rất Nam Kỳ, rao lảnh
lót như những dì, những thiếm bán hàng rong ngày xưa thường qua lại
nhà tôi, vai nặng trỉu với chiếc đòn gánh, kẻo kẹt thúng rổ, dãi dầu
với
những bước chân nhịp
nhàng giẩm lên mọi nẻo đường quê: “Ai mua Bài Ca Vọng Cổ hôôông?”
Lâm Kim Loan
Cuối tháng
Tư, 2007)
kimloan686@yahoo.com.au
Muốn mua sách xin liên lạc tác giả bằng điện
thư:
kimoq@yahoo.com
|