Với người
bản xứ, đời sống của những người tị nạn có nét riêng kích thích
tính hiếu kỳ. Đề tài chiến tranh đối với những người thuộc phe
miền Nam thua trận hình như không có tính hấp dẫn với họ. Nhưng
đề tài hội nhập, với làm lại đời sống với bàn tay trắng, vượt
qua biết bao nhiêu là trở ngại, từ khác biệt ngôn ngữ đến cách
trở văn hóa, những người tị nạn đã chứng tỏ có một sức sống phi
thường và đã vươn lên được những thành quả tốt đẹp lại có sự lôi
cuốn với những người bản xứ. Những cuộc sống ấy, gợi nhớ lại một
thời kỳ bắt đầu của nếp sống đa văn hóa, là của những di dân từ
khắp nơi trên thế giới đổ về. Văn chương của những người di dân
là một nét đặc thù của đất nước Hoa Kỳ.
Riêng với người Việt Nam, chiến tranh đã
có một dấu ấn không thể phai mờ. Ở thế hệ thứ nhất đã đành, mà
cả ngay thế hệ một rưỡi hoặc thứ hai, bóng dáng của qúa khứ, của
một đất nước đã chia xa vẫn còn ảnh hưởng.
Trong văn chương Bắc Mỹ viết bằng Anh
Ngữ, rất có nhiều tác phẩm viết về đề tài hội nhập của những
người tị nạn Đông Dương. Như hồi ký của tác giả Mỹ gốc Cambodia
Loung Ung ”First they killed my father“ và “ Lucky Child”. Như
tiểu thuyết của người Mỹ gốc Việt “The gangster we are all
looking for” của Lê Thị Diễm Thuý, Như tiểu thuyết “The book of
salt” của Monique Truong. Như Lan Cao với “The Monkey Bridge”.
Như “Tin roof, grass roof” và “The gentle order of girls and
boys” của Dao Strom… Và bây giờ là Nguyễn Minh Bích với
“Stealing Buddha’s Dinner“ xuất bản đầu năm nay, tháng giêng năm
2007. Tất cả những nhà văn di dân ấy, đều có nguồn gốc của người
tị nạn và trong mỗi trường hợp đều mang vác quá khứ trên vai. Có
thể là trực tiếp với họ mà cũng có thể do người thân từ thế hệ
trước. Mặc dù viết bằng Anh ngữ nhưng lại viết bằng tâm cảm của
đất nước mà họ phải chia xa.
Tác phẩm của Nguyễn Minh Bích đã đoạt
giải thưởng The PEN/ Jerard Fund Award. Đây là một giải thưởng
văn học nhằm vinh danh những công trình thuộc lãnh vực văn học
được chọn lựa bởi đặc tính văn chương cao của những cây bút nữ
giới. Giải thưởng này được điều hành bởi The New Yoek Community
Trust. Một trong những giám khảo của giải, Lynne Tillman đã giới
thiệu đại ý:
“Chân thành, dịu dàng, tự nhiên,
Stealing Buddha’s Dinner (Ăn trộm cơm Phật) viết bởi Nguyễn Minh
Bích đã làm độc giả theo dõi chuyển động từ biến cố này tới hình
ảnh khác. Bà nội của Bích đã cùng cả gia đình rời khỏi Việt nam
để khởi đầu tất cả mọi sự ở một nơi chốn xa xôi như ở bên kia bờ
đại dương từ năm 1975. Bích và gia đình thấm thía về sự va chạm
văn hóa khá thô bạo ở Grands Rapids, Michigan, đã mô tả sự thực
và hiển nhiên với sự tưởng tượng thuần khiết của người cầm bút.
Trong thể tiểu thuyết và không tiểu thuyết, thực tại của tính
chất đời sống ràng buộc nhau để cấu thành kinh nghiệm. Thời thơ
ấu người di dân của gia đình Nguyễn là cộng hưởng của nhiều lãnh
vực cũng như là biểu hiện của hai nền văn hóa với những va chạm
về mùi vị, về tôn giáo, về kiểu cách của mái tóc, của trang
phục, của nếp sống và đặc biệt nhất, món ăn. Như tác giả đã
viết, bà nội cô đã mang nấm độc về trồng ở vườn sau nhà khiến
hàng xóm kỳ thị xa lánh, là thực tại tuyệt đối nhưng cũng là vấn
đề khó diễn tả bởi sự khác biệt của hai văn hóa đông và tây.
Truyện truyền kỳ cấu thành văn hóa Mỹ quốc là những câu chuyện
về người di dân, và, với những công dân mới, đất nước tiếp tục
chuyển đổi từ đó. Giống như, Nguyễn Minh Bích đã đồng nhất cái
nhìn văn chương, âm vọng đổi mới và cay đắng, rao truyền lại và
canh cải lại một đề tài đáng ngưỡng mộ.”
Tại sao tác giả lại chọn nhan đề “ăn
trộm cơm Phật”? Một trong những ấn tượng của thời niên thiếu của
cô là pho tượng Phật bằng đồng của bà nội cô được đặt trang
trọng trên kệ tủ cao nhất của căn phòng, và trên đó chung quanh
là đèn nhang và những hoa trái hay món ăn để cúng kiếng, và đó
là một hình tượng đầy quyền năng nhưng lại là một hình tượng yên
lặng. Cô ưa thích những tư tưởng của Phật giáo, cô nhận thức
rằng đó là những điều đáng tuân phục. Nhưng, –trong thời gian
giữa thập kỷ 1980 ở Grand Rapids– ảnh hưởng môi trường chung
quanh thì không những đó là những điều đã tàn tạ và thậm chí còn
là quê mùa và kệch cỡm nữa. Giáo lý về địa ngục thiên đường, về
kiếp sau, về nơi chốn của thế giới bên kia quả thực là cực kỳ xa
lạ với một cô bé. Thế mà hình ảnh pho tượng đức Phật có vai trò
quan trọng trong việc cô bé phải chọn lựa giữa việc hoặc giữ gìn
bản sắc dân tộc hoặc hội nhập vào cuộc sống và sinh hoạt của
người da trắng. Cô cảm thấy bối rối thực sự khi muốn đi tìm một
căn cước cho đời sống mình, là người Việt Nam hay người Mỹ. Và
cảm thấy có khi mình đã ăn cắp một sở hữu tinh thần nào đó không
thuộc về mình. Nhan đề của Stealing Buddha’s Dinner từ nguồn gốc
của giây phút, khi bị phân vân trong ý tưởng sâu thẳm của tâm
hồn, cô đã có những suy tưởng bất ngờ không thể nghĩ đến được là
mình lấy cắp từ những tặng vật của Phật cho riêng cô. Hình ảnh
bà nội cô và những món ăn cúng Phật trên bàn thờ là những níu
kéo tâm thức cô trở về nguồn cội của mình.Cô như đang ở trong
một xung đột văn hóa. Một bên là đời sống hiện tại, với bà kế
mẫu, với những người chung quanh ở nhà, ở trường học luôn luôn
kéo vào một cuộc sống như một người bản xứ chính hiệu. Một bên
là bà nội, với những món ăn quê hương, với bàn thờ Phật gợi nhớ
đến sự linh thiêng. Giằng kéo, xô đẩy, khiến cô phân vân. Và,
như thế cô đã viết được những tiểu luận và hồi ký để trang trải
tâm sự của mình.
Khi Nguyễn Minh Bích cùng chồng lái xe
từ North Carolina đến Washington DC, chợt nẩy ra ý viết một cuốn
hồi ký. Từ ý tưởng ban đầu ấy, như những làn sóng lan ra xa,
những mục tiêu mà cô thường nghĩ tới trong cuộc đời mình là đề
tài về thực phẩm, về di dân, về về căn cước đời sống cũng như
hồi tưởng về thời thơ ấu. Trong tiểu thuyết và thi ca, cô khó
lòng viết một cách chân thành về những mảnh đời sống nho nhỏ,
riêng tư. Điều đó thật đúng khi cô cố tâm viết về những món ăn
trong hồi ký, những mô tả phải luôn giữ được sự trung thực của
cuộc sống, để hiện thực được nét sống động khi đề cập đến những
món đã ăn hoặc những món mà cô thèm muốn. Thực sự cô đã bỏ ra
khá nhiều thời giờ để suy nghĩ về những món ăn của thời tuổi trẻ
: ice cream, chả giò, bánh tôm, pizza, bánh kem,.. cũng như làm
sao thể hiện thời thơ ấu của cô ở vùng ngoại ô Michigan, nơi
chốn mà cô luôn nhắc nhở mình là một người ngoại quốc. Cũng như,
ở đây một cô bé hàng xóm đã nói cô sẽ sa vào địa ngục vì không
chịu theo đạo Baptish. Cô cũng hiểu rằng chẳng bao giờ mình sẽ
thành một người Mỹ chính cống như mọi người khác nhưng cô đã
quyết định phải tự mình thay đổi và cô muốn Anh Ngữ và phát âm
của mình phải bằng hoặc hơn mọi người. Cũng như cô cũng ăn được
tất cả những gì mà mọi người ăn, cũng như bà nội cô bỏ đi món
canh đậu hũ và thay vào bằng lát bánh mì kẹp thit.
Cuốn sách cô viết cũng một phần là sự
nhớ lại từ pho tượng Phật mà bà nội thờ trong phòng, và hồi
tưởng lại thời kỳ mà cô cố tâm mà không thành công để trở thành
một Phật tử. Thiên hồi ký còn ghi nhận thêm nhiều điều khác, tất
cả có từ sự tìm kiếm nguồn gốc căn cước qua thức ăn, qua âm nhạc
hoặc truyền hình. Tất cả xuất hiện trong ý định làm rõ ràng hơn
nguồn gốc văn hóa của cô. Cô luôn là một người háu ăn, luôn đói
bụng và đi tìm kiếm nguồn gốc mình trong món ăn. Viết một cuốn
hồi ký như thế, như là một cách ăn ngấu nghiến những món khoái
khẩu.
Cô tìm tòi được rằng cô có thể viết hồi
ký những gì mà cô không thể xử dụng thích ứng một cách hoàn toàn
trong tiểu thuyết hoặc thi ca. Như gia đình cô đã rời khỏi Việt
Nam ngày 29 tháng 4 năm 1975 thế nào cũng như cô rời bỏ người mẹ
ruột ra sao. Hay gia đình cô đã định cư để tham gia vào cuộc
sống ở Grand Rapids, một nơi mà tư tưởng mọi người khá thủ cựu
và giáo điều. Hoặc cô nghĩ về người cha tóc vương đầy lông sau
mỗi ca làm ở hãng nhồi lông nệm, luôn nhậu nhẹt và cờ bạc với
mấy người bạn đồng hương. Cũng như cô nghĩ về người mẹ kế người
Mễ cùng với những người con gia nhập vào gia đình bé nhỏ và làm
thay đổi đến tận gốc rễ nếp sinh hoạt thường ngày. Cô không muốn
dấu diếm bất cứ một điều gì như trong tiểu thuyết hoặc thi ca,
nên viết hồi ký. Viết hồi ký trong tâm thức của một người hiểu
được giá trị của sự thực và sự trung thực với chính mình, nên sự
thành thật đã là một thành tố quan trọng.
Bắt đầu từ chuyện gia đình cô bé rời
khỏi Sài Gòn năm 1975, Stealing Buddha’s Dinner cũng là chân
dung của những người trong gia đình bé nhỏ này. Người cha, siêng
năng. Người chị, tên Anh, dễ thương. Bà nội, rộng rãi, thương
yêu con cháu. Người mẹ kế, Rosa, người gốc Latina, là giáo viên
dạy Anh Ngữ cho những người ngoại quốc, đã gây nhiều thay đổi
trong sinh hoạt gia đình. Và thêm vào là hình bóng của người mẹ
đẻ ra Bích, thất lạc sau khi gia đình di tản. Trong hồi ký, có
bi thảm nhưng có những cảm tính dịu dàng, có những suy tưởng sâu
sắc nhưng cũng có những nhận định từ sự quan sát thoáng qua,
Stealing Buddha’s Dinner có một cái nhìn nhất quán về một trường
hợp di dân, với sự đi truy tìm nguồn gốc chính mình.
Tác giả nói về trường hợp sáng tác hồi
ký này :
“Là người Mỹ gốc Việt sống ở Grand Rapids, tuổi ấu thơ của tôi
gói tròn trong ý nghĩa của cảm giác bị cô lập. Tôi rời Sài Gòn
khi vừa 8 tháng tuổi, lẽ ra thì thuộc thế hệ di dân thứ nhất
nhưng lại có những kinh nghiệm của thế hệ di dân thứ hai. Như
tôi ước chừng mình thuộc thế hệ ở giữa, trước tôi chẳng có một
chút ảnh hưởng nào của những thế hệ già hơn tôi, và tôi chỉ có
những cảm giác của người di dân không liên tục và thay đổi khi
sống trong một thành phố mà người da trắng đã làm chủ tất cả
sinh hoạt đã thành nếp từ lâu đời. Thành ra, kinh nghiệm của tôi
khác với những người Việt lớn lên và sống ở những nơi như Little
Sài Gòn hoặc những thành phố vùng West Coast đã khai sinh ra
những cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Tôi chẳng hiểu nếu tôi sống ở
đó thì tâm trạng của mình sẽ ra sao. Có phải cảm nhận của một
người từ môi trường bên ngoài đã dẫn dắt ngòi bút hay là những
cảm giác thiên phú tạo nên ? Người cầm bút luôn luôn viết từ thế
giới bên ngoài, họ là chứng nhân và cũng là người quan sát. Họ
không bao giờ có khuynh hướng lẩn khuất vào bên trong. Họ chỉ
“out “ chứ không “in”. Trong tình trạng ấy, lớn lên ở một nơi
chốn dễ dàng có nhiều chi tiết để khai triển cho một người cầm
bút. Nhưng ở mặt khác, nó đẩy tôi vào tình trạng không thoải
mái, cũng như bắt tôi phải luôn luôn chăm chăm quan sát nhìn
ngắm để cảnh giác, để kinh ngạc..”
Với những người tị nạn như gia đình
Bích, Sài Gòn và Grand Rapids đã liên hệ với nhau như ngày và
đêm. Một nơi, của hoảng loạn, dù là quê hương, nhưng vừa rời bỏ
sau khi chế độ Cộng Hòa sụp đổ và khói lửa sẽ đe dọa tàn phá cả
thành phố ấy. Ở đó, còn lại người mẹ bị thất lạc. Một nơi, thành
phố lạ, mà phần đông cư dân là người Mỹ trắng gốc Đức và theo
đạo Christian, rất bảo thủ và ngoan đạo. Họ đến định cư ở đó,
tạo dựng cuộc sống, Người cha đi làm. Bà nôi ở nhà nấu ăn và coi
sóc hai chị em, Anh và Bích. Cuộc sống tiếp diễn với đời sống
nhiều thay đổi. Ở nhà, ở trường học, chi em Anh và Bích phải tập
tành theo một lối sống của những người bản xứ. Phải ăn, nói,
giải trí, nghe nhạc, xem truyền hình, đọc sách như người bản xứ.
Và như thế, cái căn cước tị nạn với đất nước dần dần xa xôi lu
mờ đi. Nhưng có một điều, ngay chính Bích cố công như vậy mà
cũng ngầm hiểu rằng chẳng bao giờ mình trở thành một người bản
xứ chính hiệu. Có lẽ, đó là tình trạng chung của những di dân,
của những người Mỹ gốc Việt, gốc Trung Hoa, gốc Đại hàn, gốc
Châu Phi… Sự va chạm văn hóa ngấm ngầm đã tạo thành một đời sống
khác biệt, nó ở giữa nền văn hóa bản xứ và nền văn hóa của quê
xa.
Tập hồi ký ghi chép lại từng ngày tháng
với giọng văn lẫn lộn giữa hài hước và những ghi nhận bình
thường hàng ngày. Tác giả phác họa chân dung đời sống của một cô
bé tị nạn Đông Dương sống ở miền Trung Tây Hoa Kỳ vào thập niên
80. Những chi tiết được kể lại dù chỉ là của một cá nhân nhưng
lại có tính chất chung của nhiều người. Là giáo sư dạy môn sáng
tác văn chương Anh ngữ tại đại học Purdue nên Bích đã rất cẩn
trọng để tạo thành một văn phong giản dị trong sáng nhưng nhiều
âm điệu. Ngôn ngữ của “Stealing Buddha’s Dinner“ là ngôn ngữ kể
chuyện, được tạo dựng bằng những hình ảnh và nhân vật điển hình,
có chất bàng bạc của ký ức không thể nào quên của một đời người.
Khi thơ ấu, Bích có vẻ khác lạ so với
những trẻ cùng trang lứa trong trường. Cô có vẻ nhút nhát trong
khi cô chị thì dạn dĩ và dễ thương. Khi Bích đến tuổi vào trường
thì người cha tái hôn với một người đàn bà Mỹ gốc Mễ và bà này
đã làm thay đổi cả sinh hoạt của gia đình. Rosa day dỗ hai chị
em thế nào là nếp sống văn hóa của một gia đình Hoa kỳ da trắng
xứ Trung Tây.
Nhân vật bà nội được Bích mô tả với sự
kính mến và thương cảm. Bà nội tượng trưng cho những lớp tổ tiên
của tầng lớp di dân. Bà thờ Phật và cúng những người đã chết và
nấu những món ăn cổ truyền cho cả gia đình. Tượng Phật được tác
giả xử dụng như một hình tượng tiêu biểu, nó nhắc nhở đến đời
sống tâm linh ở quê nhà. Bà nội đã chiên những bánh tôm, đã nấu
những tô phở nóng hổi hay nồi canh cá ngon lành, nhưng cô bé vẫn
thích mang trong lunch box đến trường những món mà cô gọi là
“real food”, những món ăn mà các học sinh quen thuộc.
Một chương sách khá độc đáo là tác giả
viết về sự tìm kiếm người mẹ bị thất lạc từ biến cố hoảng loạn
năm 1975 ở Sài Gòn. Câu chuyện về bà mẹ này là một bí mật được
giữ trong gia đình suốt bao năm trời và chẳng ai muốn nhắc đến
sự kiện ấy. Cô được biết bà vẫn còn sống và hiện đang ở
Pennsylvania. Là một sinh viên đại học, Bích không muốn nhớ lại
quá khứ của gia đình, dù đã hiểu biết được sự thật, đã trôi qua
và cô đã né tránh sự gặp gỡ mẹ cô trong một thời gian dài. Nhưng
tính hiếu kỳ đã thắng làm cô tìm đến. Cuộc gặp gỡ và cuộc về
thăm Việt Nam lần đầu đã làm độc giả thấy được tâm cảm của người
viết. Người mẹ đã trải qua những cảnh đoạn trường tại Việt Nam
sau ngày bị thất lạc gia đình tại phi trường và người con lúc ấy
mới hiểu được những ẩn tình mà cả gia đình cố dấu kín và quên
đi.
Hồi ký của Nguyễn Minh Bích đã giải
thích một cách rốt ráo về trường hợp một đứa trẻ tị nạn đã đối
đầu với những xung đột văn hóa cố gắng tạo dựng một đời sống mới
tại Hoa Kỳ. Viết hồi ký, cô muốn nêu ra một trường hợp của chính
bản thân mình, với cả những tập quán, thói quen, sở thích, ăn
uống, vui chơi trong tiến trình hội nhập vào dòng chính của
những người Mỹ gốc thiểu số. Cô muốn xác định căn cước của mình
là một người Mỹ gốc Việt Nam và, cũng là một người cầm bút với
lý lịch như thế.
Sau khi xuất bản cuốn hồi ký này, Bích
đã hoàn tất một tiểu thuyết nhan đề “Short Girls”. Truyện xoay
quanh cuộc đời của hai chị em, Linny và Van, đang trăn trở trong
những bế tắc tình ái trong cuộc sống. Một người thì có người yêu
là một người có gia đình. Cô kia thì cố gắng để giữ lại người
chồng đang rời bỏ cô. Và, gia đình họ đang ở trong tình trạng
sắp tan rã. Những phức tạp của tình ái cũng như những quan hệ
rối rắm của tiểu thuyết này, giải thích một cách gián tiếp thế
nào là thấp trong thế giới người cao, cũng như thế nào là cao
vọng khi nhận xét. Cố nhiên, hai chị em là người lùn, cũng như
người cha, một người sáng tạo thất bại khi tìm ra những phương
cách cải tiến đời sống những người lùn. Họ tiến đến tình trạng ở
thể cách của những người cố gắng thay đổi những điều không thay
đổi được – từ diện mạo, dòng giống, gia đình, chiều cao và họ
vẫn tiếp tục nỗ lực thay đổi trong khi ngầm hiểu rằng chẳng bao
giờ đạt đến mục đích cả.
Viết tiểu thuyết thì cô có cảm giác
thoải mái hơn viết hồi ký hoặc những bài essay. Cô được quyền tự
do sắp xếp những “sự thực” và có thể chọn lựa những chi tiết cho
tiểu thuyết của mình. Cô tìm kiếm rằng đề tài chính mà mình muốn
khai triển phải ở tầm mức có khuynh hướng đi về phía trước và
nêu ra được một vấn đề cần phải suy nghĩ hoặc bàn cãi.
Nguyễn Minh Bích đã viết về mình trong
phần tiểu sử như sau:
“Tôi sinh ở Sài Gòn năm 1974. Ngày 29 tháng tư năm 1975, trong
đêm trước khi thành phố bị thất thủ, tôi và gia đình lên chuyến
bay rời khỏi Sài Gòn.Sau khi ở trại tị nạn ở Guam và ở Fort
Chaffee tiểu bang Arkansas, chúng tôi định cư tại một thành phố
hầu hết cư dân là người Mỹ trắng và rất bảo thủ ở Grand Rapids,
tiểu bang Michigan. Trong Stealing Buhhda’s Dinner tôi viết đã
rời khỏi Việt Nam như thế nào và tôi đã sống và lớn lên trong
một gia đình Việt Nam ở một thành phố được mệnh danh là “All
Anerican City”. Đó là thời gian của thập niên 60 và tôi muốn
mình trở thành một mẫu người Mỹ “real”. Rồi tôi lắng nghe thật
nhiều những “bad music”, xem thật nhiều những “bad T.V.”, và ăn
thật nhiều những “bad food”.
Tôi tốt nghiệp MFA về môn sáng tác văn
học ở University of Michigan và hiện đang là giáo sư dạy về sáng
tác tiểu thuyết, thi ca, và văn học Mỹ Á châu tại Purdue
University. Tôi hiện sống tại Chicago và West Lafayette tiểu
bang Indiana với chồng tôi là Porter Shreve. Cuốn sách đầu,
Stealing Buddha’s Dinner (nhà xuất bản Viking Penguin, tháng
giêng năm 2007) là một hồi ký, doạt giải PEN/ Jerard Award của
Trung Tâm Văn Bút Hoa Kỳ. Tôi cũng là đồng tác giả của : 30/30
Thirty American Stories From the Last Thirty Years, Contem
porary Creative Non-Fiction: I & Eye, và The Contemporary
American Short Stories…”
Đọc xong những trang hồi ký, đối chiếu
với đời sống của người Việt ở hải ngoại, tôi mới nhận thấy rằng
sự hội nhập với giới trẻ thiểu số vào dòng chính không phải là
dễ dàng. Ở một nơi như vùng Grands Rapids như Nguyễn Minh Bích
thì lại càng khó khăn hơn. Nếu như ở vùng đông người Việt Nam
như ở Nam hay Bắc Cali, thì sự xung đột sẽ nhẹ nhàng hơn và thức
ăn Việt Nam, âm nhạc Việt Nam, sách báo Việt Nam không còn là
những điều cần phải che giấu, phải từ bỏ. Nhưng dù ở đâu thì ở,
người thiểu số có muốn hội nhập đến mức độ nào chăng nữa, cũng
chẳng bao giờ thành người Mỹ chính gốc một trăm phần trăm
được...
Đọc một cuốn sách của một người Việt
Nam viết về một đề tài của người Việt Nam, được rất nhiều tờ báo
lớn và uy tín của Hoa Kỳ giới thiệu như Newyork Times, Los
Angeles Times, Chicago Tribune, USA Today, Boston Globe, San
Francisco Chronicle, Christian Science Monitor,.. độc giả sẽ
nghĩ gì ? Riêng tôi, là một vui mừng và lạc quan. Dù đôi khi
cũng có chút ngậm ngùi khi nghĩ về những quan hệ của những thế
hệ Việt nam về sau dần dần sẽ phai nhạt đi bản sắc của quê
hương. Nhưng làm sao được, khi đời sống cứ đẩy mãi để chúng ta
phải chạy mãi chạy hoài như rượt đuổi một điều gì tuy là hư
không nhưng vẫn là một thực tế hiển hiện trước mắt…
|