Thơ, không
biết có phải là tiếng vọng vẳng lên từ tâm thức của một thời đại
đặc biệt của dân tộc Việt Nam. Cuộc sống ấy có thật nhiều chất
chứa, đời sống mỗi người hình như đều có liên quan đến những
biến cố khiến thay đổi cả cuộc sống. Người ta làm thơ, để tâm sự
với chính mình, để chia sẻ cùng với những người đồng điệu những
tần số cộng hưởng.
Có người phát
biểu thơ không thể chia sẻ được với ai, mà phải là lừng lững một
cõi. Thơ phải có những ẩn mật riêng tạo thành cá tính. Lại cũng
có người nghĩ ngược lại, thơ là một phần đời sống họ, thì với
những người chung cùng hoàn cảnh, tại sao không có sự chia sẻ
cộng hưởng cùng nhau. Mỗi người một ý, có người kiêu căng khinh
bạc, có người khiêm nhường trầm lặng, những quan niệm sống đã
tạo thành sự cảm thụ khác biệt đối với mỗi người.
Có những
trường hợp, thơ là kết quả của tận cùng chịu đựng nỗi tân toan,
không chịu nổi mời tạo thành thơ. Phùng Quán đã có những câu như
“ vịn vào thơ mà đứng dậy “ hay Tô Đông Pha ngày xưa, trong Nam
Hành Tiền Tập Sự đã viết “ Hữu sở bất năng tự dĩ nhi tác giả “ (
lúc nào không thể ngừng được, mới sáng tác ) với cả một đoạn đã
được chuyển dịch:
“ Kìa, những
người làm văn trước kia, không phải là chỉ có nỗ lực, cố gắng là
có thơ văn hay và cũng không thể không nỗ lực cố gắng thì mới có
thơ văn hay. Tựa như sông núi có mây mù, có cây cỏ hoa quả, khi
nào chứa chất đầy đủ ở bên trong thì biểu hiện ra bên ngoài, dù
lúc ấy muốn không có cũng có được không? Ta từ nhỏ được nghe phụ
thân ta bàn về văn chương nói rằng thánh nhân thời xưa khi nào
không dừng được mới sáng tác. Vì vậy Thức nay cùng với em là
Triệt sáng tác cũng nhiều mà chưa từng dám cho là có ý làm văn
vậy “
Những thi sĩ
tài ba như Tô Thức, Tô Triệt đời Tống mà còn khiêm nhường không
dám tự nhận là tác giả, thì bây giờ, ở trong nước hay hải ngoại
có nhiều tập thơ và nhiều người được gọi là người làm thơ thì
thiết tưởng cũng chẳng là điều lạ lùng. Đời sống ấy, con người
ấy, tâm tư ấy, dồn nén ấy, có lúc mang nặng trong tâm, bức bối
trong hồn. Làm thơ, có phải là để giải tỏa, làm thơ là để cho
mình nhẹ nhàng hành trang mang vác trong đời người hơn? Như
Phùng Quán, trong đời sống cơ cực đè nén, nếu không có văn
chương không có thi ca thì làm sao có đủ năng lực để sống còn để
vật lộn với khốn khó với khổ đau ?
Thời đại bây
giờ có qúa nhiều bức xúc để tạo thành cảm hứng. Có người thú
nhận nếu không thổ lộ được, bằng văn chương, bằng ngôn ngữ, thì
sẽ phát điên lên được. Thôi thì, dù hay, dù dở, cũng chơi giỡn
với văn chương để may ra, thấy lòng thanh thản hơn một chút…
Ở hải ngoại,
một năm không biết có tới mấy chục tập thơ được in nhưng không
…phát hành. Đó là một người đã lăn lộn rất nhiều trong nghành
xuất bản đã phát biểu như thế. Chúng ta có rất nhiều thi sĩ và
những thi sĩ ấy in ra những tập thơ chỉ để làm kỷ niệm mà thôi.
Bởi vì, các tiệm sách hầu như không muốn bầy bán các thi tập vì
không có người mua nên sợ chiếm chỗ. Rất ít thi sĩ in thơ và bán
được thơ. Thế mà số lượng thi tập lại quá nhiều đếm không hết.
Có người đã mỉa mai rằng dân tộc chúng ta quá yêu thi ca và có
rất nhiều người đã trở thành thi sĩ khi còn nằm trong bụng mẹ…
Tại sao lại
có hiện tượng lạ như thế ở hải ngoại? Nếu suy nghĩ một cách
khách quan thì có nhiều nguyên do. Đời sống ở xứ định cư về vật
chất coi như tạm ổn định nhưng về mặt tinh thần thì vẫn còn
nhiều chỗ trống, nhiều tâm sự cần chia sẻ. In một tập thơ với sở
phí chừng hơn một ngàn đô la ai cũng có thể in được. Và thơ, thì
hay dở tùy người, sáng tác cũng không khó khăn lắm. Ở thế hệ thứ
nhất, đời sống trải qua nhiều biến cố nên văn chương là những
chứng tích dễ lưu lại nhất trong đời người và trong ký ức. Ở hải
ngoại lại có rất nhiều tờ báo. Đăng ở những tạp chí văn học
không được thì tìm những báo khác chọn lựa dễ dàng hơn. Và khi
đã có tên tuổi ở trên mặt báo thì người ta sẽ cảm thấy tự tin và
sáng tác nhiều hơn. Cuộc đời sẽ có thêm một …thi sĩ.
Trước tình
trạng ấy trong một cuộc phỏng vấn nhà văn Duy Lam đã phát biểu
về thơ Việt Nam ở hải ngoại. Cái nhìn của ông khá chính xác:
“ Thơ lúc này
in ra nhiều lắm. Mỗi năm chào đời cả trăm tập thơ. Và số lượng
thi sĩ cũng tăng theo rất nhiều ( có thi sĩ thật và có người
được gọi là thi sĩ )… Thơ Việt Nam ở hải ngoại có nét chính là
người ta đến với thơ tự nhiên như một thúc đẩy tâm lý, mà không
chủ ý làm thi sĩ. Tôi đã gặp nhiều ngạc nhiên vì không ngờ người
này người kia cũng làm thơ. Tại sao họ làm thơ? Có phải do sự
bức xúc, một nhu cầu tâm lý. Thơ hải ngoại có chất chủ quan tâm
sự. Họ làm thơ trong vô thức để ghi lại tâm sự của mình. Sẽ có
sự tiếp nối từ những người trẻ hơn. Họ sẽ làm thơ khác với người
trước đã cũ. Có thể họ sẽ bỏ quá khứ mang nặng trên vai để làm
thơ hôm nay. Sự lên đường nào mà không cần phải gọn nhẹ hành
trang?…
Thơ in nhiều
như thế bi quan hay lạc quan? Theo tôi, chuyện bình thường. Việc
chọn lưa thơ và thi sĩ là của độc giả và những người phê bình.
Vấn đề là phải công tâm để tìm ra những bài thơ chân thực. Không
có điều gì lừa mị được mọi người. Phải để tâm tư có chỗ buông
xả, dù bằng thơ dở đi chăng nữa…”
Đó là chuyện
thơ ở hải ngoại còn ở trong nước thì sao? Gần đây tôi được đọc
một bài báo ở trong nước khá lý thú. Đó là bài “ Ai mua thơ ta
bán thơ cho.. “ của tác giả Ngô Minh. Bài đã đăng lần đầu ở tạp
chí Văn Hóa – Văn Nghệ Công An sau đăng lại trên Tuổi Trẻ Chủ
Nhật. Tôi nhìn thấy ở đó một vài chi tiết khiến chúng ta có thể
hiểu được phần nào những sinh hoạt văn học đang diễn tiến ở
trong nước. Dĩ nhiên, không phải từ một vài sự kiện để phóng
chiếu thành toàn cảnh mà chính từ những ghi nhận ấy, để có một
nhận xét về một sự thay đổi rất rõ ràng. Từ lúc trước, thời bao
cấp, khác. Sau này, thời kinh tế thị trường, khác. Thơ, thì bao
giờ cũng vậy, chỉ có hay và không hay. Nhưng thi sĩ thì thay đổi
theo thời thế, theo sự diễn tả của tác giả Ngô Minh.
“.. Nhà thơ
Việt Nam ta sướng nhất là giai đoạn bao cấp. Thời kỳ này, các
nhà thơ không phải bỏ tiền ra in thơ cũng không phải khổ sở mang
thơ đi bán. Nhà thơ có “ thẻ bài ” của nhà nước nhiều không nhớ
hết! Họ được Nhà Nước in thơ theo chế độ bao cấp. Tùy theo chức
vụ, tuổi tác trong làng văn.. mà “ xếp hàng “ lần lượt! Có nhà
thơ 60 tuổi rồi mà tính vòng quay xếp hàng thì phải 60 năm nữa
may ra mình mới được in có một nửa tập thơ! Bù lại, cac nhà thơ
chẳng ai phải bận tâm hay xót xa với số vốn Nhà Nước bỏ ra in
thơ và mua thơ cho mình. Thật tiện lợi và sang trọng. Chả thế mà
cuốn thơ nào cũng có số lượng in tới năm, bảy nghìn cuốn mà
không đủ sách để bán! Có không ít người do vị trí thuận lợi,
được bao in tới gần chục tập thơ, tưởng đã lên tới lão trong
làng ai dè khi hỏi đến tên, người yêu thơ lắc đầu… Dẫu sao đó
cũng là thời vương giả nhất của thơ ca, trên góc độ thơ là cái
đẹp, phải được nâng niu chiều chuộng!..”
Như thế, thời
bao cấp chắc phải có nhiều thơ hay thì phải ? Thế mà, hình như
thưa vắng lắm. Có lẽ, thơ cũng là một phương tiện để phục vụ chế
độ nên bị lai giống chăng? Không nên võ đoán nhưng nếu thơ là
khẩu hiệu tuyên truyền thì cũng khó làm xúc động được tâm tình
của người yêu thi ca !?
Thế, đến bây
giờ, thời đổi mới tư duy và kinh tế thị trường, thơ có điều gì
khác lạ so với thời trước. Dĩ nhiên theo tác giả Ngô Minh thì có
nhiều khác lạ.
“… Từ khi đất
nước kinh tế thị trường thì cuộc sống thơ ca càng sôi động hơn
thực chất hơn. Các nhà thơ lại tự bỏ tiền ra in thơ và tự mang
thơ mình đi bán như thời tiền chiến. Đó là một điềm lành, một
dấu hiệu đổi mới trong “ cơ chế thi ca”. Thơ in ra nhiều sẽ kích
thích sáng tạo! Sự kiểm chứng khắt khe của thị trường sẽ cảnh
tỉnh biết bao người đang đi nhầm vào “ vương quôic thơ”…
Tuy nhiên
việc tự bỏ vốn ra in thơ, và tự bán thơ hôm nay cũng có quá
nhiều điều cười ra nước mắt! Mỗi năm cả nước có tới 600-700 tập
thơ được in ra, nghĩa là mỗi ngày bình quân hai tập thơ được ấn
hành. Tổng công ty Phát hành sách Việt Nam cũng như các công ty
con ở các tỉnh lúc đầu có nhận phát hành chút ít cho các tác
giả, về sau chỉ nhận ký gửi, đến vài năm lại đây thì ký gửi cũng
bị từ chối với lý do thơ bán không được lại chiếm mất chỗ của
các ấn phẩm khác! Do không được phát hành rộng rãi nên thơ tác
giả Huế thì Huế đọc, Hà Nội thì Hà Nội đọc, tỉnh lẻ thì tỉnh lẻ
đọc. Từ đó dẫn đến sự bình giá thơ của một số nhà phê bình cũng
theo kiểu “ ếch ngồi đáy giếng ”, chỉ thấy, chỉ đọc, chỉ phán về
năm bảy tập thơ xung quanh mình! Thế là các tác giả phải tự đi
bán thơ mình!!!…”
Buôn bán, thì
các nhà thơ có lẽ cũng không thành công mấy. Theo bài báo, nhà
thơ Vĩnh Nguyên ở Huế đã mang thơ mình đi bán dạo trên các tuyến
xe đường dài và tình cờ có một lần đụng độ với nhà thơ Trần Phá
Nhạc cũng đang “ sơn đông maĩ võ ” rao bán thơ mình. Thơ có lúc
ngang hàng với những thứ thuốc lang băm sâu răng, đau bụng!!!
Hoặc : “.. Có lần tôi ra Hà Nội ghé Hội nhà văn. Gặp nhau chưa
kịp hỏi thăm sức khỏe, nhà thơ Nguyễn Hoa đã chào bán ngay tập
thơ “ Mưa Thuận thành ” của Hoàng Cầm. Tôi chưa kịp mừng vì mua
được tập thơ ưng ý, đã nghe Nguyễn Hoa than ” Anh Hoàng Cầm phải
gò lưng ký tặng vào từng cuốn một, bán vẫn khó chạy! Bán thơ là
thế đấy ! Ra văn mà bán chẳng ra tiền- Cái nghiệp văn chương
nghĩ thật phiền ( Tản Đà)…”
Nhưng cũng có
người tinh nhạy trong việc buôn bán, dù là buôn bán những tập
thơ. Âu cũng là một cung cách mới của thời mở cửa:
“.. Vài ba
năm lại đây, các nhà thơ Việt Nam dường như đã phát hiện ra một
phương thức bán thơ mới, “ hiệu quả ” hơn. Đó là cách mang thơ
đến các doanh nghiệp, cơ quan trường học.. “ bỏ mối ” mỗi nơi
mươi, mười lăm cuốn, ép các thủ trưởng trả tiền! Thương các nhà
thơ nghèo, chẳng thủ trưởng nào từ chối một vài trăm ngàn tiền
mua thơ. Mỗi tỉnh nhỏ tính sơ sơ cũng tới 200 cơ quan, doanh
nghiệp… một thị trường ngon lành cho thơ! Khổ nỗi thơ mua xong
thủ trưởng liền cho thơ vào tủ, không biết có đọc câu nào không!
Ở tỉnh Q. năm rồi có tới chục tập thơ in ra, với số lượng 1000
bản/ tập. Nghĩa là các thủ trưởng phải mười lần chi tiền mua thơ
và mười lần chi tiền mua thơ và mười lần cất thơ vào tủ! Thấy
thơ bán kiểu này “ngon” có tác giả bán xong nghìn cuốn, còn tự
in thêm nghìn nữa cũng bán hết sạch! Giá các tập thơ tác giả tự
định nên dễ biến hóa. Đa số các nhà thơ định giá 10-15 ngàn
đồng/tập thơ 64 trang. Nhưng cũng có không ít tập thơ với độ dày
nói trên để giá tới 20 thậm chí 25 ngàn đồng! Một ông giám đốc
bỏ ra 250 ngàn đồng để mua 10 tập thơ thật chẳng đáng bận tâm,
nhưng với nhà thơ bán một ngàn cuốn thơ mỏng với giá ấy, lãi
ròng trên 17 triệu đồng là con số không dễ có! Xem thế ai dám
bảo rằng thơ ế!!”
Một trường
hợp khác, có nhà thơ kia đã tuyên bố một câu xanh rờn … :” Tôi
quan niệm văn học cũng là hàng hóa, một loại hàng hóa đặc biệt.
Để có độc giả, nhà thơ nhà văn phải biết cách giới thiệu món
hàng của mình nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin có quá
nhiều điều cám dỗ người ta như hiện nay..”. Ở thời đổi mới kinh
tế thị trường thì cũng khác. Thơ văn đã thành một thứ để tiếp
thị như một nhà thơ trùm Công An Đặng Vương Hưng làm phó tổng
biên tập báo An Ninh Thế Giới được gọi là “ nhà văn best seller
“ phát biểu trong một cuộc phỏng vấn:
“- Nghe đồn
tập thơ “ Học quên để nhớ ” của anh đã phát hành tới 30 ngàn
quyển ?
-Không phải nghe đồn mà là sự thật. Thậm chí số lượng ấy vẫn còn
tăng vì đến nay sau 4 năm tôi “ rao bán ” thơ mình, vẫn có người
tìm đến hỏi mua “ học quên để nhớ “
- Nhưng bằng cách nào anh có có được con số khiến đồng nghiệp
phải … thèm muốn như vậy, khi mà nhiều tập thơ của các tác giả
khác thậm chí chỉ in được vài trăm bản?
- Tôi không dám nói là thơ mình hay, thơ mình đặc biệt, nhưng
vốn là dân xuất bản, tôi có khá nhiều chiêu tiếp thị. Trước hết
về nội dung, tôi chọn in toàn những bài lục bát-thể thơ dễ nhớ,
dễ thuộc, với các đề tài tình yêu, gia đình rất bình thường,
dung dị là điều gần gũi với đối tượng thực sự yêu thơ: sinh
viên, giáo viên, bộ đội, cán bộ hưu trí ở các câu lạc bộ thơ địa
phương… Bên cạnh đó tôi cho in những lời bình về các bài thơ,
đồng thời “ kêu gọi” những lời bình mới gửi về cho tác giả tạo
ra một sân chơi cho người đọc. Về hình thức, “ Học quên để nhớ ”
được in khổ 11.5 cm với 18 cm vừa vặn để cho vào phong bì gửi đi
xa. Ngay việc thiết kế phong bì đựng tập thơ thôi, tôi cũng phải
làm đi làm lại đến lần thứ ba mới ưng ý. Nhưng yếu tố quyết định
vẫn là việc tôi quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại
chúng, rằng tôi có tập thơ như thế, giá 10 ngàn đồng rất muốn
đến với bạn đọc ai có nhu cầu thì gửi về địa chỉ của tôi. Chỉ
vài ngày sau khi báo An Ninh Thế Giới đăng mẫu quảng cáo đó, tôi
đã nhận được tới hàng nghìn lá thư yêu cầu được tặng và mua tập
thơ. Điều thuận lợi của tôi là đã có một cái tên trên báo với
các bài phóng sự và nhiều độc gỉa mua thơ tôi chỉ vì… để xem nhà
báo Đặng Vương Hưng làm thơ như thế nào!” Số người mua hàng chục
cuốn để tặng bạn bè rất nhiều có những người còn.. phạm luật khi
“ qua mặt “ bưu điện, bỏ tiền vào phong bì gửi thẳng cho tôi.
Tôi quan niệm rằng, để lôi kéo độc giả, mỗi cuốn sách phải có
một cái gì đó là lạ…”
Như thế thì
ai dám bảo thi sĩ nghèo và thơ không bán được.Với ông phó tổng
biên tập báo An Ninh Thế Giới, thơ đã thành một món hàng để làm
giàu cực kỳ dễ dàng, có phải?
Nhưng ở phần
đông, cái nghiệp làm thơ thì ở đâu, dù trong nước hay hải ngoại
cũng đều giống nhau, nghĩa là cùng mang những nỗi nhọc nhằn. Ở
hải ngoại thì làm thơ cũng là một cách thế buông xả trong một
đời sống quá nhiều thúc ép. Còn trong nước, nhà thơ cũng phải
chiến đấu với bao nhiêu là sức ép để có thể có thể mang thơ của
mình rao bán với cả những nỗi nhọc nhằn… còn nếu muốn thành công
thì hoặc là phải có quyền uy như ông nhà thơ “ cớm ” Đặng Vương
Hưng chẳng hạn. Hoặc là phải biết “ Tiếp thị ” để văn chương hạ
giá thành một món hàng để buôn bán đổi chác.
Cách nay hơn
15 thế kỷ, nhà lý luân phê bình văn học Lưu Hiệp trong “ Văn Tâm
Điêu Long “ đã viết ” Cái chuông lớn vạn cân chỉ có Quỳ và
Khoảng mới chế định nổi. Sách đầy rương phải nhờ những nhà phê
bình tài ba mới phán đoán chính xác được. Nhạc phóng đãng nước
Trịnh khiến người ta dâm đãng. Chớ nghe theo cách sai sót mà
phải theo những nguyên tắc phê phán thì mới mong khỏi lạc
đường.” ( Quỹ là nhạc sư của vua Thuấn, khoảng là nhạc sư của
nước Tấn đã dạy đàn nhạc cho Khổng Tử).
Thơ, cũng như
nhạc, phải có người phê bình để làm bật lên cái tuyệt tác. Lưu
Hiệp đã đặt rất cao vị trí của người nhận định văn chương. Bây
giờ, vị trí ấy lại càng quan trọng hơn. Trong một rừng thơ, làm
sao kiếm được cho ra những bông hiếm quí. Người Việt Nam chúng
ta là những người yêu thi ca nên qua ngôn ngữ thơ chúng ta có
thể nhìn được những nỗi niềm của thời đại. Thời nào mà chẳng có
hàng giả chen lẫn hàng thật. Vấn đề là phải có người mắt xanh để
tìm được những hiếm quí bị che dấu trong cái bạt ngàn kia. Thơ
muôn đời vẫn tồn tại từ những dòng tuyệt tác. Và, những yểu tử
chính là những ngôn ngữ giả dối, xây dựng từ những mánh khóe
không chân thực. Thơ muôn đời vẫn là những gì cao đẹp nhất!
|