Có
người nhận xét nền văn học Cộng sản là một phương tiện để phục
vụ cho chế độ. Trong ấn định của đề cương văn hóa, người viết là
một thành phần của tổ chức chặt chẽ, được lãnh đạo và kiểm soát
của Đảng với đường lối chỉ đạo thống nhất.
Cái
nền văn học gọi là văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, theo lời
cụ Nguyễn Mạnh Tường, chỉ là cái chuồng giam chật hẹp giam hãm
người nghệ sĩ. Trong cái không gian tù túng, thì sáng tạo cũng
khó có cơ hội để phát huy.
Sang
thời đổi mới của Nguyễn Văn Linh lại dùng chữ cởi trói cho văn
nghệ. Chính những người lãnh đạo chế độ cũng thừa nhận có sự
buộc trói văn nghệ. Và giây trói chính là những giáo điều công
thức cứng nhắc, là những biện pháp đàn áp thô bạo, là những ràng
buộc giam hãm, là phương cách đánh rồi xoa rồi lại đánh.. Người
cầm bút trong hoàn cảnh đạc biệt như vậy, chắc chắn trong lòng
phải chất chứa nhiều nỗi niềm. Văn chương trong nước, như mặc
chung một bộ đồng phục, cái chung thì nhàm chán công thức và cái
riêng thì lẻ loi mờ nhạt, để tạo thành một nền văn học đơn điệu,
nghèo nàn, mà cái giả nhiều khi nhập nhằng thành thật và cái
thật thì bị bóp méo hoặc bôi xóa đi. Chân, thiện, mỹ không còn
là những bản vị để đánh giá văn chương. Mà thay vào đó, là những
yếu tố ấn định từ nhu cầu chính trị. Người nào đi ngược lại
đường lối, bị tiêu diệt ngay với những biện pháp tàn bạo và thâm
độc. Sự tình ấy, gây ra một không khí khủng bố, và, mọi người
đầu bị ám ảnh bởi cái sợ lúc nào cũng canh cánh trong lòng.
Do
đó, thỉnh thoảng lại có những vụ án văn học, và những nạn nhân
của văn tự ấy mang cái tội không án nhưng còn kinh khiếp hơn cả
cách tru di tam tộc của thời phong kiến. Sự khủng bố công an trị
đã làm cả một xã hội phải thu mình lại và cái sợ đã trở thành cố
nhiên đối với những văn nghệ sĩ. Nguyễn Minh Châu, nhà văn, đại
tá của quân đội Cộng sản kể chuyện một nhà văn đàn anh ( ám chỉ
Nguyễn Tuân ) một lần nâng chén rượu lên môi với các bạn văn nhỏ
tuổi hơn “Tao còn sống đến bây giờ là nhờ biết sợ “. Nói
rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã,
giọt đổ xuống đất giọt rơi vào lòng. Rồi Nguyễn Minh Châu lại kể
chuyện một nhà thơ lớn như Xuân Diệu mà khi viết bộ “Các nhà văn
cổ điển Việt Nam” cũng phải rào trước đón sau, làm phên che giậu
đỡ rồi mới dám viết.
Cho
nên trong bài "Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học
minh họa”, ông viết : ”Tài năng, nhất là những thiên tài, bao
giờ cũng như là của bắt được, của trời cho, ai mà biết được bao
giờ thì họ đến, nhiệm vụ của chúng ta là chuẩn bị bầu không khí
cho họ thở, cho họ sống, đừng giết chết họ, đừng ghen tị với họ,
đừng làm họ thui chột trí tuệ lẫn tình cảm, đừng khiến họ cuối
cùng trở thành chúng ta..”
Mà,
chúng ta là ai? Là “cũng trong một con người cầm bút, có khi cái
phần bất tài nhảy lên bục tao đàn để múa may, cón cái phần tài
năng thì trùm chănnằm chờ ngày xuống mồ..”
Không
biết Nguyễn Minh Châu có qúa lời hay không nhưng trong một môi
trường không tự do, lúc nào cũng nem nép sợ
"phạm
trường quy”
thì làm sao văn chương đi xa và đào sâu được. Hơn nữa, lại gây
ra trong lòng người cầm bút những mặc cảm, thành sự chán chường
u uất. Họ phải chọn lựa con đường mà họ gọi là “phải đạo“, nghĩa
là đu giây giữa cái tốt và cái xấu. Có khi họ trở thành văn nô
nếu cái danh và cái lợi là miếng mồi béo bở. Nhưng, nếu còn chút
sĩ khí, thì cũng không tránh khỏi ngậm ngùi. Giấc mơ tự do sáng
tác xem ra xa vời. Xa lắm…
Cũng
Nguyễn Minh Châu, cho rằmg đường lối chỉ đạo hẹp hòi và thô bạo
khiến cho người cầm bút phải chịu đựng một tình cảnh "rât thảm
đối với nhân cách của một người văn nghệ sĩ”. Ông viết : ”văn
chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu
nịnh.? Hèn, hèn chứ? Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà
chẳng thấy mình hèn? Cái sợ nó làm mình hèn..”
Trăn
trở, suy nghĩ, tự xét lại, phản tỉnh, có thể đó là tình trạng
chung của người trí thức. Nhưng, có khi cái giả và cái thật chen
nhau đến khó phân biệt. Có khi, là phản ứng thật, của nỗi bức
bối phát tiết ra. Và, cũng có khi là của giả. Của những thái độ
tính toán trước để che lấp những lỗi lầm của bản thân mình.
Một
trường hợp điển hình là Tố Hữu. Một ông quan văn nghệ, lãnh đạo
giới cầm bút trong nước và biết bao nhiêu người bị chịu những
oan sai đau khổ vì bị hành hạ theo chỉ thị của ông ta. Một nhà
văn trẻ, là thương binh, tên là Hoàng Cát, chỉ vì phạm húy khi
viết truyện ngắn “Cây táo của ông Lành“ mà bị vùi dập, cả đời bị
khốn khó, theo dõi vì cái vết tích tì tịch văn chương. Về sau,
Hoàng Cát đã kể lại những quãng đời khốn khổ của mình suốt mấy
chục năm bị trù úm đầy đọa. Và còn nhiều người nữa với những vụ
án văn tự như Hà Minh Tuân, như Lý Phương Liên, như Nguyễn Dậu,
như Phù Thăng,.. cũng do bàn tay của Tố Hữu dính vào. Và rõ ràng
nhất là chiến dịch “Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận“
với những biện pháp răn đe tàn bạo không án tích không giấy tờ,
chỉ là lệnh miệng thôi mà làm bao nhiêu người, bao nhiêu gia
đình khốn khổ.
Nhà
văn Hoàng Tiến trong bài Sự Thật Ở Đâu đã viết : ”nhà thơ Hoàng
Cầm kể rằng, nhà văn tướng quân Trần Độ trưởng ban Văn Hóa Văn
Nghệ của Đại Hội Đảng lần thứ 6, tổng bí thư lúc ấy là ông
Nguyễn Văn Linh, người đã giúp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên
bố những câu đáng ghi vào lịch sử văn nghệ” cởi trói cho văn
nghệ sĩ”, “các văn nghệ sĩ hãy tự cứu lấy mình”, “không bẻ
cong ngòi bút”, ”dũng cảm trình bày sự thực”..
Trong
cái không khí cởi mở ấy qua nghị quyết 5/BCT về văn học nghệ
thuật, nhà văn Trần Độ có đến gặp Tố Hữu và hỏi ông về thái độ
đối với anh em Nhân Văn Giai Phẩm bấy giờ. Nhà thơ Tố Hữu với
giọng trọ trẹ xứ Huế đã nói ”Rất tiếc ! Rất tiếc ! Hồi ấy tôi đã
không tiêu diệt hết chúng nó đi” Trên đường về ông Trần Độ có rẽ
vào thăm ông Hoàng Cầm có kể lại câu chuyện trên. Ông Hoàng Cầm
đến nay còn sống, yếu lắm rồi, hiện ở số nhà 43 phố Lý Quốc Sư,
Hà Nội. Ai có thắc mắc, xin đến đấy hỏi, kẻo rồi ông Hoàng Cầm
đi mất, lại thành tam sao thất bản..”
Tố
Hữu đã được Xuân Sách mô tả :
“Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
mắt trông về tám hướng phía trời xa
chân dép lốp ta bay vào vũ trụ
lúc trở về ta vẫn là ta!
Từ ấy trong tôi bừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng Gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường Hoa ở đây.”
Xuân
Sách đã dùng tên nhan đề những tập thơ của Tố Hữu : Ta Đi Tới,
Việt Bắc, Gió lộng, Việt Nam Máu và Hoa.. để nói về tác giả của
nó : tham vọng, thủ đoạn, giả dối, chức thì lớn nhưng thơ thì
nhạt, bởi cái tâm không tốt.
Tố
Hữu cũng là một mẫu người “nịnh trên nạt dưới” đã viết những câu
thơ ô nhục như viết thơ khóc lãnh tụ đỏ Stalin : ”Tiếng đầu
lòng, con gọi Stalin.. / Thương cha thương mẹ thương chồng /
thương mình thương một, thương ông thương mười“. Và, trong đám
nịnh thần làm thơ tôn vinh Hồ Chí Minh có Tố Hữu đứng đầu :
“nhớ chân người bước lên đèo
Người đi rừng núi
Trông theo bóng người
Lòng ta ơn Bác đời đời..”
Hay :
”Bác ơi tim Bác mông mênh thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người
.. Bác để tình thương cho chúng con
một đời thanh bạch chẳng vàng son
mong manh áo vải hồn muôn trượng
hơn tượng đồng phơi
những lối mòn…”
Con
người Tố Hữu là như thế nhưng cũng có lúc nghĩ lại. Gọi là trăn
trở một chút, phản tỉnh một tị. Đọc Bài phỏng vấn “Gặp Tố Hữu
tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng“ của Nhật Hoa Khanh sẽ thấy. Bài
này được đăng thành nhiều phần nhỏ trong các báo khác nhau như
Quân Đội Nhân Dân, Tiền Phong Chủ Nhật, Người Hà Nội.. bài phỏng
vấn này thực hiện năm 1997, nhưng đến khi được phổ biến thì bị
bà Vũ Thị Thanh là vợ của ông Tố Hữu phủ nhận cho đó là những
tài liệu giả mạo “pha chế nhiều ý kiến riêng, mượn danh Tố Hữu,
biến Tố Hữu thành người phát ngôn cho ý mình khi phát hành cuốn
sách “Tố Hữu, - Người Cộng sản kiên trung, nhà văn hóa tài
năng”.
Thực
hay giả, đúng hay sai chỉ có người đã nằm dưới mồ là Tố Hữu và
người phỏng vấn là Nhật Hoa Khanh biết mà thôi. Nhưng, tại sao
giả mà lại được các tờ báo coi như chính thống của Đảng phổ biến
và Nhật Hoa Khanh trước sau im lặng không trả lời. Hình như có
một điều gì bất thường..
Có
người cho đó là một phản tỉnh của Tố Hữu. Lúc bị thất thế, suy
nghĩ của ông ta đã thay đổi, như những bài thơ sau này bớt giọng
sắt máu hoặc những câu chuyện Phùng Quán kể khi đến thăm ông tại
nhà.
Đọc
bài phỏng vấn, độc giả sẽ thấy có một Tố Hữu khác, một người
khác xa với hình ảnh của một đồ tể văn học, một ngươì làm thơ có
tâm hồn nhân ái, một trí thức có đầu óc phóng khoáng cởi mở, một
nghệ sĩ trân trọng chữ nghĩa và tôn trọng những người cầm bút.
Nhắc đến những người mà hồi trước là nạn nhân của ông, là đích
nhắm để ông hành hạ, thì ông lại khen ngợi không tiếc lời. Với
những người mà hồi trước ông lên án và nguyền rủa như Phan Khôi,
Trần Dần, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Lê Đạt, Phùng Quán,
Nguyễn Hữu Đang.. thì bây giờ ông lại đề cập đến với những lời
nồng hậu nhất. Không hiểu, có muộn màng không? Với những người
đã chết vì bị đày đoa…
Trong
bài phỏng vấn, Tố Hữu nói : ”.. Họ tung tin ông Tố Hữu chỉ đạo
ban nọ ban kia hoặc báo này báo khác “đánh” Búp Sen Hồng mà tôi
vừa nói ở trên. Họ dựng đứng chuyện ông Tố Hữu cắt bỏ câu ”Hoan
hô đồng chí Võ Nguyên Giáp trong bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện
Biên. Họ ném hỏa mù : ông Tố Hữu “đánh” Quang Dũng, Hoàng Cầm,
Lê Đạt, Trần Dần, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân, Văn Cao, Nguyên
Hồng, Tô Vũ, Phùng Quán, Phùng Cung, Trương Tửu, Phan Khôi, Đào
Duy Anh, Phan Ngọc, Nguyễn Hữu Đang, Đặng Đình Hưng,, Nguyễn
Mạnh tường, Trần Đức Thảo,… Họ vu khống Tố Hữu đánh cả Nguyễn
Đình Thi, chỗ ngồi của anh Nguyễn Đình Thi ở đại hội nhà văn
Việt Nam lần thứ ba là do Tố Hữu quyết định..”
Có
nghĩa là bọn xấu "cáo mượn oai hùm” nó làm và Tố Hữu không có
trách nhiệm gì hết!!! Hơm thế nữa, còn khen ngợi nữa kia. Như
nói về Văn Cao : ”Văn Cao còn là một nhà thơ xuất sắc, một họa
sĩ độc đáo, một nghệ sĩ suốt đời trung thành với dân tộc và với
Đảng..”
Nói
về Quang Dũng và Hoàng Cầm :
“Cần đánh giá lại, đánh giá thật cao giá trị thơ Quang Dũng
trong nền thơ Việt Nam hiện đại. Quang Dũng là một trong những
các nhà thơ đàn anh trong văn học Việt Nam thế kỷ 20. Cũng cần
nói thêm, Quang Dũng cón là một nhà văn sắc sảo về nội dung và
điêu luyện về ngôn ngữ…”
"..Hoàng Cầm ngời sáng cả trên lãnh vực thơ lẫn kịch bản thơ.
Chưa kể anh còn là một trong những nghệ sĩ ngâm thơ vào loại vô
địch không kém gì Phùng Quán,,”
Nói
về Trần Dần :
”Cũng như thơ Quang Dũng và Hoàng Cầm, thơ Trần Dần có nhiều đổi
mới về nội dung và nghệ thuật, đồng thời là tấm gương phản chiếu
tâm hồn dân tộc và phản chiếu cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
Việt Nam. Văn xuôi của anh. Người người lớp lớp, về căn bản có
giá trị hiện thực chiến đấu rất cao, Người người lớp lớp, là một
khẩu pháo binh chúng pháp của văn học Việt Nam thế kỷ 20. Nên
sớm tái bản..”
Nói
về Phan Khôi :
”Về cụ Phan Khôi, phải đánh giá lại. Không thể quên được hình
ảnh gương mẫu và nồng nhiệt của cụ trong đội quân văn nghệ kháng
chiến chống Pháp. Không thể bỏ qua được những kết quả của cụ
trong việc đổi mới thơ Việt Nam trước khi xuất hiện phong trào
thơ mới. Phan Khôi còn là một học giả về văn học trung Quốc.
Muốn hay không, cụ cũng đã có một vị trí xứng đáng trong lịch sử
văn học nước ta thế kỷ 20..”
Nói
về Nguyễn Hữu Đang :
”Suýt nữa tôi quên mất anh Nguyễn Hữu Đang người được bác Hồ
trao cho nhiệm vụ trọng đại Trưởng ban Tổ Chức lễ Tuyên Ngôn Độc
Lập mồng 2 tháng 9 năm 1945. Anh Đang suốt đời trung thành với
bác Hồ và với lý tưởng Độc lập Tự Do của dân tộc. Anh Đang đóng
góp nhiều cho cach mạng những đóng góp lặng lẽ. Anh Đang có
nhiều hy sinh đáng quý. Những hy sinh ấy chính là tấm gương ngời
sáng treo cao trước mặt chúng ta..”
Thực?
Giả? Có phải đó là trăn trở phản tỉnh của Tố Hữu hay chỉ là sự
vớt vát, hỏa mù? Nếu là thật thì bao nhiêu việc làm từ trước của
Tố Hữu có hậu quả tồi tệ ra sao? Thành ra, có thể đó là những
lời phản tỉnh của Tố Hữu, nhưng sau khi ông từ trần đem ra phổ
biến thấy không có lợi cho Đảng nên mới có sự phủ nhận. Dẫu sao,
dù thực hay giả, sự kiện này cũng nói lên được cái hại của sự
chuyên chế đối với dân tộc ở cả mọi phương diện kể cả văn
chương…
Một
trường hợp phản tỉnh khác, nửa hư nửa thực là Chế Lan Viên với
Di Cảo Thơ. Ông Chế là một trong những nhà thơ đứng đầu của nền
văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trước 1945, ông nổi
tiếng với tập thơ Điêu Tàn, có một phong vị văn chương khác với
mọi người với ngôn ngữ và ý tưởng gợi lại một thời đại nào của
một dân tộc Hời suy vi tăm tối và bị diệt vong. Nhưng đi xa hơn,
thơ của ông cũng làm chạnh nhớ tới tình trạng của dân tộc Việt
đang bị Thực dân Pháp đô hộ. Sau 1945, Chế lan Viên là một nhà
thơ có nhiều tập thơ được coi là có giá trị nghệ thuật. Với loại
thơ chính luận, ông tạo được sự thành công nhất là phù hợp được
với đường lối và quy định của văn học của Đảng đề ra. Xuân Sách
phác họa chân dung Chế Lan Viên:
”Điệu Tàn ư? Đâu chỉ có Điêu Tàn
Ta nghĩ tới Vàng Sao từ thuở ấy
Chim Báo Bão lựa chiều cơn gió dậy
Lựa Ánh Sáng trên đầu
Mà thay đổi sắc Phù Sa
Thay đổi cả cơn mê
Ai dám bảo con tàu không mộng tưởng
Lòng cũng như tàu ta muốn uống
Mắt anh em trong suối cạn Hội Nhà Văn.”
Điêu
tàn, Vàng Sao, Chim Báo Bão, Ánh Sáng và Phù Sa, là tên những
tập thơ của Chế Lan Viên. Hình như, Xuân Sách muốn ví họ Chế như
một con tắc kè, biết thay đổi màu sắc trên bộ da của mình tùy
trường hợp. Và, thâm ý còn muốn ví ông như một nhà thơ cơ hội,
lựa chiều gió để nương theo tạo danh vọng..
Chế
Lan Viên viết Di Cảo Thơ, cũng có nhiều bài suy tư về thân phận
của người nghệ sĩ trong một thời đại bây giờ. Nhưng, có nhiều
người xổ toẹt và coi đó như một món hàng mạo hóa. Nguyễn Duy,
khi sang Mỹ du lịch khi được hỏi về DI Cảo Thơ thì nói một câu :
”Đến chết rồi mà Chế Lan Viên còn chơi một “ quả “đích đáng. Ông
còn muốn lừa cả chính ông ta..”
Đọc
Di cảo Thơ, những bài như Bánh Vẽ, như Trừ Đi,.., thấy được tâm
sự. Nhưng, có phải thật lòng không, thì không ai đoan chắc. Ở
một xã hội, mà nói láo là chuyện tự nhiên thì có khi người nói
láo tưởng mình nói thật.
Bài
Bánh Vẽ :
“Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
thế mà anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
cầm lên nhấm nháp
chả là nếu anh từ chối
chúng sẽ bảo anh phá rối Đêm vui!
Bảo anh không còn có khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc
Thế thì còn đâu dịp nhai thứ thiệt
Rốt cuộc anh ngồi lại vào bàn
Như không có gì xảy ra hết
Và những người khác thây anh ngồi
Họ cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm.”
Đọc
Bánh Vẽ, nhớ lại câu nói của Hoàng Ngọc Hiến khi giải thích về
những hiện tượng ngược đời có vẻ phi lý mà là sự thực ở Việt nam
: “ở nước ta nó thế “. Khi cái thực và giả không phân biệt, khi
dối trá là phương tiện để cai trị dân chúng, thì Bánh vẽ của Chế
Lan Viên đề cập hay cái ”khải hoàn môn“ chiến tranh mà Dương Thu
Hương nói đến trong Tiểu Thuyết Vô Đề, cũng là chuyện bình
thường..
Đọc
bài Trừ Đi với phụ chú “sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ“:
“Có phải tôi viết đâu? Một nửa
cái cần viết vào thơ tôi đã giết đi rồi
giết một tiếng đau, giết một tiếng cười
giết một kỷ niệm, giết một ước mơ
Tôi giết cái cánh sắp bay.. trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi
Cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời lên trên biển
Giết mưa và giết luôn cỏ mọc trong mưa luôn thể
Tôi viết bằng xương thôi không có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi?
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi- người có tội
đã giết đi bao nhiêu cái
có khi không có tội như mình”
Di
Cảo Thơ, có phải là những trăn trở thực sự cuối đời hay chỉ là
những giả dối để hy vọng những đời người sau bỏ quên đi những
lầm lỗi một đời. Chế lan Viên đã mang kỹ thuật của ngôn ngữ ở
trình độ cao của ông để bù đắp vào cái tâm có lẽ không trong
sáng lắm. Có người nói, tài thì làm chi vì “cái tâm kia mới bằng
ba cái tài” !!..
Bây
giờ, ở trong nước đã đổi mới. Văn học, cũng có nhiều thay đổi.
Nhưng, xem ra cũng chưa được khả quan mấy. Tự do sáng tác xem ra
vẫn còn xa vời. Vẫn còn những chuyện chỉ đạo văn chương. Vẫn còn
chuyện người cầm bút là một thứ công chức, ăn lương Hội Nhà Văm.
Và Hội Nhà Văn là một cơ quan đặt ra để kiểm soát văn nghệ sĩ.
Và, vẫn có nỗi niềm ấp ủ, vẫn có những bức xúc trước tình cảnh
văn học hiện nay. Phản tỉnh hay phản kháng, cũng là một phản ứng
tất nhiên của người cầm bút có sĩ khí…
|