Những người muôn năm cũ. Hai mươi năm văn học miền
Nam
1954-1975 đã có bao nhiêu khuôn mặt đã thành người của muôn năm
cũ? Những khuôn mặt ấy dần vắng đi trong đời thường nhưng vẫn
còn hiện hữu trong văn chương.
Với tôi, không biết tại sao lại có một liên tưởng nào đó, từ
những chuyện kể về các chân dung văn học lừng lẫy một thời làm
tôi nhớ đến Sài Gòn, thành phố mà tôi có quá nhiều kỷ niệm. Từ
người nhớ đến cảnh, để gợi lại một thời đã qua. Cho dù, lúc ấy
tôi chỉ là một người mê đọc sách và không có sinh hoạt văn
chương nào. Nhắc đến những người xưa, lại nao nao buồn, lại nhớ
về những kỷ niệm mà có lẽ khó quên trong đời mình. Những kỷ niệm
riêng tư, sống mãi trong tâm thức mình không phai…
Có một lần tôi đọc bài viết của Văn Quang trong loạt bài “Lẩm
Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự” viết về tang lễ họa sĩ nhà văn Thái
Tuấn có những cụm từ làm tôi chạnh lòng. Những “người anh em
cũ”. Chữ “cũ“ của ngày xưa, dù chỉ mấy chục năm mà sao nghe xa
xăm lắm:
“Tang lễ cố họa sĩ Thái Tuấn chắc chắn sẽ có rất nhiều “anh em
cũ” đến tiễn đưa “lão“ về nơi an nghỉ cuối cùng. Nguyễn Nghiệp
Nhượng nói với tôi như thế trước khi tôi từ Lộc Ninh về Sài Gòn.
Tôi hiểu “anh em cũ” có nghĩa là những anh em hoạt động trong
lãnh vực văn học nghệ thuật trước năm 1975 ở miền Nam, chứ chẳng
riêng gì ở Sài Gòn. Họa sĩ Thái Tuấn đã trở thành một trong số
vài nghệ sĩ nhiều tuổi nhất còn sống ở thành phố này. Ông trở
thành “cây đại thụ” cũng như những hàng cây đại thụ mà từ khi
những người Bắc di cư vào Nam năm 1954 đã nhìn thấy trên những
con đướng đẹp nhất đô thành thời bấy giờ..”
Tôi có ý nghĩ như đọc một bài viết của một người “lưu lạc” trong
chính đất nước của mình, viết chuyện hiện tại mà nghe vương vất
những chập chờn của qúa khứ. Chiến tuyến hai bên hình như là
đường hào quá sâu, cà mấy chục năm mà vẫn chưa san bằng được.
Đọc bài viết, tưởng như thấy những người bị gạt bỏ ra những sinh
hoạt mà họ yêu mến trân trọng. Và, dù có muốn nối tiếp cũng chỉ
là những công trình rời rạc mà thôi.
Văn Quang viết ”… Trong lúc chờ đợi linh cữu ra ngoài xe, tôi có
dịp nói chuyện với Dương Nghiễm Mậu. Hồi này anh cắt tóc ngắn,
kiểu cắt “bốc” của những cậu học sinh khi còn nhỏ. Anh vẫn trẻ
trung như thanh niên. Tôi chưa kịp cười anh đã giải thích ngay ”Ấy
cắt tóc như thế để chúng nó không nắm được tóc mình” Nguyễn
Nghiệp Nhượng nhún vai, phê một câu ngắn gọn nhưng đầy đủ ý
nghĩa ”hơi muộn”. Một anh bạn nào đó hùa theo “Không những nó
bắm tóc ông mà còn bị nó ghè cho gãy xương”. Tôi hỏi lảng ”Cuốn
sách của ông ra sao rồi? Hết bán được rồi phải không?” Dương
Nghiễm Mậu cười tỉnh như không ”Chỉ không bán được ở Sài Gòn
thôi. Còn các nơi vẫn bán như thường. Mình chỉ ngại cho nhà xuất
bản, họ bỏ vốn ra in khá nhiều. Mình thì cứ bình an vô sự. - “Té
ra thành phố Sài Gòn lại không cởi mở bằng những nơi khác”. “ở
đó mà cởi,,”.
Một chút chua chát. Một chút bất cần. Những người cầm bút thuở
xưa hình như vẫn chưa “thỏa hiệp” được. Không giống như những Từ
Kế Tường, Đoàn Thạch Biền, Mường Mán,.. để có chức tước, có nhà
cửa…!!!
Văn Quang đã viết trong “Sài Gòn –
Cali
25 năm gặp lại“ về hiện tượng ấy:
“… Có lẽ tình hình ấy cũng giống như ở Sài Gòn thôi. Chỉ khác là
ở Sài Gòn lóp người hoạt động văn nghệ trước năm 1975 hầu hết đã
yên lặng thậm chí có một số nhiều, độc giả ở đây không còn biết
đến tên tuổi họ nhưng ở nước ngoài thì lại có nhiều người biết
đến tên tuổi họ. Đó là một sự thật. Nhưng có những tên tuổi vẫn
còn sống được giữa hai thời kỳ, đó là những người vì lẽ này hay
lẽ khác vẫn còn đất dụng võ, dù là sống vất vưởng chứ cũng chẳng
làm nên trò trống gì. Hay nói cách khác là những người cần kiếm
cơm ăn áo mặc hàng ngày. Còn những vị sống được giữa hai thời kỳ
mà vẫn cơm no rượu say thì có thể đếm trên đầu ngón tay.
Nhưng với những anh em đã từ xưa cùng sống với nhau ở Sài Gòn
thì với người ở nước ngoài về, tinh thần vẫn còn đó, sự gần gũi
vẫn như xưa nếu không muốn nói là hơn xưa. Hồi đó có những người
chưa từng gặp nhau chỉ biết tên nhau nhưng bây giờ trở về người
ta đi tìm nhau, đôi khi là sự tương trợ rất đầm thắm. Đó là sự
thông cảm ngày càng sâu sắc càng thấy thương nhau yêu quý nhau
hơn. Anh Thái Tuấn hỏi về tình hình những anh em còn ở lại đây.
Tôi kể:
- Không nhiều lắm nhưng cũng đủ để vui chơi những lúc nhàn rỗi.
Bây giờ có tuổi cả rồi nên nhiều lúc ngại di chuyển.Thỉnh
thoảng có dịp nào đó gặp nhau, cái đám ma như đám ma Trần Lê
Nguyễn thì đông đủ cả, đám giỗ như giỗ anh Chu Tử thì cũng vài
ba chục người do gia chủ Chu Vị Thủy và Đằng Giao chọn lựa, tiễn
người ra đi như tiễn Uyên Thao, Thanh Thương Hoàng có đến trên
40 người. Lâu lâu có một ông về chơi như ông Phan Diên thì lại
cơm gà ngồi túm tụm trong một căn phòng nhỏ. Sinh hoạt chẳng có
nơi chốn nào nhất định và làm thế nào có nơi chốn nhất định được
! tuy nhiên những hoạt động của anh em ở hải ngoại thường được
anh em ở đây rất chú ý. Nhưng báo chí sách vở thì khó lòng về
được đến nơi. Đến ngay mấy số báo Kịch Ảnh vô thưởng vô phạt gửi
qua bưu điện năm lần đều mất tăm cả năm. Vài anh em có computer,
chơi e-mail nói chuyện cà kê dê ngỗng với nhau hàng ngày nên hầu
như những sinh hoạt lặt vặt thì chuyện gì cũng biết ngoại trừ
những chuyện mà anh em ở bên đó cho rằng có hại cho những người
ở đây thì họ không gửi. Tuy vậy đôi khi cũng lạc lõng một vài
cái e-mail lạ hoắc vừa đọc vừa lo chẳng biết có chuyện gì xảy ra
hay không..”
Văn Quang đã viết Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự trong một tình
cảnh tế nhị của những người không có tự do cầm bút. Bài phỏng
vấn của nhà văn Lê Thị Huệ bày tỏ một vài điều.
“Lê Thị Huệ; Tại sao ông lại chọn đề tài ấy. Giữa cách viết này
ông viết rất sung sức, rất khỏe, rất bén nhạy. Tại sao ông không
chọn lối sáng tác tiểu thuyết như trước năm 1975?
Văn Quang: Về
câu hỏi thứ hai tôi chọn lối viết “Lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự”
bởi mỗi đề tài, tôi chọn một lối viết khác để độc giả dễ dàng
chia sẻ những cảm xúc, những ý tưởng của mình. Trước đây tôi
cũng thường viết nhiều loại. Tiểu thuyết, tiểu thuyết phóng sự,
phóng sự, truyện ngắn. Tiểu thuyết để diễn tả những đề tài về
nội tâm sâu sắc hơn, và tính thời đại chứ không phải thời sự.
Tính thời đại có thể nói về những sự việc, những tâm trạng,
những hình ảnh cách đó 5, 10 năm. Nhưng thời sự thì chỉ diễn tả
những sự kiện xảy ra gần nhất trong tuần hoặc trong tháng.
“Lẩm cẩm” là lối viết có tính cách thời sự. Bởi tính cácch đặc
thù của thời hiện tại nơi tôi đang sống nên buộc phaỉ viết theo
một cách nào đó để không bị gây phiền lụy. Tôi xông vào những
đề tài xã hội nóng nhất có tính điển hình nhất mà người dân
đang chú ý. Một nhu cầu khác nữa là hướng đến độc giả hải ngoại
đang quan tâm tới điều gì? Nói cho rõ hơn, Việt kiều của chúng
ta đang muốn biết điều gì đang xảy ra tại quê hương mình. Chắc
ai cũng muốn có những thông tin chính xác không bị vo tròn bóp
méo bởi bất cứ lý do nào, đôi khi chỉ là sự “tam sao thất bản”
nên thông tin thiếu độ trung thực. Tôi chọn lọc những sự kiện
ấy, tìm kiếm thông tin chi tiết và làm thế nào càng chính xác
được càng tốt. Nó không phải là một bản tin thuần túy mà đưa vào
những nhận định quan điểm của riêng mình như một lời bàn bạc,
nói chuyện với độc giả một cách bình thường chứ không phải là lý
luận. Từ đó bạn đọc có thể hiểu rõ được vấn đề hơn và có thể suy
luận nhận định riêng. Do đó, người ở xa quê hương vẫn có thể
biết rõ những sự việc xảy ra ở quê nhà.
Tuy nhiên như chị đã thấy ”lẩm cẩm Sài Gòn” không chỉ là những
chuyện lẩm cẩm. Nó có cả những mặt trái mặt phải của xã hội,
chuyện khôi hài và chuyện đau thương những bản tường trình thẳng
thắn vượt qua mọi áp lực. Miễn là chuyện xảy ra có thật. Cái
nhìn xoáy vào phía sau những sự việc đã và đang xảy ra chứ không
phải chỉ có bề mặt sự việc, tôi nghĩ đó mới thực sự cần thiết
cho bạn đọc ở nước ngoài vốn không có nhiều thì giờ theo dõi.
Tóm lại, “Lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự” nếu tổng kết lại nó sẽ là
một bức tranh toàn cảnh của xã hội tôi đang sống. Nó phản ảnh
được trung thực mọi vấn đề ở bế mặt đời sống của người dân thuộc
đủ mọi tầng lớp xã hội. Từ một anh nông dân ”lừa được cả nước“
đếm một đại gia lương thiện và bất lương từ lớp thanh niên đến
các quan chức từ cô gái tỉnh lẻ đến các cô gái chân dài thành
thị. Từ nỗi đau thương cơ cực của “những người bị bỏ quên” như
anh em thương phế binh VNCH đến những cảnh trác táng cùng cực
hoang phí vô cùng của lớp người ăn trên ngồi trước… cái khoảng
cách giữa thành thị và nông thôn những điều phi lý bất công
những điều cần nói mà người dân không nói được.
Tất nhiên trong hoàn cảnh của tôi có những hạn chế mà ai cũng
hiểu được. Cho nên viết và lách vẫn là điều phải nghĩ tới. Tôi
làm cái gì mà luật không cho phép mà cũng không cấm. Tôi làm với
lương tâm của người cầm bút. Dù ở đây chẳng có ai công nhận tôi
vẫn là người cầm bút. Người làm báo có thẻ làm báo nhưng tôi
chẳng có gì ngoài những tìm tòi của mình, tự mình lựa chọn thông
tin. Còn những “rủi ro” bao giờ tới và tới lúc nào, đành chấp
nhận như một số phận an bài. Nếu cứ nghĩ tới những thứ đó thì
chẳng làm được việc gì đáng làm. Tôi không tham gia bất kỳ tổ chức
nào, tôi không thích làm “chính trị” như bản tính tôi từ xưa tới
nay. Tôi chỉ biết cầm bút, độc lập và hành xử theo tiếng gọi của
lương tri…”
Hay câu trả lời Lê Thị Huệ về những ngày tù của ông:
“Có những điều đáng nói về những ngày tháng trong nhà tù. Và
cũng đã có rất nhiều những cuốn sách nói về chuyện này rồi.
Nhiều chi tiết đã được trình bày cụ thể. Vì thế lúc này tôi nghĩ
vào vị trí của tôi nên chuyên tâm vào những vấn đề xã hội hiện
tại mà tôi đang có điều kiện tìm hiểu tường tận hơn các bạn
khác. Tôi chỉ có thể nói nhà tù vẫn là nhà tù, không có chuyện
cải tạo ở đây. Điều này tôi cũng đã viết trong “Ngã Tư Hoàng
Hôn”. Một lúc nào đó, nếu còn thì giờ có thể tôi sẽ viết lại
toàn bộ những sự thật mà tôi đã được chứng kiến”
Riêng với cá nhân tôi, một người đọc tôi đã nhìn Văn Quang qua
con mắt của một người rất tò mò về đời sống ở một nơi chốn mà
mình rất thân quen nhưng bây giờ xa lạ. Đọc những bài viết của
ông, tôi mường tượng thấy một cuộc sống linh động diễn ra, phản
ánh cho một thời thế thật nhiều biến động. Ở thời điểm này, khi
cả thế giới như một ngôi làng trong kỹ nghệ truyền thông thì con
người dù ở những không gian khác nhau gần gũi nhau hơn. Đọc Văn
Quang để nhớ lại, để hồi tưởng và thấy cả một đại dương xa cách
ngàn trùng có lúc như thu nhỏ lại để gần tới một vài bước chân
đi đến…
Tôi đã đọc tiểu thuyết Văn Quang từ khi còn lâu lắm lúc còn ngồi
ở ghế nhà trường. Tôi biết ông là một nhà văn có nhiều tác phẩm
được in và rất nhiều độc giả. Thêm nữa, ông là một người viết
tiểu thuyết từng kỳ cho các nhật báo ở Sài Gòn có những tác phẩm
được chuyển thể thành phim ảnh. Ngoài ra ông còn làm Quản Đốc
đài phát thanh Quân Đội và là một sĩ quan cấp tá trong tổng Cục
Chiến Tranh Chính Trị của quân lực VNCH. Nhưng khi tuổi trẻ tôi
ít quan tâm tới những tiểu thuyết như Chân Trời Tím, hay Người
Yêu Của Lính, dù những cuốn sách này đã gây ra những dư luận một
thời. Lúc ấy, tuổi trẻ nên say mê theo những “thời thượng”, một
chút triết học, một chút làm dáng của sự chưa trưởng thành. Lúc
ấy vừa bắt đầu những khốc liệt của chiến tranh nên đời sống đã
nhuốm nhiều những hoài nghi, những vấn nạn của những người vừa
đi vào cuộc.
Khi sang định cư ở đây, bắt đầu gia nhập sinh hoạt văn chương,
quen biết người này người kia, tôi biết thêm nhiều chi tiết về
nhà văn Văn Quang. Người hay nhắc tới ông nhiều nhất là nhà văn
Mai Thảo. Trong những cuộc trà dư tửu hậu ông hay nhắc đến những
bạn hữu của ông, những người đã cùng nhau cầm bút làm thơ viết
văn trong thời kỳ hai mươi năm văn học miền Nam. Ông nhắc đến
một người bạn đã chia sẻ với ông những nỗi buồn, những niềm vui
của nghiệp cầm bút với tâm cảm xót thương những người còn kẹt
lại ở quê nhà.
Khi Văn Quang gửi bản thảo tiểu thuyết đầu tiên ông viết sau khi
bị tù cải tạo trở về “Soi Bóng Cuộc Tình”, nhà xuất bản Hồng
Lĩnh in và nhà văn Mai Thảo đã viết một bài vào tập vừa trân
trọng vừa thân ái. Ông nhắc đến những kỷ niệm, những lúc vui
trong sum họp bạn bè, những lúc buồn khi cùng chung những ngày
đen tối sau năm 1975. Nhà văn Mai Thảo viết:
“... Để khép lại bài viết này, một vài dòng về cõi văn chương
tiểu thuyết của Văn Quang. Ta có nhiều nhà văn quân đội là những
tài viết xuất sắc. Như Phạm Huấn, Thảo Trường, Y Uyên, Diên Nghị
và nổi bật nhất là Phan Nhật Nam. Nhưng ở mấy nhà văn vừa kể,
thường chỉ là những bút ký và hồi ký chiến trường, về đời sống
quân ngũ, về những tuyến đầu và những trận đánh, với hình ảnh
người lính chiến trực diện với kẻ thù trên cái toàn cảnh của
chiến trường 20 năm khốc liệt. Văn Quang khác. Là một tiểu
thuyết gia trong cái nghĩa trọn vẹn và toàn phần của một tiểu
thuyết gia ông đã đẩy cõi viết ông tới những cõi bờ rộng lớn và
nhiều mặt hơn, ở đó không chỉ có tiền tuyến mà còn có hậu
phương, những cõi bờ mênh mang ấy từ muôn đời đã có một cái tên
gọi rất giản dị là xã hội, là đời sống. Và từ một vị trí tiểu
thuyết gia như Văn Quang, xã hội không phải là một đồng bằng
phẳng lặng và đời sống một con đường một chiều. Mà là những đỉnh
cao kế liền những vực thẳm. Mà là những ngày đẹp trời còn có
ngày mưa gió. Mà là những giọt lệ bên cạnh những tiếng cười, máu
đang chảy ở một phía này lại hoa nở ở phía kia. Tất cả tạo thành
một địa hình nhân thế
cực kỳ phức tạp, với tình yêu, hạnh phúc và những vui buồn, lúc
là sự thật lúc là ảo tưởng với những tỏ hiện lúc là mặt phải lúc
là mặt trái, ở đó mỗi con người sống và chết với những vấn nạn,
những mộng tưởng, những thảm kịch tạo nên phần số và định mệnh
của một đời người. Những trạng thái trăm vẻ nghìn hình vừa kể
chính là những chất liệu cho một thể văn phổ biến nhất và đang
được đọc nhiều nhất ở thế
kỷ này là thể văn tiểu thuyết, và người xử dụng tốt đẹp thể văn
này là một tiểu thuyết gia.
Văn Quang là người của thể văn tôi vừa nói tới. Cho nên, bằng
nhận thức trên và qua những tác phẩm chủ yếu của Văn Quang tuy
ông cũng có một số phóng sự vui như Nguyễn Đình Thiều, như Hoàng
Hải Thủy, trước sau tôi chỉ thấy ông là một tiểu thuyết gia, một
tiểu thuyết gia trước hết. Một tiểu thuyết gia đã hiểu được rất
rõ điều này ; là những tiểu thuyết hay của một thời – điều này
cũng cắt nghĩa cho những cuốn best- sellers- phải có hiệu năng
hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Không có là thất bại. Và lôi cuốn
và hấp dẫn chính là hai điều đáng ghi nhận nhất ở cách viết văn
Quang, ở tiểu thuyết Văn Quang. Tiểu thuyết Văn Quang có một số
người đọc mọi giới rộng lớn vì thế. Một thời gian dài, ông là
một trong những tác giả đắt giá, có sách đạt tới những số bán
cao nhất của văn chương tiểu thuyết ở miền Nam vì thế..
Cho nên tôi nghĩ, dẫu sau 17 năm im lặng và vắng bóng, Văn Quang
không hề trở thành xa lạ với người đọc mà vẫn là một tác giả
được nhiều người yêu mến. Và tiểu thuyết ông cũng vậy, viết lại
17 năm sau mà truyện dài do Hồng Lĩnh xuất bản ở ngoài nước là
tác phẩm đầu tiên.
Theo nhà phê bình Uyên Thao thì các tác phẩm của Văn Quang có
thể chia làm bốn thành phần chính. Thứ nhất là mô tả cuộc sống
của tuổi trẻ với những Nguyệt Áo Đỏ, Đời Chưa Trang Điểm, Tiếng
Hát Học Trò, Nét Môi Cuồng Vọng, Từ Biệt Bóng Đêm… Phần thứ hai
là phản ánh đời sống quân ngũ với Chân Trời Tím, Vì Sao Cô Độc,
Người Lính Hào Hoa, Người Yêu Của Lính, Ngàn Năm Mây Bay., Phần
thứ ba là phản ánh xã hội thực tại thời chiến như Xuôi Dòng,
Tiếng Gọi Của Đêm Tối,, và thành phần sau cùng là châm biếm
những lề lối thời thượng lố lăng thuộc nhiều lãnh vực sinh hoạt,
đặc biệt là các giới làm văn học nghệ thuật như Những Ngày Hoa
Mộng, Sài Gòn Tốc.
Về tác phẩm Ngã Tư Hoàng Hôn được in ở hải ngoại trong thể loại
phóng sự tiểu thuyết, là một trong những sở trường của Văn
Quang. Có người nói rằng so với những tác phẩm được viết từ
trước thì Ngã tư Hoàng Hôn có khá hơn nhưng chưa đủ sức vuột
trôi khi sa sánh với những cây bút như Vũ Trọng Phụng thời tiền
chiến chẳng hạn. Theo tôi, khó mà so sánh giữa hai người cầm bút
ở hai thế hệ khác nhau có tâm tư khác nhau và cả đời sống cũng
khác biệt nhau một cách sâu xa. Vũ Trọng Phụng có cái nhìn của
một người tuy sống dưới chế độ thực dân nhưng đời sống tương đối
bình yên và ít có những biến động đời sống tác đông đến nhân
vật. Cái hiện thực của ông vẫn pha trộn hư cấu nhiều hơn. Còn ở
Văn Quang, đời sống của chính tác giả và cả một xã hội mà ông
sống là một cuộc sống bế tắc và tất cả mọi giá trị bị đảo lộn vì
những biến cố thời thế. Con người ở trong những cơn lốc xoáy, dù
ở bên này hay bên kia, dù trẻ tuổi hay già lão, dù là cán bộ
viên chức của chế độ mới hay là những người của chế độ cũ vừa
được thả khỏi trại tù, và hình như bị chìm đắm vào trong một bầu
khí quyển tối tăm của một thế giam bị xuống cấp tới tận cùng đầy
đọa. Những người đã từng sống ở trong nước chắc hiểu rõ những
cảnh tình này. Trong diễn tả cuả Văn Quang, hình như chất hiện
thực nhiều hơn so với những hư cấu và một xã hội có thực được
phác họa lại bằng những chấm phá độc đáo và sâu sắc.
Sau năm 1975, tình trạng xã hội ở Việt Nam càng ngày càng có
nhiều vấn đề trầm trọng từ kinh tế đến sự phá sản của đạo đức.
Chế độ chính trị độc tài toàn trị đã gây ra bao nhiêu nỗi thống
khổ cho dân chúng. Và, con người trong hoàn cảnh ấy cũng bị ảnh
hưởng nặng nề theo. Nhà văn Uyên Thao đã viết về “Ngã Tư Hoàng
Hôn”:
“qua Ngã Tư Hoàng Hôn, Văn Quang đã phác họa những hậu quả não
nề do các chế độ chính trị tạo ra in hằn từ tâm lý cá nhân đến
thực tế xã hội để hình thành bức chân dung toàn cảnh về sự dậy
dụa trong ngột
ngạt tối tăm nhớp nhúa của con người Việt nam sau những biến
động lịch sử nối tiếp hơn nửa thế kỷ và cuộc đổi đời 1975. Hậu
quả của tất cả những sự kiện đó không chỉ phá nát đời sống về
kinh tế của một xã hội mà đã thọc sâu những mũi dao nhọn vào tận
tim óc con người gây nên những vết thương tâm tư nhức nhối cho
từng cá nhân nhỏ bé không dễ hàn gắn theo năm tháng.
Với Ngã Tư Hoàng Hôn, Văn Quang gần như đã khẳng định tương lai
đất nước chỉ là một khoảng trống đen ngòm sau hơn nửa thế kỷ dân
tộc phải cắn răng chịu nỗi đọa đày chấp nhận mọi nỗ lực hy sinh
và đổ ra không biết bao nhiêu là xương máu.
Từ đây, Ngã Tư Hoàng Hôn cũng là tiếng kêu báo nguy về một xã
hội hoàn toàn lạc hướng trong đó con người không còn biết và thê
thảm hơn là không thèm biết đâu là Tà đâu là Chính, đâu là phải
đâu là trái trong lúc miệt mài lao theo những dẫn dắt của bản
năng..”
Văn Quang là một sĩ quan cấp tá của QLVNCH, bị đi tù hơn 12 năm,
nhưng không đi mỹ theo diện HO và tình nguyện làm một người ở
lại để quan sát và viết về một xã hội mà đối với người Việt hải
ngoại còn nhiều bí ẩn gợi óc tò mò. Sự lưa chọn của ông, tới bây
giờ ông vẫn thấy không có gì hối tiếc mà còn trái lại nữa. Mỗi
người một hoàn cảnh, mỗi sự lựa
chọn trong cuộc đời có số phận riêng mà ông trời đã định. Số
phận của Văn Quang là làm một nhân chứng để viết về một xã hội
đang tan rã, khi mà tiền bạc trở nên một cứu cánh cho cuộc đời
và tất cả các giá trị khác đều trở thành không nghĩa lý và có
thể mua bán đổi chác bằng tiền bạc.
Văn Quang viết “Soi bóng Cuộc Tình”, viết ”Sài Gòn-Cali 25 năm
gặp lại”, viết “Ngã Tư Hoàng Hôn”, viết “Đỗi Đời“, viết “Lẩm cẩm
Sài gòn thiên hạ sự”, Tất cả chỉ với một chủ đích của một
người viết lại những biến chuyển của một xã hội mà ông đang
sống. Ông tâm sự :
“Ở đây cũng có một số anh em sĩ quan cũ sau khi ở tù ra rồi cũng
không đi theo diện HO. Dường như vấn đề kinh tế quyết định tất
cả. Hầu hết những người ở lại đều có một cuộc sống tương đối ổn
định hoặc có những trở ngại về gia đình, như con cái đã có vợ có
chồng rồi không được đi theo… mỗi người một hoàn cảnh.
Mặt khác tôi nghĩ anh em ra đi nhiều rồi tôi muốn ở lại để chứng
kiến cho hết, cho đầy đủ những đổi thay. Đời sống lúc đó ở đây
bấp bênh rồi chao đảo vì Liên Xô tan rã, vì Đông Âu lập lờ. Cuộc
sống “lên voi xuống chó“ quay quắt nếu nhìn như một kẻ ngoài
cuộc nó sinh động hơn một sân khấu với đầy đủ bi hài kịch thú
vị. Có quá nhiều đề tài mới lạ cho mình ghi nhận. Làm một nhân
chứng sống có lẽ hay hơn. Và cũng vì sự “gậm nhấm” của tôi về
“người bạn đồng minh” nên tôi quyết định ở lại..”
Tôi đọc Văn Quang, từ những tác phẩm đã xuất bản đến những bài
viết đăng tải hàng tuần trên các “web-site”, với sự thích thú
của một người trở lại với nơi chốn mà mình đã rời xa hơn 20
năm. Có người hay đi về Việt Nam thường nói rằng thành phố cũ
đã thay đổi toàn diện đến nỗi không ngờ và nếu đi về để thơ thẩn
tìm kiếm những điều xưa cũ thì thật là khó khăn. Tôi là người
hay trân trọng với quá khứ dù mình chỉ là một người bình thường
nhưng cũng nếm đủ mùi phong trần từ sau ngày tang thương tháng
tư năm 1975. Đọc Văn Quang, như đã về thăm quê hương, một nơi
chốn mà mình luôn nhớ về. và từ cảnh, lại chạnh nghĩ đến người,
những người của “muôn năm cũ”. Ruộng dâu thành bể xanh, nhưng
con người có lúc vẫn cảm khái để ngưỡng vọng về một thời kỳ đã
thành một phần cuộc sống mình. Mấy ai, khi nhắc về nơi chốn cũ,
về những người đã xa xăm mà không thấy nao lòng. Ở Văn Quang,
tôi đọc ông qua tâm cảm ấy…
|