Nghĩ về một bài thơ
của một thi sĩ vừa ra đi
Thơ
Giang hữu Tuyên có nét riêng của những người sinh trưởng từ Nam Bộ.
Thơ, đầy những hình ảnh của thôn quê, của liếp rau bên ao, của con
kinh trước mặt, của dậu mồng tơi tím, của ngọn cải đọt rau quê
nhà. Ở tâm tình của một người tha hương, nơi để nhớ nhung về, dù
là những cảnh tầm thường quen thuộc của quê hương. Trong nhiều
trường hợp, Giang Hữu Tuyên vừa là người “tạo cảnh“ vừa là người “tả
cảnh”. Tạo cảnh là dùng những nét chân thực để tạo thành một thế
giới riêng chuyên chở tâm sự ý tưởng mình. Còn tả cảnh là dùng lời
chân thực để phác họa những cảnh tượng có nét sống động của đời sống
hiện thực. Nhà thơ đã dung hòa để có một thế giới mà trong đó có sự
chân thực của đời thường mà lại chuyên chở được ý tưởng, tâm tư.
Giang Hữu Tuyên tả cảnh vùng đồng bằng Sông Cửu Long, và trong ngôn
ngữ chân chất ấy gửi gấm theo tấm lòng hồn hậu của một người yêu
tha thiết quê hương.
Giang Hữu Tuyên đã ra đi vào cõi miên viễn nhưng thơ của ông vẫn
còn hiện hữu. Rất nhiều người bằng hữu của anh đã viết về người
thi sĩ dễ mến này. Thơ của ông được đọc và qua nhiều nhận xét
để phác họa lại một khuôn dáng người làm thơ có phảng phất thời
tiết và nơi chốn của đồng bằng Nam Bộ.
Trong thơ Giang Hữu Tuyên, hình bóng nổi bật nhất là hình bóng mẹ.
Bà mẹ của quê mùa, của những hồi tưởng về những nơi chốn gần gũi.
“Nắng xiên giàn dậu trức nhà
Mẹ che tay ngó mông ra đầu làng
Gió chiều bắt Mẹ ho khan
Con giờ đâu mất biệt ngàn tăm hơi
Nhớ con mẹ hái mồng tơi
Nấu nồi canh cũ mẹ ngồi dầm chan”
Những câu lục bát bình dị. Những tâm tình giản đơn mà thấm thía.
Cảnh và ngườii, người và cảnh, như có điều gì quấn quít nhau. Vẫn là
nơi quen thuộc. Vẫn là tâm tư vong ngàn trùng.
“Rau răm trụi hết lá già
mùa xuân gửi ngọn bạc hà xa xăm
chiều nghiêng dáng núi đêm rằm
lòng trăng cũng giục ý thầm nhớ quê
nao nao tiếng cuốc bờ tre
trên ao bèo giạt gió về mang mang
bữa đi bông cải nở vàng
sông chia nhánh chảy tóc ngàn dặm bay
(lu không nước đã bao ngày)
mà người thệ hải vẫn hoài ngóng trông.”
Những câu thơ bình dị, những ý tưởng sống động cận gần trong cuộc
sống hôm nay. Thơ những nét khắc họa, có mờ ảo lãng mạn nhưng cũng
tràn đầy chất sống. Tập thơ “Trời mưa đi phát báo “ có đầy đủ những
đặc tính ấy.
Sống lưu lạc tha phương, ai mà chẳng có lúc chạnh lòng nghĩ về quê
hương xưa, đất nước cũ. Làm thơ, để những vương vấn ấy không là
những giây phút buồn phiền, mà, ngôn ngữ chính là màu nắng nhẹ, là
tấc gió phai cho cuộc sống lung linh hơn. Dù rằng ai nấy cũng
hiểu được nỗi mong manh của cuộc sống.
Tôi
biết Giang Hữu Tuyên từ lúc cộng tác gửi bài cho “Việt Chiến” cũng
như biết hai người cùng chủ trương là Ngô Vương Toại và Nguyễn Đình
Hùng. Những câu chuyện qua điện thoại, ấm áp, thân tình làm mình cảm
thấy bớt cô đơn trước cuộc sống đang dần dần trước mắt. Thời gian ấy
là lúc tôi mới vừa chân ướt chân ráo tới định cư ở Hoa Kỳ. Một thời
kỳ chuyển tiếp của cuộc sống tôi tràn đầy kỷ niệm.
Giai đoạn ấy cũng là thời gian mà tôi viết một cách hăng say nhất.
Viết, để cho tôi nhiều hơn là cho mọi người. Nếu không, như nồi hấp
đầy hơi sẽ vỡ toang ra hết…
Thú
thực, lúc ấy tôi còn mơ mộng nhiều lắm và cái dư âm ảnh hưởng của
những ngày còn ở bên nhà cẫn còn đầy ắp trong tâm não. Và, tôi
nghĩ, những người chủ trương “Việt Chiến” như Giang Hữu Tuyên chắc
cũng như thế, lúc đó.
Có
điều gì bức bối phải nói ra cho hả. Quê hương, mới đây còn gần gũi
mà bây giờ xa biệt. Có bao nhiêu gửi gấm từ những người còn kẹt lại
bên nhà? Đời sống ở đây sao lạ lẫm quá. Ta đã làm gì đời ta? Câu
hỏi ấy như chung mang của nhều người. Có nhắc nhở nhưng có một chút
gì bó tay vô vọng…
Thập niên 80 ở hải ngoại có những người lính cũ tương đối còn trẻ và
bước vào văn chương một cách tình cờ trong sáng. Không có tham vọng
làm nhà văn, mà, họ chỉ muốn làm chứng nhân để ghi chép lại nỗi niềm
của một thời đại thật nhiều biến cố. Bây giờ, qua một khoảng cách
thời gian cần thiết để ngoái lại nhìn ngắm, cái tâm hừng hực lửa với
đời, với người của họ đã làm văn chương chữ nghĩa thuở ấy có sự lôi
cuốn nhập cuộc nhiều người.
Nhóm tạp chí Nhân Văn với những Tưởng Năng Tiến, Lý Khánh Hồng,
Thượng Văn, Võ Hoàng.. ở miền Tây Hoa Kỳ và nhóm anh em quanh tạp
chí Việt Chiến ở miền Đông bắc Hoa Kỳ, là một phần đại diện cho
những người trẻ nhiều lý tưởng muốn đóng góp một phần nào công sức
cho đại cuộc của quốc gia, dân tộc. Thơ văn, đối với họ, là mũi
lao tấn kích vào bạo quyền, vào những thế lực phi nhân đang ngự trị
trên đất nước. Một cuộc chiến vẫn còn, dù chém giết đã hết trên quê
hương. Một mặt trận bằng bút mực trên lãnh thổ văn chương vẫn còn
tiếp nối….
Giang Hữu Tuyên có cảm xúc thực để làm thơ. Cái chất lính ngày xưa
và cái tâm thời trôi dạt hôm nay, trộn lẫn. Những vần thơ chất phác
bình dị nhưng chất chứa cái phần hồn nhiều bão dông thời thế. Thơ
của ông không có cái phấn son điểm tô cho ngôn ngữ mà có sự mộc mạc
của chất quặng nguyên sinh cuộc sống. Trong nhịp đập hôi hổi sinh
động ấy, cái buồn đã chuyển hóa đi để thành động lực dù lãng mạn
nhưng là sức đẩy để giúp chúng ta đi qua những gập ghềnh của cõi
nhân gian. Thân phận lưu vong, như người bên lề lạc lõng, cái tủi
thân ấy có thoáng qua nhưng cũng đủ làm tê điếng tấc lòng. Nếu viết
ra, như một lời tâm sự, chắc cũng dịu đi nhiều cái dằn vặt thâm tâm.
Tâm
sự tha phương ai cũng giống nhau. Như một ông tướng tư lệnh quân
chủng tôi, khi viết cảm khái về những giọt mưa quê nhà đã nói về cái
mộng ước nhỏ nhoi được cùng với giai nhân của mình sống lại những
đêm nghe mưa tí tách tầu tiêu trong cư xá phi trường Tân Sơn
Nhứt. Hay, như Giang Hữu Tuyên : “Mưa ở Arlington nhớ mưa quê nhà.”
“Lá vàng rụng hết đêm qua
Chiều xô cửa ngõ ngó ra rất buồn
Mưa đằm ngọn cỏ đan sương
Mưa nghiêng kỷ niệm mưa buồn tóc bay
Hồn bình nguyên rộng trên tay
Căng đầy nỗi nhớ sông dài phù sa
Ơi miền Nam Ơi quê nhà
Dưới ao sen nở mẹ già vo cơm
Vo nồi gạo mới Nàng Hương
Của đồng tháng chạp của lòng đất thiêng
Mưa phùn gió phất qua hiên
Em gom củi đước đốt lên nỗi niềm
Chị ngồi vá chút buồn riêng
Anh đi như thể là thiên thu rồi
Mây vô tình trắng chị ơi
Nghìn năm muối mặn nghìn đời biển xanh!”
Người sinh trưởng từ đồng bằng sông Cửu Long có tâm tính bình dị
như cảnh thổ nơi ấy. Từ hình ảnh đến ngôn ngữ, đều bình thường như
cuộc sống mọi ngày nhưng lại có độ ngân nga của những réo rắt đứt
ruột của những dây đàn căng tột độ. Lục bát của Giang Hữu Tuyên có
sự thiết tha của ngôn ngữ Nguyễn Bính. So sánh thi sĩ này với người
làm thơ khác không phải là phương cách chính xác nhưng không hiểu
sao, cái liên tưởng ấy tự nhiên có với tôi. Nó thành sự đồng cảm
của những người luôn ngóng về quê hương với nỗi chạnh lòng.
Những ngày của năm tháng đầu tiên ở Mỹ, dù có bận rôn, dù có mệt mỏi
nhưng khi hồi tưởng lại là một thời gian có nhiều dấu ấn tâm thức và
khó tàn phai nhất. Lúc ấy, nặng vai quá khứ, dấn bước hiện tại
nhưng ngóng về tương lai. Ngày tháng, tiếp nối bằng nỗ lực. Những
trang sách tiếp theo những giờ lao động nặng nề, óc não và cơ bắp
cũng căng theo nhau lấp đầy những thời khắc. Có một điều gì, trong
thâm tâm. Nửa tiếc nuối, nửa hãnh diện. Tuổi trẻ chúng tôi, những
chọn lựa bắt buộc. Vào lính, mặc quân phục, cầm súng nhưng trong tâm
vẫn tha thiết tiếng gọi yên bình. Những cơn mơ, trong thơ trong nhạc
thắp lên bếp lửa thấp thoáng. Hiện về, những phương trời ảo giác. Có
mặt, những mong ước mênh mông. Tuổi trẻ chúng tôi, đã thấp thoáng
những bi thảm chực chờ cho đến ngày phương bắc thống trị toàn lãnh
thổ. Thơ, văn lại bứt phá lên đường. Có tiếng kêu của kinh cầu hồn
nhưng cũng có tiếng âm vang gọi nhau đứng lên dõng dạc lời của
chứng nhân của một thời đạI cực kỳ bi thảm Việt Nam.
Rồi
tiếp những ngày lưu lạc. Rồi nối những tâm sự bềnh bồng. Có những
thất vọng vì bàn tay bé nhỏ vô vọng trước những mong đợi to lớn của
lịch sử. Nhưng cũng có những mong ước vươn lên từ cuộc sống phù hoa
xứ người. Có giây phút chạnh lòng từ ám ảnh xa xưa ngày cũ. Thơ,
là tiếng thở dài, trầm lắng, ngắn nhưng sâu…
Một
bài thơ của Giang Hữu Tuyên, tôi đọc và luôn luôn sau đó bao giờ
cũng là những liên tưởng đến thân phận của mình một lúc nào tuy đã
hai mươi năm nhưng tưởng như mới hôm qua. Những ngày chập chững
gượng lại để bước tới vững vàng cuộc đời mình. Tôi đọc bài thơ ấy
nhiều lần và mười lần như một cũng là những chạnh lòng như thế. Bài
thơ “Trời mưa đi phát báo” mà nhiều người cũng đọc và đồng cảm như
tôi.
“Chiều ngã năm đường năm bảy ngã
Ngã nào cũng ướt giọt mưa rơi
Bao mùa mưa đã im giông bão
Sao nước trường giang vẫn khứ hồi
Mười mấy năm làm tên phát báo
Lòng buồn theo thành quách xa xưa
Những trang tin dội từ quá khứ
Rớt ngập ngừng cùng những hạt mưa
Mưa lót ngót đời loi ngoi mãi
Sáng chưa đi chiều lại mưa về
Mưa ngã năm từ năm bảy ngã
Ngã nào cũng mưa và mưa thôi
Xấp báo trên tay vừa ướt hết
Vậy mà cứ đứng dưới mưa bay
Hình như những mùa mưa thuở trước
Đang về làm ướt trái tim ai”
Mưa. Những cơn mưa của con người bơ vơ lưu lạc giữa mù mịt đất trời.
Đường năm bảy ngã chiều biết đi về lối ngã nào đây. Chỗ nào cũng mưa
và mưa bao phủ. Mưa làm ẩm ướt những trang tin trên báo và cũng ướt
luôn trái tim ai đang giây phút chạnh lòng. Ai? Người ấy có thể là
tác giả nhưng cũng có thể là một người trong chúng ta, lạc giữa đìu
hiu của đất trời và giữa đơn điệu thúc bách của áo cơm. Y hệt như
cảnh “Xấp báo trong tay vừa ướt hết. Vậy mà cứ đứng giữa mưa bay.
Hình như những mùa mưa thuở trước. Đang về làm ướt trái tim ai?”.
Không còn là hình như, mà, đã là như thực, một cảm giác thực, một
chạnh lòng thực. Mưa. Mưa. Vô cùng không gian thơ. Mưa của một người
lính cũ còn vương vấn chiến địa xưa. Những hạt mưa thuở nào. Buốt
xót.
Hình như có lúc Giang Hữu Tuyên linh cảm sự ra đi của mình. Ai mà
không có một lần phải ra đi khi chuyến tàu thiên cổ vào ga cập bến.
Nhưng, ở giây phút chia xa còn vương vần lại quê nhà. Thi sĩ đã
nhắn với người ở lại. Mai này trong chuyến tàu thiên cổ. Nếu có
người thương tiếc tiễn đưa. Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ. Chút tình
hệ lụy núi sông xưa… kẻ tha phương, vẫn muốn trở về để nhớ lại
những ngày xưa cũ của quê hương. Có tiếng gọi nào trầm thống cho
một nỗi niềm day dứt khôn nguôi. Thơ, như bước chân trở về dù là một
chuyến đi xa. Chuyến đi của “Đất gọi người đi”
“Đất gọi người đi buồn biết mấy
sông dài chảy xiết một giòng thôi
từ nay chín cửa mưa mù lối
sóng nước mênh mông nhánh củi trôi
đã nhiều năm vắng xa biền biệt
mưa nắng hai mùa gieo nhớ thương
mương nước nhỏ chờ bông cải ngọt
vượt mình trên mảnh đất quê hương
nhưng chẳng thấy đâu giờ hạnh phúc
đàn chim bay mãi chửa về đây
áo cơm lần lửa qua ngày tháng
mộng ước lui dần xuống kẽ tay
rừng phong u uẩn nằm im tiếng
chiều phả hơi sương lạnh nỗi nhà
Việt Điểu Cành Nam ôi cách trờ
Ngựa Hồ còn hí Bắc Phong xa
Mai này trong chuyến tàu thiên cổ
Nếu có người thương tiếc tiễn đưa
Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ
Chút tình hệ lụy núi sông xưa..”
Thời gia n qua thật mau. Tháng tháng ngày ngày qua đi. Trong nhịp
sống vội vã quê người, có lúc vẫn nghĩ về phương trời cũ, đất nước
xưa. Có mấy ai, giở lại trang thơ, tìm lại dư hương của người đã ra
đi vào cõi không cùng. Làm sao, hình ảnh quê nhà lại cứ mãi vấn
vương.
Thế
nào mà tâm tư lại cứ mải vương vấn. Đọc những câu thơ Giang Hữu
Tuyên, có lúc thấy mình lênh đânh chẳng khác nào bè lục bình trôi
trên sông, trên rạch. Đời người tha hương, có lúc lại nhớ tha
thiết cơn mưa xứ mình, lại yêu tha thiết bát canh mồng tơi mẹ nấu
và thấy muôn đời vẫn là giòng sông thơ ấu ngày xưa tắm mát buôi trưa
hè. Ôi ! đó có phải là hệ lụy của núi sông xưa không?
Viết nhân ngày giỗ của một thi sĩ, Giang hữu Tuyên mất ngày 14 tháng
11, không phải chỉ là tưởng niệm mà thôi, còn là những giây phút
để nhớ về một thời kỳ đã qua của đời sống mình. Có những câu thơ,
gợi lại một đời sống cũ, đọc lại trong cái xúc cảm mênh mang. Câu
hỏi chúng ta có phải là những người lưu lạc không trên xứ người có
lẽ sẽ dễ trả lời. Bởi, cuộc sống này, dù là của thế hệ thứ nhất, thứ
một rưỡi hay thứ hai, cũng vẫn chỉ là người đứng bên lề ở nơi bản
địa này. Dù rằng, quốc gia này đa văn hóa và có nhiều cơ hội để hội
nhập và thăng tiến nhưng cái tâm cảm lạc lõng vẫn bàng bạc và lẩn
khuất, nhất là trong văn chương. Tôi đọc thơ Giang Hữu Tuyên
trong cảm giác bồi hồi ấy…
|