Những Tết của người lính
trong văn học Việt Nam
Chiến
tranh có lẽ là một đề tài lớn của văn chương nhân loại. Riêng với
dân tộc Việt Nam, từ xưa đến nay, đã quen với chinh chiến khói
lửa, chỉ riêng ký ức của những người lính cũng đủ làm chất liệu cho
những pho tiểu thuyết lớn. Đọc từ văn học miền Bắc đến hai mươi năm
văn học miền Nam, từ văn chương trong nước đến hải ngoại, rất nhiều
chân dung người lính được phác họa với rất nhiều đặc tính, đặc thù.
Văn học miền Bắc và văn học trong nước sau 1975 là một nền văn học
đầy tiếng súng. Hình tượng người lính được tô vẽ với những nét anh
hùng đôi khi gần với tưởng tượng và không có trong thực tế. Dù
rằng, có khi chiến tranh đã hết, nhưng âm hưởng vẫn còn. Tới bây giờ
vẫn còn những tiểu thuyết tô vẽ những mẫu người được gọi là chiến
sĩ, chiến đấu ngay cả khi hòa bình. Đó cũng là một chính sách của
chế độ như Phạm Văn Đồng tuyên bố :
“Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng
không chỉ thể hiện ở một số người ưu tú nhất, mà đang trở thành nếp
sống, chiến đấu và lao động của hàng triệu quần chúng, thuộc mọi
lứa tuổi và mọi tầng lớp nhân dân; chủ nghĩa anh hùng cách mạng
không chỉ nẩy nở ở những mặt trận đấu tranh quyết liệt với quân thù
mà đang mở rộng toàn diện khắp mọi nơi.. Chủ nghĩa anh hùng cách
mạng không chỉ bùng lên đột xuất trong những giờ phút thử thách gay
go nhất mà đang diễn ra thường xuyên hàng ngày, hàng giờ trong quá
trình đấu tranh cách mạng lâu dài bền bỉ..”
Chân dung người lính Cộng sản được vẽ ra toàn thiện toàn mỹ với đầy
những nét hy sinh cang cường mưu trí và nhất là trung thành vô hạn
với chế độ với lãnh tụ. Cả đến khi gần với cái chết cũng không sợ
hãi và dù trước những cám dỗ vật chất cũng không chuyển lòng. Những
mô tả khác với ấn định ấy, dù có nét chân thực của tự nhiên con
người cũng bị phê phán, cấm đoán. Những tiểu thuyết như “Cái Gốc“
của Nguyễn Thanh Long, truyện ngắn “Một đêm đợi tàu” của Đỗ Phú,
hay tùy bút “Tình rừng” của Nguyễn Tuân , … đã bị kết tội “xu hướng
lấy cái tầm thường yếu đuối của mình mà gán cho nhân vật theo kiểu
lấy bụng ta suy ra bụng người” Hay những bài thơ “Vòng Trắng“ của
Phạm Tiến Duật, như “Tâm sự với Thúy Kiều“ của Lý Phương Liên, hay
những bài thơ của Dư Thị Hoàn,.. cũng bị phê phán, là dao động, ủy
mị có những suy nghĩ tiêu cực đi ngược lại chính sách của Đảng.
Trần Đình Sử trong bài “Con người trong văn học Việt Nam sau 1945”
viết :
“Điều quan trọng ở đây là quan niệm về con người bất khả xâm phạm
bất khả chiến thắng luôn luôn lạc quan yêu đời nó là lõi cốt cho
nhiều sáng tác thể hiện tìm tòi.
Con người văn học chống Mỹ xa lạ với những nét đau thương mềm yếu,
những đôi mắt trống không buồn thảm. Tính chất tuyên truyền cổ võ
không thiếu trong những gương mặt này. Nhưng đó là những gương mặt
rất thật. Bởi đó là gương mặt của người chiến đấu và quyết thắng.
Một nhân vật của Nguyễn Khải (Đường Trong Mây) suy nghĩ : nhắc nhở
những chuyện buồn nào có ích lợi gì cho ai. Có thể sau này sẽ nhắc
lại nhưng là sau này khi chiến tranh đã kết thúc. Còn bây giờ điều
cốt yếu là phải biết chịu đựng một cách gan góc những mất mát đã có,
có thể còn sẽ có, cho tới ngày giành được thắng lợi hoàn toàn “Đó
cũng là suy nghĩ chung của con người đương thời..”
Vì cái suy nghĩ chung ấy mà những nhân vật của tiểu thuyết miền Bắc
và tiểu thuyết trong nước hiện giờ bị đóng khung cứng nhắc trong
những khuôn khổ ấn định nên nhiều khi là những hình nộm để phục vụ
cho mục tiêu tuyên truyền và đánh bóng chế độ. Như vậy làm sao
lột tả được những phức tạp của cuộc sống. Cũng như làm sao để có thể
có những mẫu nhân vật đầy chất nhân bản và có suy tư cũng như hành
động hợp với lẽ tự nhiên không gượng gạ cứng nhắc và giả tạo.
Trong hai mươi năm văn học miền Nam hay ở văn chương Việt Nam hải
ngoại, chân dung người lính được nhìn ngắm từ nhiều góc độ. Không có
một khuôn khổ nào được ấn định cho những chân dung người lính ấy. Và
không phải lúc nào cũng là những lời lẽ cổ võ chiến tranh. Cái tâm
tư không muốn tham dự cuộc chiến nhưng vẫn phải vào cuộc hay sự suy
nghĩ của những người tình nguyện đi vào binh nghiệp, có khi tưởng
như tương phản nhau nhưng lại là phản ánh trung thực của cả một thế
hệ tuổi trẻ lớn lên trong thời kỳ chiến tranh.
Trong khung cảnh của một đất nước chiến tranh, mùa xuân vẫn là một
dịp để nhớ nhung, hay một dịp để nhìn vào tương lai sắp tới với
những hy vọng. Ngày đầu năm ở quân trường, ngày tân xuân ở chiến
trường, những nhà văn, nhà thơ mang áo lính đã sống trong không khí
đặc biệt, trôn lẫn buồn vui, chán chường, hy vọng, thương đời và
thương mình. Trong những tác phẩm viết về chiến tranh ấy, nhân ngày
đầu xuân, chúng ta thử đi vào những không gian riêng, thời gian
riêng của những người lính. Mặc dù, chế độ Cộng sản đương thời muốn
xóa nhòa đi hình ảnh nền văn học ấy nhưng xem ra ý định ấy đã thất
bại. Chẳng có chế độ nào thành công trong việc phần thư khánh nho,
cho dù là chế độ Tần Thủy Hoàng ngày xưa đến Cộng sản Việt Nam bây
giờ…
Phan Nhật Nam, người lính Nhảy Dù, một nhà văn mà bị Tô Hoài trong
cái bỉ thử nhưng vẫn pha sự thán phục cho là “người viết tác phẩm
của mình bằng máu nhưng là loại máu cặn bã của chế độ thực dân mới“.
Chính thái độ phi văn nghệ khi chửi bới các nhà văn khác chính kiến
như Doãn Quốc Sỹ, như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, như Phan Nhât Nam,… đã
làm cho tác giả của Trăng Thề, của O chuột bị người đọc ác cảm và hạ
thấp đi nhiều giá trị của mình.
Trong “Dấu Binh lửa“ Phan Nhật Nam cũng đã trải qua nhiều cái Tết.
Cũng có những cái tết hạnh phúc :
“Tối giao thừa vừa qua là một giao thừa hạnh phúc nhất của thời gian
dài mười năm trong tuổi lớn.. Những giao thừa năm xưa, đêm khuya gió
lạnh trên đỉnh Hải Vân.. mây phủ kín lưng đèo và tôi co quắp trong
một khoang xe vận tải dơ dáy chết máy nằm cạnh sườn núi với cô đơn
của một kẻ không nhà. Bảy giao thừa qua chém trong tôi những nhát
dao để gây nhức
nhối để suốt đời nhớ mãi như một vết chàm khắc lịm vào xương. Nhưng
giao thừa vừa rồi thật đầy đủ, bạn bè, em gái tôi và tình yêu của
một cô gái nhỏ, bánh mứt, tiếng cười giọng nói vang đầy căn phòng
trọ. Cám ơn tất cả. Tôi đi đây, bỏ lại năm ngày ứng chiến Sài Gòn.
Tôi mang theo hết cả niềm vui của một đêm giao thừa hạnh phúc theo
suốt mùa xuân…”
Nhưng, tiếp theo không phải là thiên đường như vậy. Chiến trường
ngày đầu xuân ác liệt, và gian khổ :
“… Đêm mùa khô trời đầy sao, sau khi có mấy muỗng cơm nóng với ngụm
nước nhỏ tôi tỉnh người đốt điếu thuốc gối đầu vào nón sắt ghé tai
vào máy truyền tin xem chừng các toán phục kích… bên phía hai tiểu
đoàn bạn trận đánh mỗi lúc một ác liệt chưa bao giờ tôi thấy gunship
đánh trận đêm nhiều đến như thế
Quân rút ra đi như một lũ ma đói hai ngày hai đêm thiếu nước và mất
ngủ mọi người phờ phạc trông thấy. Trung đôi tôi đáng lẽ dẫn đầu trở
ra lại phải đi chót Tiểu Đoàn. Đại đội 73 đi đầu. Trung đội của Toàn
vừa đi được hai mươi thước đạp một trái lựu đạn, hai chết hai bị
thương.. Mấy thằng lính của Trung đội tôi cười như mếu. May quá,
mình đi đầu là chết rồi ! Tôi cũng nhủ thầm mình có số mạng…
Người trước đi, tôi đi theo chẳng cần đội hình ý tứ gì nữa, hai ngày
vừa qua có được bốn muỗng cơm, người tôi không còn một sức
lực nào nữa.. Tôi dặn lính. Tụi mày cứ đi theo Trung đội trước mà
đi, sát vào nhau đừng để lạc. Đầu gục xuống súng vác trên vai tôi
thở không những bằng mũi mà cả bằng chiếc mồm há ra thật lớn, chiếc
lưỡi căng phồng nhức nhối và đôi môi khô không còn chút cảm giác
nữa. Tro rừng, đất bụi bám đầy mặt mũi bay đầy vào mồm, không còn tí
nước bọt nào để nhổ ra, tôi đưa tay vào mồm chà trên lưỡi từng tảng
tro đen. Quốc lộ 15 đây rồi, có thửa ruộng nhỏ bên đường tôi úp
chiếc mặt vào giòng nước đục ngầu phủ một lớp bùn non…Uống! Uống!
Như loài thú hoang trên sa mạc. Ngày hôm nay mới mồng tám Tết..”
Mùa xuân, với Phan Nhật Nam thường đánh dấu bằng những chuỗi binh
lửa. Tết Mậu Thân ở Huế, những ngày trời đất sạm màu bom đạn, những
ngày xuân mà bạn bè rơi rụng, mà cuộc sống và nỗi chết chỉ là một
ranh giới của cái bước lỡ chân :
“… Chúng tôi trở lại Huế bằng máy bay trực thăng trong ngày mùng năm
tết Mậu Thân. Trời thật lạnh, mưa phùn, u ám thê lương bao phủ thành
phố. Máy bay nghiêng nghiêng trên đà xuống, hạ thấp dần, khu doanh
trại Bộ Chỉ Huy SĐ1BB. Chúng tôi ùn ùn kéo ra khỏi phi cơ.. Sau ba
ngày đánh nhau ở Quảng Trị, với số mất mát khá lớn mặc dù chúng tôi
đã được cả một đống vũ khí chất đầy một GMC. Mới đây giao thừa chúng
tôi còn gọi nhau trong máy truyền tin để chúc tụng những lời đầu
xuân, rồi ngày mùng hai, tôi nhớ rõ, bốn giờ sáng, từ đó là khởi đầu
máu chảy.. Vừa hay tin Thừa chết, đến Lộc, đến Hổ, bạn quen lâu, mới
quen, thương mến thật nhiều, tất cả ra đi, từng loạt từng loạt..
Trong những ngày đầu năm, trong những ngày đầy sương muối và mưa
phùn, chúng tôi đã chiến đấu trong đơn độc và tuyệt vọng. Lính Mỹ án
binh bất động nằm chờ thời. Không phi cơ không pháo binh, chúng tôi
đến Huế với vô cùng mỏi mệt.
Kiểm điểm lại quân số, tấn công và chiếm lại Huế, mục tiêu là mấy
cổng thành. Ngày đầu quân tiến thật nhanh tràn qua Tây Lộc, xong
tiếp đến cửa Chánh Tây, giao lại cho Bộ Binh. Tối đến, cổng thành
lại mất.. Chúng tôi bắt đầu chiếm lại và từ lúc này cam go bất hạnh
lại xảy đến ác liệt. Phi cơ bắt đầu can thiệp, pháo binh có mặt và
địch cũng tăng cường nhất định cố thủ. Chúng tôi tiến lên từng
đường từng ngõ từng nhà. Thành nội Huế với đường xá vuông vức như
bàn cờ, tiến quân như đi trên cái chết, qua được một đường, tiếp tục
bắn che chở cho khinh binh, Khinh binh chạy thật nhanh, nhanh hơn
nữa, nhanh để đua với tử thần, nhanh để sống, để thở, để cười, để
còn về lại Sài Gòn…”
Mùa xuân với người lính quả không phải là một dịp để nghỉ ngơi.
Nguyên Vũ, một sĩ quan đề lô pháo binh đã tả cảnh “Nghênh xuân chiến
địa”:
“Tết Ấtt Tỵ trở về bất chợt và ngỡ ngàng. Buổi chiều ngày 28 tết
tôi đã định nhảy dù về Sài Gòn. Nhưng sợ hành quân bất tử, chui vào
chiếu bạc, cháy túi.
Buồn nào bằng buồn thua bạc. Những ngày cuối năm đói rách khiến tôi
nằm liệt trong phòng. Lần đầu tiên từ nhiều tháng nay, hình ảnh cha
mẹ già và ba cô em gái chợt hiện về trong võ vàng tiếc nhớ. Nhìn
thiên hạ chuẩn bị nghênh xuân, tôi không khỏi bùi ngùi rưng rưngb lệ
tủi. Hơn ba trăm cây số ngăn cách rồi lần đầu tiên suốt 22 năm qua
tôi sống một cái tết xa gia đình.. Tôi nhớ đến những vò rượu cẩm,
những tấm bánh chưng béo ngậy của mẹ. Nhà có hai anh em trai, anh
tôi mới lập gia đình và vừa nhập ngũ được ít lâu. Còn tôi lưu lạc
phương này.. Tháng tháng không một đồng bạc gửi về cho mấy cô em gái
ăn quà không mua được một món quà nhỏ mọn biếu thày mẹ… Về phép thì
chỉ hàn huyên được vài câu, tôi đã lao đầu vào đường phố chạy đuổi
theo những đam mê nhất thời. Hôm nào về phép thầy bảo:
- Nghe nói dưới đó đánh lớn nhiều quá.. Anh liệu giữ mình đó. Các
anh đã lớn rồi thày mẹ biết làm gì hơn cho các anh đây…
Mẹ thì nhìn bộ đồ lính của tôi với ánh mắt thở dài. Vẻ hung hăng của
tôi khiến mẹ buồn phiền không ít. Nhưng, tôi.. một người lính 22
tuổi. Giai đoạn hăng say nồng nhiệt nhất của một kiếp người…
Thương nhớ đưa tôi vào quán rượu. Những ly rượu đế sủi bọt nồng cháy
cuống phổi. Nhưng thấm lạnh tận trong hồn. Mắt tôi mở lớn nhìn ra
khung trời khô lạnh- thứ khô lạnh của chiều cuối năm miền Bắc. Mà
không thấy gì.
Khi Hải vừa bước vào quán, ngồi xuống cái ghế đối diện một binh sĩ
bước vào, Hắn bảo tôi có lệnh đi hành quân. Sang trình diện đại úy
Kiệt gấp. Chiếc xe jeep trực ho hen đưa tôi vào sân trại sình lầy
của Đại Đội Thám Báo. Kiệt ép tôi uống huýt–ky trước khi thả về với
lời dặn” Nhớ nghe. Mình zoulou vào 12 giờ khuya đó”
Tôi trở về trại, không để ngủ mà để tiếp tục uống rượu. Nghĩ tới
những thằng còn sống…
Nửa đêm hôm đó 4 chiếc GMC đưa chúng tôi ngược đường từ Bạc Liêu về
Nhu Gia. Nửa đường, đoàn xe ném chúng tôi xuống để nhào tới đột kích
xóm Béc Hen.
Băng ruộng băng kinh trong đêm tối giá lạnh. Mò mẫm giữa những lung
dừa nước rậm rạp hàng giờ. Ba giờ sáng chúng tôi mới tới mục tiêu và
âm thầm xiết chặt vòng vây. Năm giờ, trời vừa rạng sáng dù sương mù
còn dày đặc chúng tôi ào ạt tràn vào xóm. Chỉ bắt được hai tên du
kích và liên lạc bậy bạ. Báo hại dân chúng xanh máu mặt. Và chắc họ
rủa thầm chúng tôi không ít. Mới sáng sớm mồng một Tết đã có lính
tráng xông nhà. Rủi hay may đây? Thế nhưng thời buổi này người nông
dân Việt Nam làm gì có một chút quyền lực nào dù nhiệm vụ họ rất
nặng nề. Nhiệm vụ phải “đóng góp” cho MTGPMN, nhiệm vụ bị thủ tiêu
bởi những viên Công an xã ấp hay du kích. Nhiệm cụ khóc cười sao cho
hay và ròn rã nếu không may có một trận đánh khai diễn ngay trong
xóm.
Dù sao ngoài mặt họ cũng niềm nở pha trà mang mứt mời chúng tôi.
Chủ và khách bất đắc dĩ cười nói chúc mứng năm mới tài lộc đắc
phúc. Gần trăm mạng Thám Báo chúng tôi chia ra chúc Tết mọi gia đình
của cái xóm nhỏ nghèo nàn này… Khi những vệt nắng đầu năm vàng ối đã
kết hoa trên vòm lá của những thân sao, trâm bầu và dừa nước chúng
tôi từ giã xóm Béc Hen, hướng về phía Tây, để lại sau lưng nắng ấm
mùa xuân và những người nông dân ”thân lươn bao quản lấm đầu”
Suốt ngày mùng một Tết hôm đó, chúng tôi lội bộ hơn ba mươi cây số.
Tới đâu cũng được uống nước trà ăn bánh tét dưa hấu mứt kẹo. Cài đại
đội được mệnh danh là “hung thần của Việt Cộng” bỗng dưng biến thành
một đoàn người đi chúc tết dân chúng. Chỉ có những tiếng chào hỏi
cười nói thuần phác ròn rã thay cho tiếng súng đã từ lâu biến thành
một biểu hiệu một thứ tiếng nói của những người mặc đồ lính khi bước
vào trận địa.
Khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi được lệnh dừng quân tại một xóm nhỏ
khác, cách quận lỵ Hòa Bình hơn ba cây số. Bốn năm binh sĩ Thám Báo
đã kiếm tiền mua rượu mua đồ nhậu cho buổi tối.
Tôi và Kiệt vừa gột rửa quần áo xong và tiếc hùi hụi cho bữa tiệc
buổi tối ở Bạc Liêu thì được lệnh cho về Bạc liêu. Cơm nước đang nấu
bị vứt bỏ không chút nuối tiếc. Và vừa cười vừa reo vắt chân lên cổ
lội ra Hòa Bình
Trời vừa tắt nắng chúng tôi đã ngồi tề chỉnh trên GMC ngoài mặt lộ.
Nhưng mấy chú cua sắt dở chứng đứt xích giữa đồng. Chúng tôi hậm hực
chờ đợi và chửi thề. 9 giờ đoàn xe mới về tới Bạc Liêu. Thành phố đi
ngủ từ lâu và ảm đạm như mộ địa.
Bữa cơm tối Hải mời tôi phải 12 giờ đêm mới khởi sự. Đêm ấy tôi say
như chết. Hình như tôi cười, khóc trong giấc mơ…”
Đời sống người lính như thế nên Nguyên Vũ đã thổ lộ tâm sự của mình
khi viết về mình và những người bạn mình:
“.. Tôi không phải là một thứ lính đẻ bọc điều. Tôi cũng không phải
là người chỉ có thể sống với binh ngũ. Nhưng tại sao tôi hay viết về
đời lính, thích tạo dựng lại những thiên anh hùng ca của đoàn người
đi trong đêm tối ảm đạm của quê hương.
Nhiều người đã hỏi tôi như thế đó. Tôi không trả lời. Thảng hoặc với
những bạn thân tôi giải thích một cách sơ lược. Hình như tôi nói về
“sự hào hùng của một kẻ cầm súng“ Đó là nguyên lực chính đã gợi hứng
thú cho tôi.
Tôi tin rằng anh thông cảm và hiểu tôi nhất. Tôi là một hạng người
suốt đời bất mãn, một kẻ vô luân và bất thường nữa, như lời kết tội
của một vài cấp chỉ huy của tôi. Có thể họ nói đúng. Vì có nhiều
lúc tôi thấy mình như điên khùng. Tôi thường phủ nhận xã hội này
cũng như sự xã hội hóa của nó. Nhưng tôi không tài nào phủ nhận được
sự hiện diện của tôi trong cái xã hội hóa đó. Điều ấy chính là niềm
đau sót của tôi. Cũng như đất nước mình. Cái đất nước đã chán chường
lửa đạn, chống đối chiến tranh mà chiến tranh vẫn hiện diện ở đó..”
Trần Hoài Thư, cũng đón giao thừa, Nhưng, là đêm giao thừa nằm giữ
đường làm an ninh cho các cuộc vui thâu đêm suốt sáng của các quan
to súng ngắn :
“Dẫn một đàn con chiều xuống núi
giao thừa không ai nhắc mà đau
giao thừa hai tiếng đâm tâm não
trừ tịch : poncho gạch lót đầu
một đêm sao lại buồn như mếu
muốn nổ tan tành cả cõi đêm
giao thừa giao thừa ta xuống núi
làm hiệp sĩ mù giữa cõi u minh
giao thừa ai đó mời ta rượu
một nhấp mà hồn tê tái ư
anh bạn nghe gì không, tiếng nhạc
người ta đang nhảy đầm
dạ vũ mừng xuân
Giao thừa mừng tuổi con heo bịnh
Xin của nhà dân làm cỗ xuân
Trung đội lập bàn thờ giữa mả
Ta khấn âm hồn
Bảo bọc đàn con…”
Những người lính trận đón xuân đón tết trong cái hờ hững của một
cuộc trường hành mỏi mệt. Trong truyện ngắn “Đỉnh xuân buồn“ , Trần
Hoài Thư đã bộc lộ cái tâm trạng của những người lính tuy hăng say
chiến đấu nhưng vẫn mường tượng thấy được cái bạc bẽo của những
người chịu nhiều hy sinh mà chẳng được đền đáp. Cuối năm, người buồn
nên cảnh cũng không vui :
“..Buổi chiều cuối năm, gió lạnh hơn mọi khi. Gió hú lồng lộng cả
đỉnh đồi. Bầu trời vẫn mang nét u ám của một mùa rét mướt. Đám lính
chạy xuống dốc đồi, không cười không nói như mọi khi. Họ chạy tự do
dù chân họ cố kềm giữ lại. Đáng lẽ vào lúc này, ngọn đồi phải vang
động tiếng cười la, đùa cợt của họ, chẳng khác những đứa trẻ vô tư
lự. Nhưng chiều nay, không ai nói với ai. Trên đôi mắt của mỗi đứa
con của chiến trường in một màu buồn xám như vách núi...”
Dẫn quân đi kích để làm an ninh cho thành phố có lẽ là một công việc
nhàn nhã nhất của những người lính Thám Kích. Thế mà, sao trong tâm
tư mỗi người lúc cuối năm sao có nỗi niềm bứt rứt. Năm hết tết đến,
là lúc nhìn vào quá khứ và ngóng đến tương lai mà sao nghe dằng dặc
những chuỗi ngày, những chặng trường hành của chém giết, của giây
phút tranh sống bằng cách bóp cò súng. Tâm tư rối bời, buồn nản cần
những ngụm rượu để say:
“...Đợi cho đám lính lao vào đêm tối, Hạo mới vào căn nhà của đôi vợ
chồng già. Tổ chỉ huy trung đội đóng trên thềm nhà gạch. Những người
lính trong tổ đang sửa soạn chỗ ngủ. Còn chàng, chàng vẫn ngồi yên.
Bên trong nhà, đôi vợ chồng già đang sửa soạn bàn thờ. Ánh đèn dầu
hỏa leo lét, soi một phần nào mái tóc bạc như sương của hai người.
Bà lão đang lui cui sắp đặt những thức ăn trên chiếc bàn nhỏ. Những
đĩa sôi, những chén chè, một nải chuối, những trái mãng cầu. Ông già
đang ngồi trên ghế vấn điếu thuốc. Tiếng dạ trùng bên ngoài đã bắt
đầu kêu, làm đêm càng buồn bã thêm. Nhìn bà lão lui cui một mình, tự
nhiên chàng muốn ứa nước mắt. Chắc giờ này con cháu của ông bà đã ở
xa cũng đi nằm đường hay kích gác như bọn chàng. Hay cũng có thể
những đứa con trai ấy đã nằm dưới lòng đất. Chàng cũng có một người
cha già nua như thế. Chàng cũng có một người yêu cũng côi cút như
thế. Chàng không dám nhớ. Nhưng tại sao chàng phải nhớ. Còn những
người lính kia nữa. Chúng bắt chàng phải sa nước mắt. Cứ chửi thề. Cứ
than thở. Rồi sau đó, cuối cùng là rủ nhau lao vào cõi chết. Để cho
thiên hạ được sống. Để cho đêm nào cũng những giọng hão huyền tri ân
chiến sĩ, anh là chiến sĩ của lòng em đến nôn mửa.. Giờ này, những
dinh thự quan tướng được quân binh phòng vệ để tha hồ cửa miệng đầu
môi. Tiếng máy truyền tin kêu lên một âm điệu bất tận. Ông trung đội
phó vẫn ngồi yên đốt thuốc. Bỗng nhiên chàng ước kêu cả trung đội về
ngồi trên sàn gạch này, để cùng chuyền nhau cốc rượu. Để nói với
nhau những lời chúc tụng. Để nhắc lại nhau những người ở lại và
những kẻ đã ra đi. Đêm hưu chiến mà. Đêm giao thừa mà. Đêm linh
thiêng mà. Phải xiết chặt tay từng thằng, mừng thêm một năm thoát
chết, thoát bị đạp mìn, thoát bị bắn tỉa, thoát bị phục kích, thoát
bị pháo kích, thoát biển người, thoát chốt thoát xe.. Nhưng chàng
không dám làm sao chàng có thể biết được trong bóng tối này, đàn
chuột đang làm gì?
Tiếng của người lính mang gạo nói thầm bên tai Hạo : Giao thừa rồi,
thiếu úy. Chàng ngồi bật dậy hỏi lại giao thừa rồi sao? Tròn đáp
khẽ: dạ. Chàng bỗng dưng xúc động quá chừng. Thời gian như ngừng
lại. Trong cõi đêm, tứ phía đạn bắn lên, trái sáng cũng được thụt
lên. Rõ ràng, niềm vui mừng đã lấ áp cả lệnh lạc. Rõ ràng, hạnh phúc
quá đỗi, chỉ một đêm chẳng cần biết đêm ở địa ngục hay ở trên thiên
đàng. Tự nhiên chàng chụp lấy trái sáng xanh và thụt lên trời đêm.
Ánh sánhg xanh lóe lên, sáng lóa cả một vùng. Sau đó chàng thụt trái
sáng tím.. Và vàng. Chàng la lên cuồng nhiệt: Anh em ơi giao thừa
rồi. Ngồi dậy chúc mừng nhau đi anh em ơi.
Chàng lại ngửng mặt để hứng cả màu ánh sáng tím đang chói lòa cả
vùng: Tường Vi ơi, màu áo của em. Anh đang hứng cả màu áo của em
đây.
Đám lính từ bốn phía úa ra nhảy nhót tưng bừng…”
Một truyện ngắn khác “Bệnh Xá Cuối Năm“, một không khí khác, một tâm
tư khác. Trong bài giời thiệu của nhà văn Mai Thảo đăng trên tạp chí
Văn cách nay hơn ba chục năm đã giới thiệu truyện ngắn này như một
góc cạnh của người lính VNCH:
“.. Truyện ngắn “Bệnh xá cuối năm“ sau đây của anh là một minh
chứng. Khung cảnh và không khí của một bệnh xá trong những ngày cuối
năm là nơi người lính trẻ bị thương trong đoản thiên Trần Hoài Thư
khôi phục lại được con người, cá nhân mình. Người lính trẻ ở đây thể
xác còn hư nhược tâm hồn còn dao động tư tưởng còn hoài nghi. Nhưng
không hề gì. Chiều hướng sống của nhân vật trong sáng tác vẫn là từ
một trạng thái mê thiếp bàng hoàng đang dần dần hồi tỉnh. Vẫn là cái
chết đã qua, đời sống gặp lại. Và thấy. Và nhìn. Dẫu bằng một tròng
mắt mỏi, từ một xe lăn, từ một bàn mổ, từ một giường bệnh. Người đọc
có thể chê trách người lính bệnh của Trần Hoài Thư trong Bệnh Xá
Cuối Năm đã đề cập tới những chủ đề lớn như chấm dứt chiến tranh,
thống nhất đất nước, đoàn viên và thương yêu hai miền, bằng một tâm
hồn quá đơn giản, thơ ngây. Người lính của chúng ta hiền quá. Hiền
thật. Làm thế nào được. Dân tộc ta hiền, mãi mãi hiền, mặc dầu đã
hai mươi năm lâm trận. Cái tính hiền đó được biểu hiện cùng khắp
trong những truyện ngắn về tiền đồn, về mặt trận của Trần Hoài Thư
mà Bệnh Xá Cuối Năm là một..”
Đúng như lời giới thiệu, Trần Hoài Thư đã mang những suy tư của mình
về chiến tranh, về những người tù binh cũng được săn sóc giống như
bệnh binh, về ước mơ hòa bình, về những giờ hưu chiến... và, truyện
mở đầu với vẻ tươi sáng dù của một nơi u ám :
“Những ngày cuối năm, người ta bắt đầu sửa sang lại bệnh xá. Đám
lính đã thay phiên quét vôi mới trên các bức tường loang lổ cũ kỹ
của trại. Họ lau chùi các ô cửa sổ, quét dọn con đường, sân trại và
đốn ngã một gốc cổ thụ lớn bên cạnh nhà vĩnh biệt. Một vẻ gì mới mẻ
và tươi mát đã trở về trên những mái ngói của khu điều trị sĩ quan,
trại nội thương số hai hoặc những mái tôn của trại binh sĩ. Trong
thinh không, nắng mới mang theo hơi ấm. Bầu trời thật xanh và mây
trắng là đà rất thấp dễ chừng chạm vào đỉnh những cây cổ thụ đầy
bóng lá…”
Và hình như bệnh viện cũng ít bệnh binh. Có lẽ, vì cường độ chiến
tranh giảm ? hay vì hòa bình sắp tới ? Và những bệnh binh ấy, có lẽ
ít đau đớn vì thương tật của mình hơn? Có những người tù binh, đã từ
chối được trả về miền Bắc vì biết sẽ phải chịu nhiều thua thiệt và
xin được ở lại miền Nam. Chính điều ấy đã làm nhân vật xưng tôi suy
nghĩ. Làm sao người ta có thể từ bỏ nơi chốn đã sinh ra đời của
mình. Và, đoạn kết :
“một ngày cuối năm về trên bệnh xá, Một ngày buồn ghê gớm cho những
kẻ không thân nhân thăm viếng. Tôi đang ngồi trên một thân cây đổ.
Hoàng hôn về đem theo hơi lạnh đến sớm. Những con chim mùa xuân đang
bay vờn trên bãi cỏ. Gió rì rào trên khóm lá xoan. Lũ bạn vẫn ngồi
bất động. Đằng sau tôi là trại tù binh. Tên tù binh đang đứng nhìn
ra hàng rào. Sau hàng rào, cạnh con đường nhựa âm u vì cây và lá
quá rậm, là nhà xác. Có tiếng khóc nức nở của một người đàn bà. Một
người thương binh xanh xao đang chống gậy bước đi trên con đường đất
đỏ chạy ra cổng trại. Hắn đang cầm một bó hoa huệ để cắm trên bàn
thờ. Một người thương binh người
Thượng đang kéo ống quần xanh lên mân mê vết sẹo. Còn tôi, tôi đang
mơ đến một nơi trở về, khi ngưng tiếng súng..”
Phan Lạc Tiếp, một nhà văn quân đội nhưng chất đôn hậu lại nhiều
hơn chất lính trong văn chương. Trong bút ký Bờ Sông Lá Mục, ông
ghi chép lại hành trình của một sĩ quan Hải quân lênh đênh trên sóng
nước. “Giao Thừa Trên Đảo” là những dòng ghi lại sinh hoạt của
những người lính biển cuối năm ở một hải đảo cô tịch hầu như biệt
lập với sinh hoạt bên ngoài. Giao thừa, tập họp trong hàng quân,
mỗi người mỗi nặng nề tâm sự.
“… Tiếng còi tập họp nổi lên. Tôi vẫn đứng yên. Sau tôi những bước
chân vội vã. Những tiếng động quen thuộc lúc sắp vào đêm. Gió hình
như vừa nổi lên và lạnh hơn. Tôi quay vào. Viên trung sĩ dõng dạc hô
“nghiêm”. Tôi giơ tay chào và ra đứng trước hàng quân. Tôi ngửa mặt
nhìn lên. Những tàn cây che phủ. Bước mấy bước chậm rồi tôi ngừng
lại.
- Hôm nay ba mươi tết phỉa không các anh? Hàng quân như xao động.
Tôi tiếp “Bây giờ là bảy giờ tối ba mươi tế“ Tôi vừa bước những bước
ngắn và nói. ”Tối ba mươi tết. Chúng ta ở ngoài hòn đảo này. Quanh
chúng ta chỉ có rừng cây, ghềnh đá và biển…
.. Tôi trở về lều. Cửa sổ mở nhìn ra ngoài khơi. Biển vẫn phẳng lặng
không một ánh đèn. Tôi thấy xót xa trong lòng. Nếu tàu không tới thì
buồn biết mấy. Tiếng hát từ chiếc loa ngoài kia đều đều vọng tới.
Giọng hát Thái Thanh nức nở thiết tha. Tôi khêu to ngọn đèn lên.
Chiếc kiếm gác trên vách lá. Di vật của người đội trưởng trước tôi
để lại., hồi ông ta nổi điên được đưa về Sài Gòn điều rị. Vội vã
quên nên không mang theo. Chiếc kiếm với đầy đủ ngù quàng nơi đốc
kiếm. Tôi lấy xuống, rút ra. Lưỡi đã có vài vết han rỉ. Tôi tra vào
bao và dựa xuống sau đầu ghế vải thầm hỏi không biết hồi này bịnh
tình đã khá chưa. Người con trai thời loạn chẳng lẽ chóng hoen rỉ
như lưỡi kiếm này, như chủ nó sao? Tôi cũng không biết tôi sẽ còn
phải trấn giữ hòn đảo này trong bao lâu nữa. Rồi ra tôi sẽ phát điên
không? Ai sẽ tới thay tôi và sau đó ai sẽ tới nữa. Những buổi chiều
bóng núi đổ dài ra ngoài khơi. Khí núi xông lên lạnh và buồn. Những
anh tuần viên xúm nhau ngồi trên khúc cây khô ca vọng cổ. Rồi đêm
xuống dõi mắt ra khơi tìm những bóng đèn câu lạc loài từ đất mẹ.
Khi tiếng những con cắc kè cất lên như những tiếng nghiến răng thì
phần lớn mọi người đã say ngủ. Nhưng cũng từ phút đó nhiều kẻ còn
ngồi ngoài ghềnh đá dương mắt nhìn về phía xa mà hai mắt đỏ nhừ.
Cũng có khi giữa bầu không khí tĩnh mịch hoang vu đó nổi lên những
cuộc xua đuổi đánh đấm nhau. Nguyên nhân chỉ vì tâm sự quá dài nói
quẩn nói quanh trêu nhau cho hai bên cùng tức. Hay có khi vì nghi
ngờ bạn bè rình mò vợ con khi mình đi gác. Những ngày tháng dài ở
đây chỉ là chờ đợi. Chờ đợi đêm mau hết chờ đợi bóng nắng lên để
vào rừng kiếm chim, kiếm củi, chờ đợi những chuyến ghe bầu ra tiếp
tế. Nhưng sự chờ đợi náo nức nhất sau khi đã khuân vác thực phẩm lên
bờ, là đợi người đội trưởng khui cái túi vải ra đọc giữa hàng quân
xem ai được đổi về đất, ai sẽ ra thay, ai được lên chức và ai có
thư nhà. Ai nấy đều náo nức bấu víu lấy mối dây liên lạc với đất
liền nhưng niềm náo nức đó cũng mau tàn. Bởi rất ít có gì thay đổi.
Và ngóng trông nhiều chỉ để rồi sẽ buồn thêm. Người này buồn vì đã
ở đây quá lâu mà sao chưa được về đất. Người kia buồn vì sao chuyến
này không nhận được thư thằng em, người thân duy nhất còn lại trên
đời. Người kia nữa lại buồn vì nhận được thư bạn cho biết cô nhân
tình cũ ở miệt Năm Căn đã bỏ lên tỉnh làm ăn, mịt mù bóng chim tăm
cá…
Tôi rùng mình thật mạnh như muốn xua đuổi những hình ảnh u buồn ngày
cũ. Tôi đứng lên tính đi rửa mặt cho tỉnh táo để còn đi thăm mấy gia
đình trong trại. Nhưng vừa bước ra sân đã thấy lố nhố một đám đông
quần áo chỉnh tề. Tôi hiểu ngay ý định của họ nên vội vàng sốc gọn
lại quần áo. Dẫn đầu là ông Tư-thuốc–mê. Không hiểu ông đã moi được
ở đâu một cái áo vét–tông nhầu nát và sực mùi ẩm mốc. Mọi người khác
cũng đều mặc thường phục. ông Tư đằng hắng rồi lên tiếng “Năm mới
chúng tôi tới mừng tuổi đội trưởng và cầu chúc đội trưởng thăng
quan tiến chức.“ Tôi chắp tay đáp lễ và chúc mọi người sang năm mới
ai nấy đều được vạn sự như ý. Tôi còn đang ngập ngừng lựa lời nói
tiếp thì một người bật nói “Và sớm được về đất” Mọi người đều cười
vang.
Khi mọi người kéo nhau vào, kẻ ngồi người đứng quanh chiếc bàn nhỏ
thì tôi chợt nhận ra một ánh sáng long lanh qua kẽ lá ngoài cửa sổ
mọi người cùng nhìn theo tôi và bật reo mừng ồn ào. Hai chấm xanh
đỏ. Đúng là đèn hải hành của con tàu sắp tới. Chúng tôi cùng chạy ùa
ra ngoài bãi cát. Triền cát mát lạnh dưới chân, cái mát lạnh cảm
thấy được qua đế giầy da và làn bí tất đen dầy. Con tàu mỗi lúc lại
tiến lại gần. Mọi người bàn tán xôn xao. Phía sau chúng tôi ngọn lửa
vẫn âm ỉ cháy. Tôi quay lại nói lớn:
Đốt lửa lên, cao nữa lên, anh em!”
Thân phận ngươì lính biển ở một nơi chốn u tịch xa xôi chỉ toàn chờ
với đợi. Có người đã phát điên như người đội trưởng cũ. Và thế giới
ở đất liền hấp dẫn biết bao. Thiếu thốn vật chất có thể chịu đựng
nhưng cái dầy vò tinh thần mới là ghê gớm...
Đào Quang Vinh, một phi công tại phi trường Tân Sơn Nhứt thì lại
đón xuân cách khác. Đón xuân trên không gian bao la :
“.. Ngày hết tết đến, một năm qua thật mau trong khung cảnh tươi mát
của mùa xuân mới, lòng người có thư thái chút đỉnh nhưng vẫn chưa
quên được vết hằn hồi tết Mậu Thân, những hình ảnh tàn bạo do Cộng
quân tạo ra vẫn còn in hằn trong trí nhớ của người dân miền Nam hiền
hòa. Ngày Tết phi vụ trực được tăng cường. Huy ngồi tại văn phòng
nhìn dẫy điện thoại vẫn nằm yên một chỗ. Anh cũng chẳng mong có một
tiếng chuông nào reo lên lúc này giữa lúc mọi người đang sửa soạn
đón xuân. Vì nếu có, tiếng điện thoại ấy sẽ mở đầu cho một phi vụ
hành quân cất cánh vội. Rồi tiếng bom rơi, đạn nổ hoặc thả những
cánh hoa dù tiếp tế xuyên qua lưới đạn để đến với quân bạn trong mùa
xuân chinh chiến, đón xuân về trong chòi canh.
Huy ngồi đây với hai phi hành đoàn túc trực hành quân dưới quyền
anh. Họ chia từng nhóm nhỏ ngồi lác đác quanh phòng. Nhóm đánh
domino, nhóm chơi cờ tướng. Đằng xa hơn một chút tiếng lạch cạch của
những viên bi “billard” chạm vào nhau vang từng chập hòa với tiếng
quạt trần vi vu. Có một anh chàng phi công trẻ đang uốn éo thân hình
chạy theo đường bi lăn như cố điều khiển viên bi vừa được đẩy từ
chiếc cơ theo ý mình muốn. Những tiếng cười tiếng suýt soa tiếc rẻ
của những đường banh trật đường rầy. Đôi lúc bẽ bàng chấm dứt đường
bi bằng câu chửi thề cụt ngủn vô thưởng vô phạt. Trên quầy cao một
vài ly cà phê đá bỏ dở còn đọng hơi nước lạnh ngoài thành ly.
Hôm nay ngày trực cuối năm phi đoàn đã được tăng cường thêm một phi
hành đoàn nữa Nhân viên trực đông hơn vì thế bầu không khí ở đây
nhộn nhịp hơn đôi chút. Những tờ báo xuân các nơi gửi tới cảnh
trang hoàng tết đơn vị tuy đơn giản nhưng ấm áp.
Huy cũng thấy lòng mình rộn ràng với
tiếng cười đùa nổi lên từng chập. Ba mươi tết rồi ai cũng nôn nao.
Khu phố Bonard giờ này chắc đầy người đi lại. Hàng hoa, hàng bánh
mứt đang được bán tháo. Những người bận rôn cả tuần nay mới có dịp
để vội vàng mua những thứ cần thiết cho ba ngày xuân. Trai gái dắt
tay nhau dạo phố cười đùa vui vẻ lượn
lên lượn xuống đầy đường. Nếu huy không trực đêm nay anh đã cùng
Diễm nhập bọn. Tạm cởi bỏ quân phục với chiếc xe vespa Italy anh sẽ
lượn vài vòng thành phố. Chiếc khăn của huy mua tặng Diễm ngày nào
sẽ có dịp bay tung trong gió để đón nhận sự nhộn nhịp và cái không
khí của ngày Tết. Anh sẽ được sống thoải mái xa trách nhiệm tâm hồn
anh sẽ lắng xuống để quên đi những phút giây căng thẳng của những
lần xả thân vào vòng lửa đạn và những đường bay chiến thuật nguy
hiểm. Tạm quên những lần họp hành quân, những cuộc thảo luận chung
cho một cuộc tiến chiếm mục tiêu sao cho nhịp nhàng với đơn vị bạn.
Giờ phút Huy sống thật với lớp tuổi của anh. Anh sẽ có dịp nhìn
người chung quanh với nét nhìn của một người đang có mùa xuân tuy
không thịnh vượng nhưng an lành. Mặc dù anh biết đó chỉ là nét an
lành giả tạo của một vài ngày vui gượng gạo thanh bình mà thôi.
Ngoài kia nơi chiến trận không xa đây lắm tiếng súng có thể nổ bất
cứ lúc nào. Địch đang rình rập kiếm từng kẽ hở. Ngày trực của bọn
anh vì thế mà phải có. Yểm trợ cho quân bạn vẫn luôn luôn là ưu tiên
số một. Huy ngồi ở đây mà chợt nhớ đến các bạn cùng khóa bây giờ ở
rải rác khắp cùng đất nước. Nhất là những nơi hẻo lánh tiền đồn nhu
cầu vật chất giới hạn. Rồi đây kỷ niệm tuổi trẻ của họ chẳng có bao
nhiêu ngoài những hình ảnh súng đạn và chết chóc. Về già khi cởi bỏ
bộ quân phục bon chen với đời thật là thiệt thòi.. cả một đời hy
sinh cho lý tưởng liệu có được đền bù đúng mức không. Huy là một
người may mắn hơn trực bay hay đi bay một ngày, nghỉ bù hai ngày.
Những ngày nghỉ sống phóng khoáng với ích kỷ hưởng thụ cá nhân. Đi
làm lại, anh có cảm tưởng như là một ngày đi sám hối. Cái bàng bạc
của một con chiên tầm thường dựa vào những lần sám hối để thấy lòng
mình nhẹ nhàng trong sạch hơn..”
Viết “Cung thương ngày cũ”, Đào quang Vinh đã mang sự chân thành của
những người tuổi trẻ để nói lên những tâm tư nỗi niềm riêng của
mình. Đời sống ấy có nét hiện thực và vì thế bét sinh động càng rõ
nét. Ngày cuối năm trực, tuy vẫn nghĩ đến người yêu và phố phường
náo nhiệt nhưng vẫn phải làm tròn nhiệm vụ của mình. Dù rằng, trong
một liên tưởng nào đó, nghĩ đến bạn bè ở tiền tuyến xa vẫn là niềm
ái ngại và thấy mình may mắn hơn nhiều người khác. Dù rắng, chiến
tranh với cái chết không phải là không lởn vởn bên cạnh..
Nguyễn
Ý Thuần, trong “Ý Nghĩ mùa Xuân”, với cảm nghĩ của một người lính
tác chiến, đã bộc bạch chân thành ý nghĩ của một người lính trẻ,
trong chiến trường hêt sức khốc liệt của vùng Bắc Bình Định:
“...Cơn nắng chiều đã bớt gay gắt trên mặt đường nhựa. Không gian
của những ngày gần Tết tại vùng Bồng Sơn, Tam Quan diễn ra trên mặt
đường số 1 lồi lõm, đầy ổ gà và thép gai một nét bi thảm. Dân địa
phương nghèo nàn đến tội nghiệp. Ý niệm xuân và tết như nhòa nhạt,
không còn được nhắc đến nếu không có những người lính xa nhà nói
bằng nỗi nhớ. Đưa ông táo những người lính bầy trò cúng bái, dân địa
phương sực nhớ ngày hăm ba. Sắp đầu năm những người lính bận bịu với
thư từ với từng loại bánh mứt nhận được hoặc mua từ chợ Bồng Sơn,
Tam Quan, dân địa phương bùi ngùi dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị xuân.
Mỗi ngày thêm một lần nhắc nhau. Những người lính trong đơn vị trấn
đóng tưởng lại một cái Tết nào đó của gia đình. Cuối cùng là những
cơn say túy lúy. Đúng ra, chẳng cần Tết nhất, ngày thường, nếu không
bận hành quân hay trực gác thì cũng vậy, cũng những cơn say sau các
lần hành quân để quên thứ hình ảnh không đáng nhớ về cuộc chiến.
Nhưng gần tết, cái cớ gần Tết làm những can rượu trắng có ý nghĩa
hơn. Cũng thế, Hữu tham dự với anh em trong đại đội hết mình. Dù là
một cấp chỉ huy của họ, nhưng khoảng cách hầu như không có khi ngồi
uống rượu. Chỉ còn tâm trạng riêng tư là không giống nhau. Hữu bồi
hồi mỗi khi bắt gặp màu vàng của nắng quái. Mười lần như một anh đều
thấy mình trở về cơn nắng của vùng biển Nha Trang những ngày gần
Tết. Hữu như nhỏ lại anh nôn nức mỗi chiều trong cảm giác nao nao.
Biển và thành phố giờ này cũng đang nhuộm vàng nắng quái. Rồi tâm
trạng cô đơn ào đến, Hữu lại ngập đầu trong cơn say khi ngày vừa
hết..”
Nguyễn ý Thuần đã mang cái suy nghĩ chung của những người lính trẻ
xa nhà trong đêm cuối năm. Trong chuyện kể, những biến động xảy ra
hầu như liên tiếp, nhưng cũng là sự thường đối với
một đất nước chiến tranh. Ở đây khuôn mặt người lính rõ nét trong
cái hành trình của đoạn đường chiến binh, của những lựa chọn có lúc
bắt buộc có lúc tình cờ trong một lò luyện ngục để sẵn thử thách. Ở
chiến trường, có đôi khi, sự lãng quên cần thiết để hiện tại ít ray
rứt hơn khi nghĩ đến bạn bè và những chiến hữu đã gục ngã. Chính sự
lựa chọn phải bóp có súng để sống còn cũng là một niềm ray rứt.
Nhưng biết làm sao hơn, khi ý nghĩ giết người để tự vệ vẫn là
điều luôn luôn trong tâm tưởng những người ra trận…
Ngày tết là ngày quay lưng đi quá khứ và ngoảnh nhìn tới tương lai.
Với người lính VNCH, những ngày cuối năm là dịp để nhớ về, để tưởng
nhớ. Thời gian ở chiến trường, có lúc biền biệt để không thể nhớ
được ngày tháng. Nhưng gần tết, khi nắng buổi chiều đã có màu vàng
hoe, khi gió bấc đã xạc xào làm thức dậy những chuỗi kỷ niệm tưởng
như yên ngủ. Bao giờ cũng là những hướng vọng. Như là những ngày yên
bình sắp tới. Như ngày được về nhà hội ngộ với vợ con. Dù ở bất cứ
nơi đâu, một tiền đồn heo hút hoang vắng, hay ở một đảo xa cô tịch
sóng gió bão bùng, hay ở trong quân trường chỉ cách phố phường có
hàng rào kẽm gai ban đêm nhìn ánh đèn thành phố, cái cảm khái cũng
đều giống nhau, của một nỗi buồn của bất cứ một người nào có trái
tim đều tự nhiên như thế. Người lính không có trái tim sắt đá như
những người bộ đội bên kia với câu thề sinh Bắc tử Nam đã được nhồi
nhét từ khi còn thơ ấu.
Đọc những đoản tác viết về tình cảnh của những người lính ngày cuối
năm, chúng ta có thể mường tượng được tâm tư của cả một thời đại.
Chẳng có muốn lao vào một cuộc chém giết những người cùng màu da
cùng dòng máu. Nhưng, sống trong một xã hội như thế không thể làm
khác được. Có sự chọn lựa. Hoặc hèn nhát làm người trốn lính. Hoặc
phải vào cuộc, ít ra cũng là một bổn phận của người trai trong hoàn
cảnh đất nước cần đến. Làm người lính, là chấp nhận mọi hoàn cảnh.
Dù nhớ thương người tình, dù nghĩ đến cha mẹ già ở quê nhà hay vợ
trẻ con thơ ở mái ấm gia đình, cũng vẫn phải chiến đấu, vẫn phải
ngồi gác giặc để hồn bay về nẻo xa hay đêm phục kích nhìn trăng sao
để tưởng nhớ về những hình ảnh thân yêu đang nhòa nhạt ở chốn xa…
Chiến tranh đã qua ba chục năm. Không còn bom rơi đạn nổ, không còn
những vòng khăn tang cô phụ, nhưng hình như chiến tuyến vẫn còn và
sông Gianh từ ngàn xưa chưa lấp. Vẫn còn những mâu thuẫn chưa thể
vượt qua. Vẫn còn nhân tâm ly tán trong lòng người Việt...
|