Phản
tỉnh,
giả?
thật?
Trường
hợp
Nguyễn Khải

Nguyễn
Khải (1930-2008)
Nguyễn Khải tên thật là Nguyễn Mạnh
Khải, sinh ngày
3 tháng 12
năm
1930 tại
Hà Nội.
Quê nội ở
thành phố Nam Định.
Trong
Kháng chiến chống Pháp,
gia
nhập tự vệ chiến đấu ở
thị xã Hưng Yên,
sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo.
Nguyễn Khải Bắt đầu viết văn từ
những năm 1950,
được chú ý từ tiểu thuyết
Xung đột
.
Sau năm
1975
Nguyễn Khải chuyển vào sinh sống tại Sài Gòn.
Ông rời quân đội năm
1988 với
quân hàm đại tá để về làm việc tại
Hội Nhà văn Việt Nam.
Nguyễn Khải từng là Ủy viên Ban chấp hành
Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký khóa 3.
Ông là Đại biểu
Quốc hội khóa VII.
Nguyễn Khải mất ngày
15 tháng 1
năm
2008 tại
Sài Gòn.
Ông sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn,
tiểu thuyết, ký sự, kịch.
Trong đó, Nguyễn Khải để dấu ấn qua nhiều
tác phẩm như:
Xung đột
(1959-1962),
Mùa lạc
(tập truyện ngắn, 1960),
Thời gian của người
(1985)...
Tác phẩm gần nhất của Nguyễn Khải là tiểu
thuyết
Thượng đế thì cười
(2003), mang giọng văn hồi ký về cuộc đời viết lách của ông.
Tác
phẩm Mùa lạc của Nguyễn Khải thường được trích dạy trong
sách giáo khoa phổ thông môn Văn học nhiều năm qua.
Trong
bộ sách giáo khoa Ngữ văn bộ mới (lớp 12), tác phẩm này được
thay bằng Một người Hà Nội, cũng là một truyện ngắn xuất
sắc của ông.
Theo
Wikipedia. |
Nguyễn
Khải (1930-2008) là một nhà văn mà con đường sáng tác đã đi theo
thời sự một cách rõ nét. Khi miền Bắc đang có phong trào hợp tác hóa
nông nghiệp, ông có tiểu thuyết “Xung Đột”, “Mùa Lạc”. Khi cuộc nội
chiến Nam Bắc ở giai đoạn khốc liệt nhất thì ông có ký “Họ sống và
chiến đấu”. Sau năm 1975, khi miền Bắc chiến thắng ông có tiểu
thuyết “Cha và con, và...”, “Gặp gỡ cuối năm”. Khi rộ lên phong trào
đổi mới, lại có “Hà Nội trong mắt tôi”. Và khi gần lìa đời có tiểu
thuyết mang vóc dáng tự truyện “Thượng đế thì cười” và tùy bút chính
trị “Đi tìm cái tôi đã mất”. Sự theo sát thời sự như thế nên con
đường quan lộ cũng thênh thang và trong đời sống văn học cũng như
thường ngày, ông là một người khôn khéo, biết tùy thời, tiến lui
nhịp nhàng. Nhiều người đã có những nhận xét khá đặc biệt về ông,
như Xuân Sách đã phác họa:
“
Cha và con... và họ hàng
hết
bay mùa thóc lẫn Mùa lạc
cho
nên Chiến sĩ thiếu lương ăn
Họ
sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng ba ở Tây nguyên đỏ lửa
Tháng tư còn đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm Cách mạng nhưng lại dát.”
Xuân Sách đã dùng tên các tác phẩm đề mô tả chân dung Nguyễn Khải:
‘Cha và con , và...”, “ Mùa Lạc”, “Chiến sĩ” , “Họ sống và chiến
đấu”, “Tháng ba ở Tây Nguyên”, “Xung Đột”, “Cách mạng”... Câu kết
“Muốn làm cách mạng nhưng lại dát” đúng nhưng chỉ biểu lộ một phần
tâm tính Nguyễn Khải.
Dương Tường, một người biết rõ về Nguyễn Khải đã thổ lộ:
“Nguyễn Khải, như tôi đã cảm nhận, là một “ca” đặc biệt và
phức tạp nữa. Trong Khải luôn luôn có hai con người. Một Nguyễn Khải
khôn khéo giả dối và một Nguyễn Khải thành thật trắng trợn. Một
Nguyễn Khải hèn nhát và một Nguyễn Khải khinh ghét tay Nguyễn Khải
hèn nhát kia. Và sự tranh chấp giữa hai con người ấy không bao giờ
ngã ngũ. Vì thế tôi đón nhận bài tùy bút “Đi tìm cái tôi đánh mất”
với mối quan tâm đặc biệt, thầm mong đó có thể là một cái gì giống
như “Tiếng hót của con thiên nga”....
Nhưng Vương Trí Nhàn thì nghĩ khác:
“Thế tại sao Nguyễn Khải lại viết “Đi tìm cái tôi đã mất”? Theo tôi,
trường hợp này cũng giống như Chế Lan Viên viết “Di Cảo thơ” hay Tố
Hữu tâm sự với Nhật Hoa Khanh. Thực chất cái việc các ông “cố ý làm
nhòe khuôn mặt của mình” như thế này là cốt để xếp hàng cả hai cửa.
Cửa cũ, các ông không bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự
đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới.
(Bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi
xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình
đã sử dụng).
Rồi Vương Trí Nhàn đã kể những lời nói giả dối ra sao như Nguyễn
Khải thường tỏ ra coi thường các giải thưởng văn học nhưng thực tế
thì lại khác, ông rất bực mình khi có ai phụ họa theo bởi vì ông là
người ham hố chức tước và giải thưởng nhất. Hay khi Nguyễn Khải tự
đánh giá sự nghiệp văn học của mình như “Cái tài sản tinh thần thâu
góp một đời ấy về già nhìn lại thì chỉ là một cái kho chứa đủ tạp
nhạp chẳng có giá trị gì” chỉ là một câu tự khiêm nhường mà nói ra
nhưng ông lại nghĩ khác.
Và Vương Trí Nhàn cho rằng sự tranh chấp giữa hai con người Nguyễn
Khải chỉ là một trò trình diễn trên sân khấu. Thực tế ông hòa hợp
với cả hai, tùy theo trường hợp tiến hay lùi, ông đưa ra con người
này hay con người khác để làm hàng. Và “lối nghĩ này đã giúp ông
thành công chói lọi trong suốt đường đời, và cho đến chung cục của
đời sống ông vẫn giữ, không tự khác mình đến một mili-mét”.
Nguyễn Đăng Mạnh trong một đoạn hồi ký viết về Nguyễn Khải có kể lại
những câu chuyện khá thú vị. Ông kể về những câu nói hoặc nhận xét
về Đảng cộng sản, về các quan cán bộ hay các nhà văn nổi tiếng, rất
táo bạo.
“Đảng không bao giờ coi trọng trí thức, biến trí thức như Hoàng Xuân
Nhị thành hèn hạ. Tôi từng gặp Hoàng Xuân Nhị ở nhà Tố Hữu. Tố Hữu
không thèm nói chuyện với ông ta cứ để ông ta ngồi một mình. Tóc bạc
phơ. Tố Hữu chỉ nói với tôi là một thằng còn rất trẻ. Trần Đức Thảo
thì bị biến thành một thằng bịnh thần kinh. Sang Pháp bao nhiêu Việt
Kiều mời đến, không đến, cứ ở đại sứ quán, tuy bị nó khinh như chó”.
Nguyễn Khải đã kể lại như thế.
Hay “Nói chung Cộng sản coi văn nghệ sĩ như rác, Lê Duẩn coi Tố Hữu
cũng chỉ như một con hát. Nhưng lại sợ văn nghệ. Vì chỉ dùng tuyên
truyền dùng nước bọt mà giành được nước. Chỉ nói, có làm gì đâu.
Nói đủ cả, chẳng làm gì. Thí dụ, cứ nói phê bình tự phê bình mà chưa
bao giờ phê bình tự phê bình cả. Chỉ toàn đào tạo gia nhân, đầy tớ,
bọn nịnh hót. Sợ văn học cũng vì thế. Vì văn nó nói sự thật, nó lật
tẩy. Rất sợ biểu tượng hai mặt. Chỉ đề cao văn tuyên truyền, đề cao
vè. Thật ra bọn nhà văn nói chung nhát, không dám chống chế độ đâu:
“Chế Lan Viên một thời dựa thế Tố Hữu, cũng hách lắm. Tố Hoài gọi là
thằng nặc nô của đảng. Hồi chỉnh huấn văn nghệ sĩ , Chế Lan Viên làm
tổ trưởng, nói với Nguyễn Tuân: “Ông tưởng ông to lắm à? Tôi phụ
trách ông kia mà! Họp chấp hành, ý kiến của Chế Lan Viên là quyết
định. Thí dụ ban chấp hành bàn có nên kết nạp Phan Quang không? Mọi
người chờ ý kiến của Chế Lan Viên. Chế Lan Viện đi đái vào, nói
“Thằng Thép Mới nó còn được ở ban chấp hành được thì thằng Phan
Quang sao không cho vào hội được?”. Ai cũng gọi là thằng tuốt. Thằng
Nguyễn Đình Thi, thằng Tô Hoài, thằng Hoàng Trung Thông, chẳng sợ ai
cả. Không thể đối đáp kịp mồm Chế Lan Viên. Phải về nhà mới nghĩ ra
cách bác lại nhưng hôm sau không còn lý do để tranh cãi nữa vì lão
ấy đã nói chuyện thân mật...”
Và Nguyễn Đang mạnh kể lại lời nguyễn Khải về cái hách dịch cũng như
uy quyền ghê gớm của Sáu Bắc (Lê Đức Thọ) với Sáu Nam (Lê Đức Anh).
Hôm ấy Thọ gọi một số văn nghệ sĩ đến hỏi chuyện. Thọ đang tiếp
khách. Bọn Khải phải ngồi đợi ở phòng bên cạnh. Lát sau khách ra về.
Hóa ra khách là Lê Đức Anh. Nguyễn Khải thấy Lê Đức Anh đi ra, cứ đi
giật lùi, giật lùi ra mãi giữa sân mới dám quay đít lại. Thọ tiếp
chúng tôi. Đúng lúc ấy thấy Phạm Hùng đi sang. Hùng đề nghị gặp Thọ
một lát. Thọ phẩy tay “Để lúc khác nhé. Giờ đang bận tiếp khách văn
chương”. Thọ coi Hùng chẳng là cái gì tuy Hùng lúc đó là thủ tướng
thay Phạm Văn Đồng....”
Nguyễn Đăng Mạnh kết luận :
“…Ngay sau khi Nguyễn Khải mất, tôi có anh bạn (Hoàng Dung trong Nam
ra Hà Nội nói Nguyễn Khải chết không có đất chôn. Đúng ra là không
được chôn ở nghĩa địa Sài Gòn (tại Thủ Đức) phải đưa lên nghĩa địa
Củ Chi rất xa. Tiêu chuẩn được chôn ở Thủ Đức, ngoài những thành ủy
viên hay trung ương ủy viên không kể, phải cộ năm tuổi đảng. Trần
Duy Châu nguyên hiệu phó Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, khi chết mới có 58
tuổi đảng không đủ tiêu chuẩn phải đưa đi Củ Chi. Nguyễn Khải tất
nhiên cũng phải đưa đi Củ Chi.
Võ Văn Kiệt thấy thế chắc lấy làm xấu hổ nên can thiệp. Ông tuyên bố
nhường suất chôn của ông ở Thủ Đức cho Nguyễn Khải.”
Kể ra, một đời theo Đảng, cúc cung tận tụy như thế mà chưa được đãi
ngộ thì cũng khá bạc bẽo! Dù rằng, khi cái quan định phận, những
nhận xét và phê phán về ông cũng khá nặng nề. Làm văn nô theo Đảng
cũng chưa chắc là sướng!
Riêng tôi, khi còn cải tạo tôi đã đọc Nguyễn Khải một truyện ngắn
đầu tiên trong một tờ báo cũ nhem nhuốc, một truyện ngắn mà tôi tới
giờ vẫn còn gai gai khi nhớ lại. Truyện “Cổ mạch hàn phong cộng nhất
nhân” viết về một người tù già gần trăm tuổi bị chỉ định cư trú ở
nơi sinh quán của mình sau khi cải tạo ra: cụ Vũ Hồng Khanh. Cụ
sống với gia đình người con gái cũng hơn bẩy chục và là một gánh
nặng cho gia đình ấy. Sống trong cảnh dở sống dở chết, muốn chết mà
không được, cụ Vũ được mô tả dưới ngòi bút Nguyễn Khải vừa ác độc
lại vừa xót thương cái kiểu giả dối như mèo khóc chuột khiến tôi cảm
thấy ghê sợ cho cái tâm tình của người viết văn như thế. Rồi đọc
Gặp gỡ cuối năm, rồi Cha và con, và... rồi cuối là Đi Tìm Cái Tôi
Đã
Mất, quả thực tôi cảm thấy một điều gì hơi ghê ghê hơi khó chịu.
Không biết tôi có thiên kiến nào không?
Có người nhận xét nền văn học Cộng sản là một phương tiện để phục vụ
cho chế độ. Trong ấn định của đề cương văn hóa, người viết là một
thành phần của tổ chức chặt chẽ, được lãnh đạo và kiểm soát của Đảng
với đường lối chỉ đạo thống nhất.
Cái nền văn học gọi là văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, theo lời
cụ Nguyễn Mạnh Tường, chỉ là cái chuồng giam chật hẹp giam hãm người
nghệ sĩ. Trong cái không gian tù túng, thì sáng tạo cũng khó có cơ
hội để phát huy.
Sang thời đổi mới của Nguyễn Văn Linh lại dùng chữ cởi trói cho
văn nghệ. Chính những người lãnh đạo chế độ cũng thừa nhận có sự
buộc trói văn nghệ. Và giây trói chính là những giáo điều công
thức cứng nhắc, là những biện pháp đàn áp thô bạo, là những ràng
buộc giam hãm, là phương cách đánh rồi xoa rồi lại đánh ... Người cầm
bút trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy, chắc chắn trong lòng phải chất
chứa nhiều nỗi niềm. Văn chương trong nước, như mặc chung một bộ
đồng phục, cái chung thì nhàm chán công thức và cái riêng thì lẻ loi
mờ nhạt, để tạo thành một nền văn học đơn điệu, nghèo nàn, mà cái
giả nhiều khi nhập nhằng thành thật và cái thật thì bị bóp méo hoặc
bôi xóa đi. Chân, thiện, mỹ không còn là những bản vị để đánh giá
văn chương. Mà thay vào đó, là những yếu tố ấn định từ nhu cầu chính
trị. Người nào đi ngược lại đường lối, bị tiêu diệt ngay với những
biện pháp tàn bạo và thâm độc. Sự tình ấy, gây ra một không khí
khủng bố, và, mọi người đầu bị ám ảnh bởi cái sợ lúc nào cũng canh
cánh trong lòng.
Do đó, thỉnh thoảng lại có những vụ án văn học, và những nạn nhân
của văn tự ấy mang cái tội không án nhưng còn kinh khiếp hơn cả cách
tru di tam tộc của thời phong kiến. Sự khủng bố công an trị đã làm
cả một xã hội phải thu mình lại và cái sợ đã trở thành cố nhiên đối
với những văn nghệ sĩ Nguyễn Minh Châu, nhà văn, đại tá của QĐ Cộng
sản kể chuyện một nhà văn đàn anh (ám chỉ Nguyễn Tuân) một lần nâng
chén rượu lên môi với các bạn văn nhỏ tuổi hơn “Tao còn sống đến bây
giờ là nhờ biết sợ”. Nói rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường,
nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất giọt rơi vào lòng. Rồi
Nguyễn Minh Châu lại kể chuyện một nhà thơ lớn như Xuân Diệu mà khi
viết bộ “Các nhà văn cổ điển Việt Nam” cũng phải rào trước đón sau,
làm phên che giậu đỡ rồi mới dám viết.
Cho nên trong bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học
minh họa”, ông viết: “Tài năng, nhất là những thiên tài, bao giờ
cũng như là của bắt được, của trời cho, ai mà biết được bao giờ thì
họ đến, nhiệm vụ của chúng ta là chuẩn bị bầu không khí cho họ thở,
cho họ sống, đừng giết chết họ, đừng ghen tị với họ, đừng làm họ
thui chột trí tuệ lẫn tình cảm, đừng khiến họ cuối cùng trở thành
chúng ta...”
Mà, chúng ta là ai? Là “cũng trong một con người cầm bút, có khi cái
phần bất tài nhảy lên bục tao đàn để múa may, còn cái phần tài năng
thì trùm chăn nằm chờ ngày xuống mồ...”
Không biết Nguyễn Minh Châu có quá lời hay không nhưng trong một
môi trường không tự do, lúc nào cũng nơm nớp sợ “phạm trường quy”
thì làm sao văn chương đi xa và đào sâu được. Hơn nữa, lại gây ra
trong lòng người cầm bút những mặc cảm, thành sự chán chường u uất.
Họ phải chọn lựa con đường mà họ gọi là “phải đạo", nghĩa là đu
giây giữa cái tốt và cái xấu. Có khi họ trở thành văn nô nếu cái
danh và cái lợi là miếng mồi béo bở. Nhưng, nếu còn chút sĩ khí, thì
cũng không tránh khỏi ngậm ngùi. Giấc mơ tự do sáng tác xem ra xa
vời. Xa lắm…
Cũng Nguyễn Minh Châu, cho rằng đường lối chỉ đạo hẹp hòi và thô bạo
khiến cho người cầm bút phải chịu đựng một tình cảnh "rất thảm đối
với nhân cách của một người văn nghệ sĩ”. Ông viết : ”văn chương gì
mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn, hèn chứ?
Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái
sợ nó làm mình hèn ...”
Trăn trở, suy nghĩ, tự xét lại, phản tỉnh, có thể đó là tình trạng
chung của người trí thức. Nhưng, có khi cái giả và cái thật chen
nhau đến khó phân biệt. Có khi, là phản ứng thật, của nỗi bức bối
phát tiết ra. Và, cũng có khi là của giả. Của những thái độ tính
toán trước để che lấp những lỗi lầm của bản thân mình.
Một trường hợp điển hình là Tố Hữu. Một ông quan văn nghệ, lãnh đạo giới cầm bút trong nước và biết bao nhiêu người bị chịu những oan
sai đau khổ vì bị hành hạ theo chỉ thị của ông ta. Một nhà văn trẻ,
là thương binh, tên là Hoàng Cát, chỉ vì phạm húy khi viết truyện
ngắn “Cây táo của ông Lành “ mà bị vùi dập, cả đời bị khốn khó,
theo dõi vì cái vết tích tì tịch văn chương. Về sau, Hoàng Cát đã kể
lại những quãng đời khốn khổ của mình suốt mấy chục năm bị trù úm
đầy đọa. Và còn nhiều người nữa với những vụ án văn tự như Hà Minh
Tuân, như Lý Phương Liên, như Nguyễn Dậu, như Phù Thăng, ... cũng do
bàn tay của Tố Hữu dính vào. Và rõ ràng nhất là chiến dịch “Bọn Nhân
Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận“ với những biện pháp răn đe tàn
bạo không án tích không giấy tờ, chỉ là lệnh miệng thôi mà làm bao
nhiêu người, bao nhiêu gia đình khốn khổ.
Nhà văn Hoàng Tiến trong bài Sự Thật Ở Đâu đã viết: ”nhà thơ
Hoàng Cầm kể rằng, nhà văn tướng quân Trần Độ trưởng ban Văn Hóa Văn
Nghệ của Đại Hội Đảng lần thứ 6, tổng bí thư lúc ấy là ông Nguyễn
Văn Linh, người đã giúp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố những
câu đáng ghi vào lịch sử văn nghệ "cởi trói cho văn nghệ sĩ”, “các
văn nghệ sĩ hãy tự cứu lấy mình”, “không bẻ cong ngòi bút” dũng cảm
trình bày sự thực”...
Trong cái không khí cởi mở ấy qua nghị quyết 5/BCT về văn học nghệ
thuật, nhà văn Trần Độ có đến gặp Tố Hữu và hỏi ông về thái độ đối
với anh em Nhân Văn Giai Phẩm bấy giờ. Nhà thơ Tố Hữu với giọng trọ
trẹ xứ Huế đã nói” Rất tiếc! Rất tiếc! Hồi ấy tôi đã không tiêu diệt
hết chúng nó đi”. Trên đường về ông Trần Độ có rẽ vào thăm ông Hoàng
Cầm có kể lại câu chuyện trên. Ông Hoàng Cầm đến nay còn sống, yếu
lắm rồi, hiện ở số nhà 43 phố Lý Quốc Sư, Hà Nội. Ai có thắc mắc,
xin đến đấy hỏi, kẻo rồi ông Hoàng Cầm đi mất, lại thành tam sao
thất bản”.
Tố Hữu đã được Xuân Sách mô tả:
“ta đi
tới đỉnh cao muôn trượng
mắt
trông về tám hướng phía trời xa
chân
dép lốp bay vào vũ trụ
lúc
trở về ta vẫn là ta!
Từ
ấy trong tôi bừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà
càng lộng Gió thơ càng nhạt
Máu
ở chiến trường Hoa ở đây”
Xuân Sách đã dùng tên nhan đề những tập thơ của Tố Hữu: Ta Đi Tới,
Việt Bắc, Gió lộng, Việt Nam Máu và Hoa... để nói về tác giả của nó:
tham vọng, thủ đoạn, giả dối, chức thì lớn nhưng thơ thì nhạt, bởi
cái tâm không tốt.
Tố Hữu cũng là một mẫu người “nịnh trên nạt dưới” đã viết những câu
thơ ô nhục như viết thơ khóc lãnh tụ đỏ Stalin: ”Tiếng đầu lòng, con
gọi Stalin... Thương
cha thương mẹ thương chồng / thương mình thương một, thương ông
thương mười“
Và, trong đám nịnh thần làm thơ tôn vinh Hồ Chí Minh có Tố Hữu đứng
đầu:
“nhớ chân người bước lên đèo
Người đi rừng núi
Trông theo bóng người
Lòng ta ơn Bác đời đời...”
Hay:
”
Bác ơi tim Bác mông mênh thế
Ôm
cả non sông, mọi kiếp người
...
Bác để tình thương cho chúng con
một
đời thanh bạch chẳng vàng son
mong manh áo vải hồn muôn trượng
hơn
tượng đồng phơi
những lối mòn…”
Con người Tố Hữu là như thế nhưng cũng có lúc nghĩ lại. Gọi là trăn
trở một chút, phản tỉnh một tị. Đọc bài phỏng vấn “Gặp Tố Hữu tại
biệt thự 76 Phan Đình Phùng“ của Nhật Hoa Khanh sẽ thấy. Bài này
được đăng thành nhiều phần nhỏ trong các báo khác nhau như Quân Đội
Nhân Dân, Tiền Phong Chủ Nhật, Người Hà Nội... bài phỏng vấn này thực
hiện năm 1997, nhưng đến khi được phổ biến thì bị bà Vũ Thị Thanh là
vợ của ông Tố Hữu phủ nhận cho đó là những tài liệu giả mạo “pha chế
nhiều ý kiến riêng, mượn danh Tố Hữu”, biến Tố Hữu thành người phát
ngôn cho ý mình khi phát hành cuốn sách “Tố Hữu - Người Cộng sản
kiên trung, nhà văn hóa tài năng”.
Thực hay giả, đúng hay sai chỉ có người đã nằm dưới mồ là Tố Hữu và
người phỏng vấn là Nhật Hoa Khanh biết mà thôi. Nhưng, tại sao giả
mà lại được các tờ báo coi như chính thống của Đảng phổ biến và Nhật
Hoa Khanh trước sau im lặng không trả lời. Hình như có một điều gì
bất thường...
Có người cho đó là một phản tỉnh của Tố Hữu. Lúc bị thất thế, suy
nghĩ của ông ta đã thay đổi, như những bài thơ sau này bớt giọng sắt
máu hoặc những câu chuyện Phùng Quán kể khi đến thăm ông tại nhà.
Đọc bài phỏng vấn, độc giả sẽ thấy có một Tố Hữu khác, một người
khác xa với hình ảnh của một đồ tể văn học, một người làm thơ có tâm
hồn nhân ái, một trí thức có đầu óc phóng khoáng cởi mở, một nghệ sĩ
trân trọng chữ nghĩa và tôn trọng những người cầm bút. Nhắc đến
những người mà hồi trước là nạn nhân của ông, là đích nhắm để ông
hành hạ, thì ông lại khen ngợi không tiếc lời. Với những người mà
hồi trước ông lên án và nguyền rủa như Phan Khôi, Trần Dần, Văn
Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Lê Đạt, Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang... thì
bây giờ ông lại đề cập đến với những lời nồng hậu nhất. Không hiểu,
có muộn màng không? Với những người đã chết vì bị đày đọa…
Trong bài phỏng vấn, Tố Hữu nói: ” ... Họ tung tin ông Tố Hữu chỉ
đạo ban nọ ban kia hoặc báo này báo khác đánh” Búp Sen Hồng mà tôi
vừa nói ở trên. Họ dựng đứng chuyện ông Tố Hữu cắt bỏ câu ”Hoan hô
đồng chí Võ Nguyên Giáp trong bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Họ
ném hỏa mù: ông Tố Hữu “đánh” Quang Dũng, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần
Dần, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân, Văn Cao, Nguyên Hồng, Tô Vũ, Phùng
Quán, Phùng Cung, Trương Tửu, Phan Khôi, Đào Duy Anh, Phan Ngọc,
Nguyễn Hữu Đang, Đặng Đình Hưng, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức
Thảo,…Họ vu khống Tố Hữu đánh cả Nguyễn Đình Thi, chỗ ngồi của anh
Nguyễn Đình Thi ở đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ ba là do Tố Hữu
quyết định...”
Có nghĩa là bọn xấu “cáo mượn oai hùm” nó làm và Tố Hữu không có
trách nhiệm gì hết!!! Hơn thế nữa, còn khen ngợi nữa kia. Như nói
về Văn Cao: “Văn Cao còn là một nhà thơ xuất sắc, một họa sĩ độc
đáo, một nghệ sĩ suốt đời trung thành với dân tộc và với Đảng...”
Nói về Quang Dũng và Hoàng Cầm:
“Cần đánh giá lại, đánh giá thật cao giá trị thơ Quang Dũng trong
nền thơ Việt Nam hiện đại. Quang Dũng là một trong những các nhà thơ
đàn anh trong văn học Việt Nam thế kỷ 20. Cũng cần nói thêm, Quang
Dũng còn là một nhà văn sắc sảo về nội dung và điêu luyện về ngôn
ngữ…”
“...Hoàng Cầm ngời sáng cả trên lãnh vực thơ lẫn kịch bản thơ. Chưa
kể anh còn là một trong những nghệ sĩ ngâm thơ vào loại vô địch
không kém gì Phùng Quán,,”
Nói về Trần Dần:
“Cũng như thơ Quang Dũng và Hoàng Cầm, thơ Trần Dần có nhiều đổi mới
về nội dung và nghệ thuật, đồng thời là tấm gương phản chiếu tâm hồn
dân tộc và phản chiếu cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.
Văn xuôi của anh Người người lớp lớp, về căn bản có giá trị hiện
thực chiến đấu rất cao, Người người lớp lớp, là một khẩu pháo biện
chứng pháp của văn học Việt Nam thế kỷ 20. Nên sớm tái bản...”
Nói về Phan Khôi:
“Về cụ Phan Khôi, phải đánh giá lại. Không thể quên được hình ảnh
gương mẫu và nồng nhiệt của cụ trong đội quân văn nghệ kháng chiến
chống Pháp. Không thể bỏ qua được những kết quả của cụ trong việc
đổi mới thơ Việt Nam trước khi xuất hiện phong trào thơ mới. Phan
Khôi còn là một học giả về văn học trung Quốc. Muốn hay không, cụ
cũng đã có một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học nước ta thế kỷ
20...”
Nói về Nguyễn Hữu Đang:
“Suýt nữa tôi quên mất anh Nguyễn Hữu Đang người được bác Hồ trao
cho nhiệm vụ trọng đại Trưởng ban Tổ Chức lễ Tuyên Ngôn Độc Lập mồng
2 tháng 9 năm 1945. Anh Đang suốt đời trung thành với bác Hồ và với
lý tưởng Độc lập Tự Do của dân tộc. Anh Đang đóng góp nhiều cho cách
mạng những đóng góp lặng lẽ. Anh Đang có nhiều hy sinh đáng quý.
Những hy sinh ấy chính là tấm gương ngời sáng treo cao trước mặt
chúng ta ...”
Thực? Giả? Có phải đó là trăn trở phản tỉnh của Tố Hữu hay chỉ là
sự vớt vát, hỏa mù? Nếu là thật thì bao nhiêu việc làm từ trước của
Tố Hữu có hậu quả tồi tệ ra sao? Thành ra, có thể đó là những lời
phản tỉnh của Tố Hữu, nhưng sau khi ông từ trần đem ra phổ biến thấy
không có lợi cho Đảng nên mới có sự phủ nhận. Dẫu sao, dù thực hay
giả, sự kiện này cũng nói lên được cái hại của sự chuyên chế đối với
dân tộc ở cả mọi phương diện kể cả văn chương…
Một trường hợp phản tỉnh khác, nửa hư nửa thực là Chế Lan Viên với
Di Cảo Thơ. Ông Chế là một trong những nhà thơ đứng đầu của nền văn
học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trước 1945, ông nổi tiếng
với tập thơ Điêu Tàn, có một phong vị văn chương khác với mọi người
với ngôn ngữ và ý tưởng gợi lại một thời đại nào của một dân tộc Hời
suy vi tăm tối và bị diệt vong. Nhưng đi xa hơn, thơ của ông cũng
làm chạnh nhớ tới tình trạng của dân tộc Việt đang bị Thực dân Pháp
đô hộ. Sau 1945, Chế lan Viên là một nhà thơ có nhiều tập thơ được
coi là có giá trị nghệ thuật. Với loại thơ chính luận, ông tạo được
sự thành công nhất là phù hợp được với đường lối và quy định của
văn học của Đảng đề ra. Xuân Sách phác họa chân dung Chế Lan Viên:
“Điêu Tàn ư? Đâu chỉ có Điêu Tàn
Ta
nghĩ tới Vàng Sao từ thuở ấy
Chim Báo Bão lựa chiều cơn gió dậy
Lựa
Ánh Sáng trên đầu
Mà
thay đổi sắc Phù Sa
Thay đổi cả cơn mê
Ai
dám bảo con tàu không mộng tưởng
Lòng cũng như tàu ta muốn uống
Mắt
anh em trong suối cạn Hội Nhà Văn.”
Điêu tàn, Vàng Sao, Chim Báo Bão, Ánh Sáng và Phù Sa, là tên những
tập thơ của Chế Lan Viên. Hình như, Xuân Sách muốn ví họ Chế như một
con tắc kè, biết thay đổi màu sắc trên bộ da của mình tùy trường
hợp. Và, thâm ý còn muốn ví ông như một nhà thơ cơ hội, lựa chiều
gió để nương theo tạo danh vọng.
Chế Lan Viên viết Di Cảo Thơ, cũng có nhiều bài suy tư về thân phận
của người nghệ sĩ trong một thời đại bây giờ. Nhưng, có nhiều người
xổ toẹt và coi đó như một món hàng mạo hóa. Nguyễn Duy, khi sang Mỹ
du lịch khi được hỏi về Di Cảo Thơ thì nói một câu: “Đến chết rồi mà
Chế Lan Viên còn chơi một “quả” đích đáng. Ông còn muốn lừa cả chính
ông ta...”
Đọc Di cảo Thơ, những bài như Bánh Vẽ, như Trừ Đi, ... , thấy được
tâm sự. Nhưng, có phải thật lòng không, thì không ai đoan chắc ở một
xã hội, mà nói láo là chuyện tự nhiên thì có khi người nói láo tưởng
mình nói thật.
Bài Bánh Vẽ :
“Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
thế
mà anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
cầm
lên nhấm nháp
chả
là nếu anh từ chối
chúng sẽ bảo anh phá rối Đêm vui!
Bảo
anh không còn có khả năng nhai
Và
đưa anh từ nay ra khỏi tiệc
Thế
thì còn đâu dịp nhai thứ thiệt
Rốt
cuộc anh ngồi lại vào bàn
Như
không có gì xảy ra hết
Và
những người khác thấy anh ngồi
Họ
cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm.”
Đọc
Bánh Vẽ, nhớ lại câu nói của Hoàng Ngọc Hiến khi giải thích về những
hiện tượng ngược đời có vẻ phi lý mà là sự thực ở Việt nam. “Ở nước
ta nó thế”. Khi cái thực và giả không phân biệt, khi dối trá là
phương tiện để cai trị dân chúng, thì Bánh vẽ của Chế Lan Viên
đề cập hay cái “khải hoàn môn” chiến tranh mà Dương Thu Hương nói
đến trong Tiểu Thuyết Vô Đề, cũng là chuyện bình thường ...
Đọc bài Trừ Đi với phụ chú “sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ”:
“Có
phải tôi viết đâu? Một nửa
cái
cần viết vào thơ tôi đã giết đi rồi
giết một tiếng đau, giết một tiếng cười
giết một kỷ niệm, giết một ước mơ
Tôi
giết cái cánh sắp bay... trước khi tôi viết
Tôi
giết bão táp ngoài khơi
Cho
được yên ổn trên bờ
Và
giết luôn mặt trời lên trên biển
Giết mưa và giết luôn cỏ mọc trong mưa luôn thể
Tôi
viết bằng xương thôi không có thịt của mình
Và
thơ này rơi đến tay anh
Anh
bảo đấy là tôi?
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi- người có tội
đã
giết đi bao nhiêu cái
có
khi không có tội như mình”
Di Cảo Thơ, có phải là những trăn trở thực sự cuối đời hay chỉ
là những giả dối để hy vọng những đời người sau bỏ quên đi những lầm
lỗi một đời. Chế lan Viên đã mang kỹ thuật của ngôn ngữ ở trình độ
cao của ông để bù đắp vào cái tâm có lẽ không trong sáng lắm. Có
người nói, tài thì làm chi vì “cái tâm kia mới bằng ba cái tài” !!
...
Bây giờ, ở trong nước đã đổi mới, văn học cũng có nhiều thay đổi.
Nhưng, xem ra cũng chưa được khả quan mấy. Tự do sáng tác xem ra vẫn
còn xa vời. Vẫn còn những chuyện chỉ đạo văn chương. Vẫn còn chuyện
người cầm bút là một thứ công chức, ăn lương Hội Nhà Văn. Và Hội Nhà
Văn là một cơ quan đặt ra để kiểm soát văn nghệ sĩ. Và, vẫn có nỗi
niềm ấp ủ, vẫn có những bức xúc trước tình cảnh văn học hiện
nay. Phản tỉnh hay phản kháng, cũng là một phản ứng tất nhiên của
người cầm bút có sĩ khí.
|