Nguyễn
Đình Thi,
từ
"Xung kích" đến "Nguyễn Trãi ở Đông Quan"
Nguyễn Đình Thi, ông là ai?
Câu hỏi ấy có lẽ dễ mà khó khi trả lời! Nhà văn, nhà thơ, nhà lý
luận văn học, nhà phê bình văn học, nhà soạn kịch, nhà nghiên cứu
triết học, và cả nhà viết nhạc nữa. Nhưng chưa đủ ông còn là một
quan chức văn nghệ cao cấp của Đảng: Tổng thư ký hội văn nghệ, Tổng
thư ký hội nhà văn, Chủ tịch ủy ban toàn quốc liên hiệp các hội văn
học nghệ thuật…
Mà ở bình diện nào, Nguyễn Đình Thi cũng đều có đóng góp lớn. Là nhà
thơ, ông có tác phong lãng mạn tiểu
tư sản nên bị phê bình nặng nề nhưng vẫn mặt ngoài thì chịu khuất
phục nhưng bên trong vẫn nghĩ về những đổi mới trong thi ca và muốn
đi trên con đường độc đạo văn chương của mình. Là nhà viết tiểu
thuyết, dù ông chủ trương “thơ là hoa, tiểu thuyết là qủa” nhưng
tiểu thuyết của ông từ “Vỡ bờ“ đến “Xung kích“ dù đề tài theo đúng
đề cương của Đảng nhưng lại được nhìn ngắm và phê bình một cách soi
mói, có lẽ vì cái tạng của trí thức không hạp với văn nghệ chuyên
chính vô sản chăng? Là nhà soạn kịch, thì kịch bản “Nguyễn Trãi ở
Đông Quan“ đã gây nhiều chấn động hay “Rừng Trúc“ bị ngăn cấm tới 20
năm mới được dựng thành kịch bản để diễn trên sân khấu…
Tại sao vậy? làm thơ thì bị phê bình là khó hiểu và không vần nên
Đảng bắt sửa chữa cho có vần, soạn kịch thì bị cho là có hậu ý, viết
văn thì bị coi là có khuynh hướng tiểu tư sản không phục vụ cho đấu
tranh giai cấp... Thế mà, Nguyễn Đình Thi vẫn là một ông quan văn
nghệ suốt cả cuộc đời và không bị thăng giáng như các nhân vật khác.
Có lẽ ở Nguyễn Đình Thi, cuộc đấu chiến khốc liệt giữa công danh và
văn chương thể hiện rõ nhất. Thành ra, sự lựa chọn đã làm ông lúc
nào cũng như người sống ép buộc với những điều mà ông coi là giả tạo
và nhiều khi tự khinh bản thân mình…
Có một nhà thơ đã mang tâm sự của mình để viết thành một bài đọc
trước hội nghị của các nhà văn Liên Xô. Nghĩ đến mình nhưng lại viết
cho người:
“... Ở miền rừng núi chúng tôi có một giống chim gọi là chim từ quy.
Các ông bà già bảo rằng có đôi người yêu ngày xưa bị kẻ gian ác ngăn
cấm không lấy được nhau, đã hóa thành giống chim ấy. Cho nên đến tận
bây giờ, cứ đêm đêm người ta nghe thấy những con chim từ quy gọi
nhau từng đôi, một con ở đầu núi này, một con ở đầu núi khác, suốt
đêm đôi chim tìm gọi nhau cho đến sáng thì mới gặp nhau. Tôi nghĩ
rằng các dân tộc từ bao thế kỷ cũng đã mò mẫm tìm nhau như thế. Và
các tác phẩm của các nhà thơ lớn ở thời trước cũng khác nào những
tiếng gọi tìm nhau của các dân tộc còn bị ngăn cách chia rẽ trong
bóng đêm dày. Chính Cách Mạng Tháng Mười là buổi bình minh làm cho
các dân tộc nhìn thấy nhau và gặp được nhau...”
Có phải Nguyễn Đình Thi có nghĩ như vậy thật không? Hay là chạnh
lòng mình vì một mối tình bị chia rẽ nên mới nói thác ra như vậy.
Tác giả Xuân Ba đã kể lại mối tình nồng thắm của Nguyễn Đình Thi và
Madeleine Riffaud, một nữ ký gỉa của tờ báo L’Humanité, cơ quan ngôn
luận của đảng Cộng Sản Pháp:
“... Chao ôi sự gặp gỡ của đôi trai tài gái sắc là tất yếu như là
thứ biện chứng của anh hùng và thuyền quyên vậy. Tình yêu rất cần sự
chứng kiến nhưng là với ai và với từng giai đoạn nào khác kia, còn
lúc này Nguyễn Đình Thi vô cùng sợ trước những ánh mắt tò mò săm
soi... Quan hệ đúng mực giữ nghiêm kỷ luật... Kỷ luật lúc đi, trên
đường đi đã được quán triệt. Nhất là với mình lại là cương vị lãnh
đạo?! Nhưng những ngày đam mê và gấp gáp với cả ngặt nghèo ấy,
Nguyễn Đình Thi đã tìm ra lối thoát bằng sự gặp may. Nhà thơ nổi
tiếng Nazim Hikmet người Thổ Nhĩ Kỳ là khách mời đặc biệt của đại
hội sau nhiều buổi gặp chung với đoàn Việt Nam đã không giấu được
thiện cảm của mình với Nguyễn Đình Thi. Vốn là người lịch lãm từng
trải lẫn tinh tế, Nazim Hickmet lọc ngay được thứ tình cảm không
biên giới vĩnh hằng của nhân quần đang ám trên gương mặt của chàng
thi sĩ trẻ Việt Nam. Và ông đã chắp nối cho cặp trai tài gái sắc
Nguyễn Đình Thi – Madeleine Riffaud! Mối tình nồng thắm ấy cho mãi
đến năm 1955, 1956 mới có nhiều người biết đến
bởi những chuyến thăm Hà Nội liên tiếp của Madeleine Riffaud. Chuyện
loang ra. Mặt bằng dư luận khi đó đã chắp cánh cho không ít những đố
kỵ hẹp hòi đồn thổi kể cả ác ý làm Nguyễn Đnh Thi nhiều lúc hụt hẫng
chới với!...”
Và kết quả là lời khuyên của chủ tịch Hồ Chí Minh “Hai người cứ là
bạn tình mãi là tốt nhất. Nếu cưới nhau thì cô ấy phải sang ở hẳn
bên Việt Nam với chú. Nếu như vậy thì Đảng CS Pháp mất một cán bộ
trung thành tận tụy và báo Nhân Đạo mất đi một ký giả tài ba ...”
Và, thế là họ thành đôi chim từ quy đi tìm nhau hoài mà không gặp
được. Kẻ ác đã chia rẽ hai người. Nguyễn Đình Thi đã “lòng ta vẫn ở
trên Tây Bắc / Những đêm thao thức tiếng từ quy” và làm thơ như:
“anh đứng đây thầm gọi tên em
xa em anh ngơ ngác
anh gọi em anh gọi mãi
Em có nghe thấy anh không?”
Và, mối tình ấy còn để lại sâu đậm trong suốt cuộc đời Nguyễn Đình
Thi. Ông để lại cho người con là Nguyễn Đình Chính một cặp da cũ
chứa đầy những kỷ vật gồm hàng nghìn thư từ tranh ảnh, phong bì,
những bài báo cắt dán... của một mối tình đau đớn. Thế mà, vì con
đường làm quan, phải thỏa hiệp để có danh lợi, nên thi sĩ đành chôn
chặt những uất hận trong lòng…
Nguyễn Đình Thi còn là thi sĩ của những câu thơ mà một thời đã được
coi như là những bước đầu khai phá cho thơ tự do, thơ không vần.
Những bài thơ như thế lại bị chỉ đạo của Tố Hữu với những phê bình
của phản ứng gay gắt nghiệt ngã khiến thi sĩ phải chiều lòng sửa lại
để thơ có thêm vần điệu. Chu Văn Sơn, một nhà phê bình văn học khoa
bảng đã viết trong bài tưởng niệm một năm sau khi Nguyễn Đình Thi
lìa đời “Nguyễn Đình Thi trên sóng thời gian”:
“... Trong phần thành công nhất, thơ Nguyễn Đình Thi đã tạo ra một
điệu mới như tiếng sóng reo trong lặng lẽ, tấu lên một thứ nhạc mới
trong lặng mà rung ngân: “Sáng mát trong như sáng năm xưa / Gió
thổi mùa thu hương cốm mới? Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em”, “Nắng soi
ngõ vắng - Thềm cũ lối ra đi - lá rụng đầy”, “ôi những vạt ruộng
vàng / Chiều nay rung rinh lúa ngả / Dải áo chàm bay múa - tiếng hát
ai lênh đênh…” tiếc rằng, trước sự phản ứng gay gắt, Nguyễn Đình
Thi cũng đã phải hòa giải một cách tự nguyện là lại gia tăng vần cho
thơ. Nhiều khi “thơ có vần” đã đồng hóa “thơ không vần”. Giá ông cứ
dám là mình, cứ dám đi cho thật hết cái lẽ phải của thơ theo quan
niệm của mình thì rất có thể ông đã có vai trò như Xuân Diệu với
phong trào thơ mới. Hòa giải đôi khi là thỏa hiệp là nhượng bộ, làm
mất một cơ hội tạo diện mạo cho mình, tạo diện mạo hoàn toàn mới cho
thơ. Vừa muốn là mình, vừa không dám là mình, gẫm bi kịch ấy đâu chỉ
diễn ra trong mỗi việc cách tân thơ, cũng đâu chỉ với riêng ông. Nó
khó thế, nó cũng buồn thế!…”
Phải, không phải chỉ riêng với Nguyễn Đình Thi mà hầu như phần đông
văn nghệ sĩ sống trong nền văn học gọi là “hiện thực xã hội chủ
nghĩa” đều phải nhắm mắt làm những việc bất đắc dĩ. Chính người
trong cuộc cũng cảm thấy thấy buồn chán nhưng không có cách nào hơn.
Nếu hành xử như một nghệ sĩ, thì đâu có “quan văn nghệ” Nguyễn Đình
Thi làm Tổng thư ký hội văn nghệ từ năm 1958 tới ba nhiệm kỳ liền,
và là người được Bùi Bình Thi xưng tụng là một trong “Tứ Đại lão
gia“ của nền văn học trong nước.
Thực ra, Chu Văn Sơn tiếc cho Nguyễn Đình Thi cũng có lý. Ông là một
nhà văn, nhà thơ có tài và có căn bản kiến thức vững vàng. Cuốn sách
“Triết học Nhập Môn” mà ông viết với tất cả tóm lược nền tảng triết
học đã được dạy trong chương trình lớp dự bị Văn Khoa của đại học
Sài Gòn một điều mà chính ông cũng khó tưởng tượng được. Cũng như,
ông có cái nhìn viễn kiến khá xa cho con đường văn học. Như bài viết
“Mấy ý nghĩ về thơ” từ năm 1949 đến nay đọc lại vẫn thấy còn giá trị
và nhiều chất suy tư sáng tạo.
Nhiều người cho rằng ông có thực tài nhưng không được trọng dụng.
Cái lý lịch trí thức tiểu tư sản đã tạo ra lối sống và lối nghĩ khác
biệt với tác phong vô sản của chế độ.
Nhà văn Lý Hồng Xuân trong “Nhận diện chân dung nhà văn” đã viết một
giai thoại về Nguyễn Đình Thi:
“... câu chuyện đó bắt nguồn từ việc trong một lần Nguyễn Đình Thi
được cử dẫn đầu đoàn đại biểu Thanh niên Việt Nam đi dự Đại Hội Liên
Hoan Thanh Niên Sinh Viên Thế Giới. Ở đây ông gặp nữ văn sĩ, nhà báo
người Pháp, bà Ma đơ len Rip phơ. Trai tài gái sắc, hai người yêu
nhau định gá nghĩa trăn năm. Khi trở về nước, chưa kịp báo cáo với
tổ chức, Nguyễn Đình Thi đã bị phê bình gay gắt vì “quan điểm lập
trương tiểu tư sản …
... Vào khoảng đầu những năm Sáu mươi, trong một tuyển tập thơ Tình
Yêu của nhà xuất bản thanh niên, Nguyễn Đình Thi cho in bài thơ của
mình. Tên bài thơ là Nhớ. Đầu bài thơ ông đề “Tặng M.”… Bài thơ ấy
như sau:
“Gửi M.
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh.
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây
Anh yêu Em như Anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ Em mỗi bước đường Anh bước
Mỗi tối Anh nằm mổi miếng Anh ăn.
Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời
Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực
Chúng ta yêu nhau cháy bỏng làm người.”
M., là EM, hay là Madeleine Riffaud cũng thế, Nguyễn Đình Thi làm
thơ tình yêu mà cũng phải ngụy trang những đất nước, những chiến
sĩ,... nhưng thâm ý của ông, rõ ràng quá nên không qua được mắt lãnh
đạo văn nghệ. Và, tình trạng ấy tạo cho ông tình trạng của một người
luôn luôn bất mãn nhưng ngoài mặt vẫn phải nhũn nhặn cam chịu.
Vở kịch: “Con Nai Đen“ và “Nguyễn Trãi ở Đông Quan“ tuy nổi tiếng
nhưng bị coi là có “vấn đề”. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi. con trai nhà
thơ Thế Lữ dựng kịch: ”Nguyễn Trãi ở Đông Quan” nên mới có câu vè :
“Nguyễn Đình Thi với Đình Nghi
Mượn lời Nguyễn Trãi nói gì với ta?”
Và chính đích thân chủ tịch quốc hội Trường Chinh lúc đó duyệt kịch
bản và xem Đoàn Kịch nói Hà Nội và sau đó cấm phổ biến.
Xuân Sách lược tả chân dung Nguyễn Đình Thi với những tác phẩm tiêu
biểu và cái tâm tư dường như chờ đợi một điều gì, nửa như hy vọng
nửa như vô vọng:
“Xung Kích tràn lên, nước Vỡ Bờ
Đã vào Lửa đỏ hãy còn mơ
Bay chi Mặt Trận Trên Cao ấy
Quên Chú Nai Đen vẫn đứng chờ!”
Xung Kích, Vỡ Bờ, Mặt Trận Trên Cao, Vào Lửa, là tên những cuốn tiểu
thuyết của ông. Con Nai Đen là tên vở kịch.
Tuy vây, ông là một người khôn ngoan và đã biết cách để giữ được cái
chức quyền quan văn nghệ. Với cấp trên ông là người luôn luôn chiều
theo bất kể lý lẽ, người mà ông thần phục nhất là Tố Hữu, người có
quyền sinh sát với văn nghệ sĩ. Trong bài viết của nhà văn Hoàng
Tiến có nói về Tố Hữu như sau:
“… Nghe nói khi ông Tổng bí Thư Nguyễn văn Linh tuyên bố cởi trói
cho văn nghệ sĩ, ông Trần Độ tác giả của nghị quyết 05 về văn hóa và
văn nghệ, là người đã giúp ông Nguyễn Văn Linh nói được câu cởi
trói, có gặp ông Tố Hữu hỏi ông nghĩ gì về anh em Nhân văn Giai Phẩm
bây giờ. Ông tố Hữu suy nghĩ một lát, với giong trọ trẹ xứ Huế, trả
lời ”À cái bọn ấy à, thì bây giờ tôi rất tiếc là ngay lúc đó tôi
không diệt hết chúng nó đi” Hỡi ôi, một người nghệ sĩ, một nhà thơ
mà suy nghĩ hệt một nhà chính khách độc tài…”
Lại một người khác, nhà thơ Hoàng Cầm nói về trường hợp in thơ của
Nguyễn Đình Thi. Lúc ấy, Hoàng Cầm giữ nhiệm vụ biên tập nhà xuất
bản Văn nghệ. Ban đầu với bản thảo thi tập “Người Chiến Sĩ” có nhiều
bài thơ không vần khá hay. Nhưng sau vì áp lực của Tố Hữu mà phải
sửa thành những bài có vần nên thơ trở thành một cái hẩu lốn chẳng
ra ngô ra khoai gì cả. Hoàng Cầm kể:
“... Sau buổi tôi nói chuyện với ông Lành, anh Thi đã đến ngay nhà
xuất bản hỏi tôi để lấy lại bản thảo. Tôi làm như không có cuộc trao
đổi với ông Lành về tập thơ Người Chiến Sĩ
- Anh Thi ạ, tập thơ của anh chúng tôi thấy rất “được”, có lẽ chính
nó sẽ mang lại một luồng gió đổi mới cho chúng ta. Tôi đã đưa xuống
nhà in rồi.
Anh Thi đáp, giọng buồn rầu nhỏ nhẹ:
- Thôi Cầm cứ cho mình xin lại bản thảo, không in vội.
- Sao thế anhThi? Mình tưởng tập thơ thế là hoàn hảo rồi? Cứ thế mà
in. Tôi sẽ cho in rất đẹp và có thể mời họa sĩ Nguyễn Sáng hay Dương
Bích Liên vẽ cho một phụ bản màu.
Anh Thi nài nỉ:
- Để mình sửa chữa lại. Thú thật anh Lành đã có đọc tập thơ này,
trong khi anh Lành chưa có ý kiến gì, mình muốn đưa cho Cầm để xuất
bản cho nhanh. Nhưng gần đây, khi nghe nói mình đã đưa bản thảo
xuống nhà xuất bản thì anh ấy gọi mình lên và khuyên mình nên sửa
một số bài mà anh ấy cho là lủng củng. Vẫn là những ý kiến của anh
ấy đã phát biểu trong kháng chiến. Mình đã tranh luận với anh ấy.
Cuối cùng anh Lành vẫn bảo mình nên chữa lại cho độc giả công nông
dễ đọc dễ thuộc. Thôi thì... người ta là lãnh đạo mà…“
Sau khi đã sửa lại bản thảo để làm vừa lòng cấp trên, Nguyễn Đình
Thi còn nói với Hoàng Cầm một câu nói khá kỳ lạ “Trí thức văn nghệ
sĩ chúng mình đã đi với cách mạng vô sản thì ít nhiều cũng phải hy
sinh cái bản ngã của mình dẫu là bản ngã tốt đẹp!”
Môt câu nói khác, cũng “để đời” không kém. Nguyễn Đình Thi tuyên bố
khi bế mạc Đại hội nhà văn Việt nam lần thứ ba năm 1983: ”Chúng ta
là những nhà văn nhưng là những hạt bụi lấp lánh ánh sáng của Đảng!”
Theo Bùi Minh Quốc trong bài “Vài kỷ niệm làng Văn bị trói” đăng
trên tạp chí “Thiện Chí“ số 31:
“Hôm sau (hôm Nguyễn Đình Thi nói trên truyền hình) tình cờ tôi gặp
nhà sử học Trần Quốc Vượng. Ông Vượng cứ nhìn tôi bằng cặp mắt như
thể tôi là Nguyễn Đình Thi rồi tạc lưỡi mà bảo: Nhà văn các ông…
hừ... việc gì phải thế nhỉ?…
Một anh bạn tôi bên ngành giáo dục nhà gần chợ Bắc Qua kể với tôi
rằng có một cô gái buôn gà thường ghé sang nhà anh xem nhờ Tivi buổi
tường thuật lễ bế mạc đại hội Nhà văn. Khi xem xong đoạn ông Nguyễn
Đình Thi hùng hồn tuyên bố câu ấy cô gái đã hồn nhiên bật ra một lời
bình phẩm:
- Gớm, “cậu“ đéo lào (nào) mà “lịnh” (nịnh) thế?”
Theo thời như thế, lăn lưng với miếng đỉnh chung như thế nhưng con
người nghệ sĩ của Nguyễn Đình Thi vẫn có những nõi niềm riêng ray
rứt riêng. Hoàng Cầm trong bài “Nguyễn Đình Thi trong tôi, Nguyễn
Đình Thi ngoài tôi” viết:
“… Tôi biết vào những ngày tháng cuối cùng trên cái cõi mang mang
thế sự đầy bí hiểm này anh Thi có những thời khắc suy tư đầy bi
kịch. Anh vốn là một nghệ sĩ nhưng ít khi sống hết mình vì nghệ
thuật. Về nhạc anh đã sáng tác khúc ca Người Hà Nội rất quyến rũ rất
tình tứ mà cũng rất hùng tráng. Đáng lẽ anh nên dừng ở đó mà đào sâu
vào cái vỉa quặng rất phong phú là âm nhạc thì tham vọng lại dẫn anh
đi vào một thế giới mà anh tưởng có thể ôm chặt lấy được là thế giới
văn xuôi, thế giới đến thương trường rất ngon ăn mà sao tiểu thuyết
Vỡ Bờ gần ngàn trang của anh lại hình như thưa thớt tiếng vang, mấy
cuốn truyện của anh nữa. Xung Kích, Vào Lửa, Mặt Trận Trên Cao, liệu
còn dư vang gì trong lòng người đọc? Anh cứ loay hoay như thế suốt
hơn 60 năm cầm bút để rồi đi đến đâu? Ở anh có hai con người luôn
giằng xé nhau bất phân thắng bại. Đó là con người nghệ sĩ và con
người quyền chức không lúc nào anh thanh thản, không lúc nào anh
được an nhiên tự tại cũng chỉ vì xung đột quyết liệt một mất một còn
giữa hai con người đó. Vì thế mà anh sống trong một bi kịch thường
trực, nó vò xé cắn rứt lẫn nhau không lúc nào ngưng nghỉ (trừ lúc
anh để tâm hồn trôi theo nhan sắc, nhưng ngay cả nhan sắc, hay nói
rộng ra là tình yêu nam nữ, đôi khi cũng tưởng chừng muốn phát điên
lên vì anh luôn thay đổi)…”
Cuối đời, anh có bài thơ cuối cùng, như một lời tuyệt mệnh linh cảm
từ một chuyến viễn du xa mãi mãi:
“Rồi hôm nào bỗng gió bay
cái bóng người ngoài kia đến đợi
Anh giật mình đứng dậy
Đến giờ rồi hôm nay
Trên tay cốc nhỏ không đầy
Uống chúc bạn bè ở lại
Anh chắt đời anh chắt mãi
Chút ngọt bùi chút đắng cay
Người tôi còn nhiều bùn tanh
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vương nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình
Thôi xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều lần tàn ác
Và ngu dại còn nhiều lần hơn
Mong anh em hiểu đừng cười
Tôi gửi lại đây chìa khóa
Tất cả cửa nhà tôi đó
ngổn ngang qua tạm cuộc đời
Tiếng đập cửa thình thình gọi
Anh cười vẫy
Xin chia tay
Lời ai văng vẳng
Hôm nào gió bay”
Nguyễn Đình Thi mất ngày 18 tháng tư năm 2003. Thọ 79 tuổi.
Nguyễn Mạnh Trinh |