Tản mạn về những
Tuyển tập xuất bản trong nước
Một người
bạn tôi mới về thăm nhà trong thời gian gần đây đã có nhận xét là
không hiểu tại sao những nhà sách ở trong nước lại lớn đến như thế.
Có những rạp hát thời trước bây giờ biến thành tiệm sách và những kệ
sách với những mẫu bìa đủ màu đủ sắc. Tôi là người yêu sách vở nên
tò mò hỏi thêm như vậy chắc sách hay nhiều lắm phải không? Thì khá
ngạc nhiên, anh trả lời khi anh nhờ một người bạn sống ở trong nước
chọn giùm thì anh này trả lời. Sách hay thì hiếm lắm nhưng sách để
đọc cho qua thời giờ thì vô số… Thì qủa thực, nhà văn Nguyễn Đình
Chính phát biểu trong một cuộc phỏng vấn của đài BBC:
“Nhưng sự đa nguyên trong sáng tạo văn học này có tạo ra những tác
phẩm lớn có tác dụng giải phóng tâm hồn con người, mang lại một
luồng gió mới tự do dân chủ cho xã hôi hay không?
Câu trả lời là không. Bởi vì cái nền văn học đa nguyên này đang bị
sa lầy trong (cũng có thể tệ hại hơn là đang phải hầu hạ) cái nghệ
thuật thị hiếu thực dụng rất thô sơ tầm thường của một xã hôi đang
chuyển động trong nền kinh tế thị trường tự do trong khuôn khổ định
hướng XHCN.
Nếu bây giờ dạo qua các quầy sách ở Hà Nội hoặc Sài Gòn thì thấy
ngay điều đó. Hàng ngàn các đầu sách bầy la liệt chen nhau chật cứng
trên sạp. Bìa ngoài xanh đỏ tím vàng lòe loẹt phần lớn là vẽ môi,
lưng, và những chỗ gợi cảm trên thân hình con gái.
Bên trong thì toàn chuyện ru ngủ, những tình cảm tầm tầm, khuyến
khích những dục vọng hàng chợ, đưa ra những đáp số giải tỏa những
bức xúc nửa vời về vài ba vướng mắc nhỏ mọn nhạt nhẽo của đời sống.
Những tác phẩm đó đồng loạt bảo nhau chạy cho xa những mâu thuẫn to
lớn chủ yếu cốt lõi trong xã hôi hiện hữu đang dằn vặt cào xé tình
cảm rung chuyển suy nghĩ và đảo lộn lòng tin của hàng triệu người
lao động trong xã hội...”
Ở trong nước, có những hiện tượng kỳ lạ mà nhà phê bình Hoàng Ngọc
Hiến đã kết luận bằng một câu “Ở nước ta nó như thế“. Một sự kiện
không phải chỉ có hai mặt phải và trái mà còn có cả chục mặt khác
nhau và quay cuồng như thò lò đến chóng mặt. Ở trong văn học thì lúc
cởi trói lúc trói lại, lúc đổi mới tư duy lúc bảo thủ tuyệt đối, lúc
khen lúc chê, lúc buộc tội lúc ca tụng. Khuynh hướng hiện thực xã
hôi chủ nghĩa trong văn học có lẽ chỉ là một hình nộm mà trong đó,
các nghệ sỹ hình như dù không muốn cũng phải đóng vai một người lựa
theo chiều gió mà thay đổi sự phát biểu của mình. Chân lý thay đổi
rất mau theo từng thời điểm ở trong nền văn học ấy…
Nhà văn Nguyễn Khải, một nhà văn cốt cán của chế độ, khi viết luôn
luôn theo sát những đề cương văn hóa đề ra mà khi cuối đời viết
trong hồi ký “Đi tìm cái tôi đánh mất“ lại là những dòng chữ xám hối
tự phản tỉnh khiến cho cả dư luận sửng sốt bàng hoàng. Những nhận
thức ấy, có thể rất nhiều người có nhưng mà ở Nguyễn Khải thì quả là
đáng ngạc nhiên… Và Vương Trí Nhàn đã ví von rằng có thể đây là một
cách đánh sóc đĩa mà đặt cả hai mặt chẵn lẻ. Đằng nào thì cũng vơ về
cái lợi dù ở bất cứ trường hợp nào. Như vậy thì làm sao người dân
tin tưởng được vào cái thẳng thắn của sỹ phu Bắc Hà?
Rồi ở tập hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh cũng là những ghi nhận những
phát biểu đi qua lằn vạch của một nền văn học bị chính trị chỉ huy,
thậm chí còn đề cập đần những vấn đề mà trong nước gọi là “nhạy cảm“
như về hình tượng Hồ Chí Minh chẳng hạn. Nhà phê bình Văn Tân nhận
định người khác mà viết như thế còn có thể hiểu được chứ Nguyễn Đăng
Mạnh mà viết như thế thật đáng ngạc nhiên. Là nhà phê bình hai lần
đoạt giải thưởng của cả nước, là đảng viên Cộng Sản kỳ cựu, là nhà
giáo nhân dân, một vị thế cao nhất của ngành giáo dục. Và là người
đã có những phê bình nhận định “phải đạo” nhất trong những thời kỳ
trước mà trong cuốn sách được giải thưởng ”Con đường đi vào thế giới
nghệ thuật của nhà văn“ mà Vũ Tú Nam đã nhận định ở bìa sách ”Những
ý kiến về quan điểm chính trị và quan điểm thẩm mỹ của Hồ chủ tịch,
những bài về Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu... có
nhiều phát hiện mới mẻ rất có ích cho giáo viên tham khảo cũng như
hiểu sâu về tác giả và tác phẩm.” Thế mà, lại viết trong hồi ký khác
biệt tới ngàn dặm. Dù rằng, ông viết có thể không phải chủ tâm muốn
cải sửa toàn vẹn mà vẫn bàng bạc trong ấy những suy nghĩ cũ, của
những ngày hăng say theo con đường của lề bên phải được vạch sẵn như
mọi người…
Xem qua những tác giả được lựa chọn để in thành tuyển tập hay toàn
tập ở trong nước mà có người ví von cho rằng đó là mặt tiền của tòa
nhà văn hóa Việt Nam. Thông thường, tuyển tập là chọn những bài vở
hay nhất để tuyển thành một tập. Ban tuyển chọn một giải thưởng văn
học là những người có đủ tư cách để chọn lựa một tác giả hay tác
phẩm xuất sắc nhất trong thành phần đã được tuyển. Tôi có ý nghĩ
thật thô sơ như thế. Nhưng, ở thực tế, thì dường như vậy mà không
phải vậy. Thử nhìn vào trong nước, qua tất cả những dữ kiện mà tôi
được biêt qua báo chí và truyền thông, sự thực chẳng phải giản dị
như vậy. Có một điều gì kỳ kỳ mà một người sống ở hải ngoại như tôi
khó lòng hiểu nổi. Từ cảm giác ấy, tôi viết không phải là với thái
độ của một người tọc mạch muốn tìm kiếm những tiêu cực để bỉ thử, mà
là một chủ đích đi tìm hiểu một thực trạng văn chương mà mình cứ
canh cánh muốn tìm hiểu…
Có năm, ở trong nước rộ lên một phong trào thi ca, nào hội thơ, nào
công bố “100 bài thơ hay nhất thế kỷ“.. Nghe thì tưởng như những
công trình nghiêm túc, nhưng thật ra có phải chính xác như thế
không? Một thế kỷ trong văn học không phải là một thời gian ngắn và
tuyển chọn được những bài thơ tiêu biểu không phải là việc dễ dàng
và ai cũng làm được. Thế mà lại tổ chức thành một cuộc thi để bình
chọn. Bất cứ ai cũng có thể tham dự để chọn lựa, bất cần kiến thức
văn chương. Như vậy liệu kết quả có khả tín không? Hay chỉ là một
cách để dễ dàng thực hiện những điều mà những người có quyền lực
chính trị đứng đằng sau chỉ thị?
Danh sách những bài thơ hay nhất thế kỷ gồm một bài thơ chữ Hán của
lãnh tụ Hồ Chí Minh được xếp đầu bảng ngoại hạng còn 99 bài thơ khác
gồm cả những bài của các vị tiền bối như Nguyễn Khuyến, Trần Tế
Xương, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và các bài của các nhà thơ của văn
học miền Nam như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng, Đinh Hùng, Nguyên Sa,
Phạm Thiên Thư, Á Nam Trần Tuấn Khải, Trang Thế Hy. Chỉ có thế và
còn lại toàn là thơ miền Bắc và thơ trong nước bây giờ, có danh và
vô danh trộn lẫn.
Có phải ngẫu nhiên một bài thơ chữ Hán được xếp vào hay đó chỉ là sự
tôn sùng lãnh tụ, một trường quy bắt buộc của nền văn học xã hội chủ
nghĩa? Cũng như, những nhà thơ của văn học miền Nam hay ở hải ngoại
bị bỏ quên. Danh sách 100 bài thơ được mệnh danh là hay nhất thế kỷ
20 ấy, có thiếu nhiều bài và cũng thừa nhiều bài. Sự chọn lựa theo
một chủ ý rõ ràng mà chính trị chỉ đạo. Như vậy không phải là vô
tình mà là sự cố ý muốn chôn vùi sự thực văn học?
Phê bình gia Phạm Xuân Nguyên, một người theo dõi hiện tình văn học
khá sát đã nhận xét :
“... Chúng ta hiểu thơ Việt nam thế kỷ 20 là của người Việt làm ra
dù ở bất cứ đâu, trong bất cứ thời điểm nào của trăm năm vừa qua.
Ban tổ chức cuộc thi không hạn định không gian địa lý vùng miền của
hai tiếng “Việt Nam“ này, cho nên thơ chọn ở đây phải được hiểu là
tất cả thơ của người Việt làm ra trong thế kỷ 20 ở trên lãnh thổ
Việt Nam và ngoài lãnh thổ Việt Nam, làm ra trong thời kỳ đất nước
thuộc địa và đất nước độc lập, đất nước phân chia và đất nước thống
nhất. Nhìn vào danh sách 100 bài thơ được tuyển chọn ta không thấy
điều này. Danh xưng “Việt Nam“ ở đây đã bị thu hẹp rất nhiều. Như
vậy là danh không chính.”
Trong bài “Năm điều bất cập“ đăng trên báo Phụ Nữ Thành phố Hồ Chí
Minh sau “post” trên web-site Talawas, của Phạm Xuân Nguyên còn nêu
ra những điều không ổn khác như bài thơ chữ hán của Hồ chí Minh được
đặt trên đầu danh sách, cũng như bài được tuyển chọn “chủ yếu là của
các tác giả trước 1945 và sau 1975 và số lượng chính là các tác giả
ở miền Bắc“, hay “cuộc tuyển chọn 100 bài thơ Việt Nam hay nhất thế
kỷ 20, như kết quả cho thấy là cuộc tuyển chọn của một bộ phận công
chúng và như vậy, thơ được gọi là “hay nhất” trong tập này chỉ tương
đối ở cuộc này mà thôi, theo cách làm này mà thôi. Nhưng để gọi là
“thơ Việt hay nhất thế kỷ 20 thì thật là thậm xưng, là vội vã tùy
tiện”
Nhà thơ Thanh Thảo người được chọn bài thơ “Dấu chân qua trảng cỏ“
trong danh sách những bài thơ hay nhất thế kỷ 20 cũng thắc mắc về
“danh nghĩa độc giả bầu chọn“ mù mờ để in ra một tập thơ có nhan
đề... nhớn như vậy là một công việc liều lĩnh. “Chọn thơ hay khác
với chọn lựa hoa hậu hay ca sĩ triển vọng. Đừng thấy người ta ăn
khoai mình cũng vác mai đi đào như thế, coi không tiện.”
Không hiểu công việc thực hiện công trình “100 bài thơ Việt Nam hay
nhất thế kỷ XX“ như thế có phải là công việc chọn mà không tuyển
không? Nếu không tuyển thì liệu kết quả được chọn ấy có chút giá trị
nào?
Hay cũng như chuyện giải thưởng văn học năm 2006 của Hội Nhà Văn. Có
cả ban tuyển chọn đàng hoàng mà không biết chọn thế nào, tuyển ra
sao để ông Chủ tịch Hội Nhà văn Hữu Thỉnh được giải nhất về thơ với
tập “Thương lượng với thời gian“ và giải tặng thưởng cho Ly Hoàng Ly
với tập thơ “Lô Lô”. Cũng Phạm Xuân Nguyên lại viết : “Đến lần ăn
giải này nữa, ông Hữu Thỉnh đã lập một “hat-trick giải thưởng Hội
Nhà Văn Việt Nam“. Lần một năm 1980, ông được giải cho trường ca
Đường Tới Thành Phố“ và đó là lần xứng đáng lần hai năm 1995, ông
được giải cho tập thơ Thư Mùa Đông, lần đó thì hơi gượng, vì như nhà
văn Tô Hoài đã nhận xét, tập thơ đó lẫn lộn nhiều thứ như một gánh
đồng nát lần này, năm 2006, ông lấy giải với tập thơ “Thương Lượng
với Thời Gian” thì quả thực không xứng, theo ý tôi. Ngay khi tập thơ
ra đời, đọc nó tôi đã thấy là nó cũ, cũ về ý tứ, cảm xúc, cũ về
giọng điệu lối thơ. Kiểu làm duyên làm dáng trong câu chữ (sông chảy
chậm đợi chiều đang bị ướt), kiểu triết lý chuyện đời (hãy yêu lấy
con người/dù trăm cay ngàn đắng/đến với ai gặp nạn/xong rồi chơi với
cây), một lần nghe thì được, nghe sang lần hai lần ba thì thấy chán.
Dạng câu Xa vắng quá bồn chồn đi hỏi cát … là rất … Hữu Thỉnh. Bài
Thương lượng với Thời gian lấy làm tên chung cho cả tập: Buổi sáng
lo kiếm sống/ Buổi chiều tìm công danh/Buổi tối đem trí khôn ra mài
giũa/tỉnh thức những hàng cây bật khóc đọc lên nghe giả. Tôi nghĩ:
Hữu Thỉnh thương lượng với thời gian nhưng thời gian không còn chờ
đợi ông. Tôi không nghĩ rằng ông Chủ tịch hội thì không nên nhận
giải Hội mình trao (mặc dù ở nước ta tránh được chuyện đó là hay
nhất), nếu đúng tác phẩm của ông hay thật xứng đáng thật. Trong
trường hợp giải thưởng tập thơ của ông Hữu Thỉnh năm nay tôi thấy
không xứng đáng vì tập thơ đó không hay. Và còn vì bên cạnh nó có có
một tập thơ khác xứng đáng hơn…”
Tập thơ ấy là tập thơ Lô Lô của Ly Hoàng Ly, theo Phạm Xuân Nguyên.
Và kết quả là Ly Hoàng Ly từ chối nhận giải. Sau đó, lại lòi ra
chuyện ông chủ tịch hội Nhà Văn Hữu Thỉnh trong khi viết bài thơ
“Hỏi” lại lượm đỡ ý và lời của bài thơ “Thượng đế sinh ra mặt trời“
của nữ thi sĩ người Đức Christa Reinig. Và, dậu đổ bìm leo, người ta
kiếm ra hàng chục câu thơ mà ông Hữu Thỉnh đã mượn đỡ để dùng, từ
câu thơ của vua Tự Đức đến những câu ca dao tục ngữ…
Giải thưởng văn học ấy, hình như chỉ có chọn mà không có tuyển. Bởi
nếu tuyển thì làm sao có những bê bối không thể tưởng tượng như
thế!!!
Thêm trường hợp các tuyển tập được thực hiện, hình như chỉ có chọn
mà không tuyển. Đọc những tuyển tập, người đọc thấy rõ điều ấy. Một
tuyển tập của một tác giả, phải có đầy đủ những bài tiêu biểu. Nhưng
tiêu biểu của tác giả khác với tiêu biểu của người biên tập. Bởi vì,
còn những áp lực đè nặng lên việc chọn lựa. Văn học với bàn tay
chính trị chỉ đạo đằng sau tạo những áp lực như thế…
Một người bạn thân hay có dịp về Việt Nam kể cho tôi nghe nhiều
chuyện. Một trong những chuyện ấy là chuyện sách vở. Bởi mỗi lần anh
đi về tôi đều gửi mua rất nhiều sách và lần nào anh cũng đều than
thở nặng quá. Muốn mua ra phố Bolsa mua thiếu gì. Tôi chỉ đành cười
trừ. Ừ, mà ở phố Bolsa nhiều sách xuất bản ở trong nước thực. Những
sách biên khảo nhiều lắm. Không còn những nhan đề sách của thời xưa
nữa. Thời đổi mới nên tư duy cũng đổi và sách vở là mặt nổi dễ nhìn
thấy nhất.
Thời trước, in những tuyển tập của những tác giả tuy có công lớn với
văn hóa Việt Nam nhưng ở phe đối nghịch với chính quyền trong nước
là một hành động khá liều lĩnh. Lúc ấy, mà nhắc đến tên những Nhất
Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo,… đã là một lỗi lầm ghê gớm, huống chi
còn tập trung văn phẩm để in thành một tuyển tập bề thế. Cái gương
Nhân Văn Giai Phẩm còn sờ sờ trước mắt với cái án tốn tại mấy chục
năm khiến ai bạo gan đến đâu cũng phải e dè.
Thế mà, thời thế cũng khác đi, và văn chương cũng chuyển hóa theo.
Thời mở cửa, thế giới không còn chấp nhận những tư tưởng chủ quan
giáo điều nữa. Huống chi, ông Mác, ông Lê-Nin chỉ là những bóng ma
để dọa đe con trẻ thôi…
Bây giờ, mọi người đều nghĩ đến lợi nhuận đến buôn bán, kể cả đất
đai của cha ông. Thì, nhằm nhò gì ba cuốn sách hơi “thoáng“ một
chút. Thế là những cuốn sách tuyển tập như thế ào ạt ra đời nhiều
đến tối mặt. Tự Lực Văn Đoàn, được in lại toàn bộ tác phẩm cả mấy
ngàn trang và những tác giả được nhìn ngắm lại, khách quan hơn nhưng
cũng vẫn trong vòng lẩn quẩn. Yêu nước nhưng đi sai hướng, thí dụ
như vậy. Đọc trong những trang sách, thấy lờ mờ một chủ trương, đánh
lẫn lộn cái thực và cái giả. Thí dụ, để đánh bóng cái giả, phải làm
thế nào để những Hồ Chí Minh, Xuân Thủy, Sóng Hồng (tức Trường Chinh
Đặng Xuân Khu, tổng bí thư đảng)… cũng là những nhà thơ lớn của thời
tiền chiến. Viết văn học sử theo chủ quan như thế khiến người đọc
nhiều khi như sa vào mê hồn trận và lạc vào trong một mê cung mà
không phân biệt nổi ảo và thực.
Ngày trước khi vừa bắt đầu đổi mới, một giám đốc xuất bản có tiếng ở
miền Nam như Mai Quốc Liên cũng nhắc đến những khó khăn khi in và
phát hành những tuyển tập như thế. Mặc dù được sự đồng ý và yểm trợ
của lãnh đạo nhưng vẫn có phản ứng từ phía những người cực đoan bảo
thủ. Họ phê phán và tìm kiếm những sơ hở để công kích, với sự quy
chụp rất “chính trị”… nhưng, hiện thực bây giờ là những cuốn tuyển
tập đã được in và phát hành tràn lan. Dường như, những chuyện lý
luận như vậy đã thành chuyện xưa cũ.
Điểm qua những cuốn sách tôi có, dù số lượng không nhiều cũng làm
chóng mặt. Những tác giả chen lấn trong những bộ sách đồ sộ, bìa
cứng, in đẹp. Tuyển tập Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan,
Nguyễn Đình ThI, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Hoài Thanh,
Vũ Ngọc Phan,… Có lẽ, đó là những công trình để lại cho đời. Nhưng,
đó có phải là hoàn toàn những tâm đắc của tác giả chưa thì còn phải
xét lại.
Cũng lại anh “chính trị“ ló đầu vào. Tuyển tập Hoài Thanh dường như
thiếu phần viết về thơ tiền chiến chung với Hoài Chân. Tại sao vậy,
bởi vì tác giả trước đó đã băn khoăn vì đã viết quá trung thực đến
vô tình đụng chạm đến chủ trương đấu tranh giai cấp của đảng. Có lúc
Hoài Thanh đã cho những nhà thơ tiền chiến là “giặc” vì đã góp công
ru ngủ dân trí, làm nổi bật cái “ta” bạc nhược mà quên lãng đi cái
“tôi” anh hùng. Bộ Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại là một bộ phê bình thơ
của một người yêu thơ, hiểu thơ, cảm thơ và tìm ra được những nét
đặc sắc của một thời kỳ thi ca nở rộ. Thế mà, trong tuyển tập góp
nhặt công trình một đời cầm bút lại không có phần quan trọng ấy. Có
lẽ, chúng ta hiểu vì sao? Bởi có anh chính trị viên ló đầu vào và
cái màn tự phê tự kiểm đã làm Hoài Thanh năm lần bẩy lượt tự mổ xẻ
tự đấm ngực ăn năn cho tác phẩm của mình…
Hoặc nhà văn Nguyễn Tuân khi được in tuyển tập lần đầu tiên đã phẫn
nộ và cho rằng chỉ có được một phần không đáng dù rằng như thế cũng
đã được rồi. Nhà văn Nguyên Hồng khi được in tuyển tập của mình cũng
băn khoăn không biết mặt ngang mũi dọc sẽ ra sao...
Tôi có lần đọc một cuốn sách của nhà phê bình Phong Lê, Viện trưởng
Viên Văn Học ở trong nước : “Văn Học Trên Hành Trình Thế Kỷ XX”. Ông
có cái nhìn khá khoa học về giá trị đích thực của hai nền văn học
“cách mạng“ và “kháng chiến”. Về giá trị nghệ thuật của nền văn học
này, ông cho rằng đó là một thứ “công cụ tuyên truyền“ do những
“người viết văn“ tạo ra “trong tư cách là.. cán bộ tuyên truyền“
(trang 308) … có “giá trị như là những tư liệu (trang 432) mặc dù nó
đã có“ hàng nghìn, hàng nhiều nghìn cuốn sách, hàng triệu, hàng
nhiều triệu trang in“ (trang 430) là đã được khen, được ca tụng,
được trầm trồ” hết nơi này đến nơi khác, hết năm này qua năm khác“
(trang 431).
Nhà phê bình Phong Lê còn nhận xét nặng nề hơn nữa khi cho rằng nếu
như nhân vật thời đại là thước đo của bất cứ nền văn học nào được
xem là chủ lưu của thời đại đó thì khi cần làm việc ấy, văn học
“cách mạng“ và “văn học kháng chiến phải nhờ đến những con người“
đến từ những trang sách khác, và không gian khác, chứ không phải của
ta hôm nay (trang 430) “ những nhân vật như Núp, chị Sứ, chị Ut, anh
Trỗi, anh Thuận, mẹ Tom, em Hòa, chị Lý... chỉ có giá trị hấp dẫn,
cổ võ, nêu gương đối với bạn đọc, nhằm đưa bạn đọc đến các chiến
công và đến với những thành công tất yếu của sự nghiệp cách mạng
(trang 427). Những nhân vật này chưa bao giờ là những “điển hình văn
học, mang bóng dáng con người thời đại. Đó chỉ là những “tượng,
những phù điêu đã và nếu là hoa thì cũng là hoa mọc trên đá hoặc hoa
đá” (trang 388). Ngoài lý do cách mạng và kháng chiến buộc người
nghệ sĩ phải “hy sinh nghệ thuật để phục vụ chính trị,“ nhà phê bình
Phong Lê còn phân tích đến những nguyên nhân sâu xa, là cội rễ của
những tình trạng văn học yếu kém không sinh khí. Một trong những
nguyên do chính là lãnh đạo Đảng đã áp dụng một cách cứng nhắc cái
gọi là phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ông đã ví
von đó là sự cưỡng lại của quy luật nghệ thuật là quaí thai của lịch
sử (trang 418). Lý luận rằng khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ thì chủ
nghĩa hiện thực này cũng tan vỡ theo. Sau khi “trả lại sự công bằng”
cho một loạt những tác giả như Boris Patenak, hay Milan Kundura hay
Platonov,…, ông nêu ra những mâu thuẫn không thể nào điều hòa được.
“Duy có điều chắc chắn là nếu không xếp những tên tuổi trên đây vào
sở hữu của Chủ Nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thì rõ ràng chẳng có
gì đáng bàn, đáng tự hào về một nền văn học hiện thực xã hội chủ
nghĩa. nhưng liệu lô-gich đó có thuận không nếu có một tên tuổi nào
đó không chấp nhận, không chịu bước vào “ngôi đền thiêng này”, hoặc
một tên tuổi nào đó được “xếp hạng“ rồi bây giờ lại được chứng minh
là không xứng đáng và đã xa rời “hiện thực” hoặc chỉ đứng lại ở một
nửa sự thực hoặc tô điểm cho sự thực. Tóm lại chủ nghĩa hiện thực xã
hội chủ nghĩa là thứ người ta tưởng tượng ra, phỉnh nhau giết nhau
vậy thôi, chứ làm gì có!!!?
Cuốn sách “Văn Học Trên Hành Trình Thế Kỷ XX“ CỦA Phong Lê là một
cuốn sách tôi tìm thấy ở trong nhiều chi tiết cũng như lý luận thích
thú. Dù phần đầu với chân dung của 14 khuôn mặt tiêu biểu cũng có
nhiều điều phải coi lại: có Hồ Chí Minh, Tản Đà, Ngô Tất Tố, Hoàng
Ngọc Phách, Vũ Đình Long, Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan, Trương Chính, Hải
Triều, Hoài Thanh, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng. Danh
sách ấy còn thiếu nhiều khuôn mặt và cũng dư nhiều vóc dáng. Và tôi
nhiều khi cố tìm những lý do để Phong Lê chọn lựa những tiêu biểu
như vậy! Tới bây giờ vẫn còn ngờ ngợ phân vân…
Theo Lê Quý Kỳ, một người phê phán nặng nề cuốn sách này thì nhà phê
bình Phong Lê đã bị cách chức Viện trưởng Viện Văn Học vì chủ trương
và suy tư của ông đã biểu lộ trong tác phẩm. Thì có sao đâu, trong
thời buổi đổi thay thay đổi. Đúng, sai, có lúc lẫn lộn, thoảng khi…
Nguyễn Mạnh Trinh |