Thơ, văn, nhạc Giáng sinh
Hôm nay thời tiết đã vào mùa đông và lòng người cũng như ảnh hưởng
theo. Chúng ta lại có thêm một Giáng sinh ở xứ người và hình như bất
cứ ai trong chúng ta đều có những nỗi niềm riêng tư, những kỷ niệm
không quên về thời điểm ấy. Từ quê nhà sang đến xứ người, trong tâm
tư dồn chứa bao nhiêu điều tích lũy, có khi muốn nói mà chưa diễn tả
hết. Cũng may, chúng ta còn có những nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ, cảm
chung nỗi niềm và dùng nốt nhạc, câu thơ, lời văn để chia sẻ với
chúng ta. Giở những trang sách, nghe lại những băng nhạc để thấy
những dòng nhạc, những bài thơ, những truyện ngắn và tác giả của nó
qua chủ đề Giáng sinh.
Đối với tín đồ Thiên Chúa giáo, ngày Giáng sinh có ý nghĩa thiêng
liêng lắm. Nhưng còn người theo đạo ông bà như phần đông người Việt
Nam thì ra sao? có cảm nghĩ gì về ngày lễ Noël Thiên Chúa ra đời?
Với đại đa số dân chúng, lễ Giáng sinh được coi như một ngày lễ lớn
của dân tộc và đó là một nét văn hóa đẹp của chúng ta. Ngày lễ Noël
như một ngày lễ của tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo. Trong
sinh hoạt xã hội và cả sinh hoạt về văn học, ngày lễ ấy có một vị
trí rất quan trọng. Mặc dù Thiên Chúa Giáo mới du nhập vào Việt Nam
từ thế kỷ 19 cho tới nay, nhưng lễ Giáng sinh đã trở thành một ngày
lễ nhân gian của cả nước. Và riêng tôi, có ý nghĩ rằng tôn giáo nào
cũng tốt cũng dạy người ta làm việc thiện nên những ngày lễ là những
ngày nhắc nhở tất cả mọi người đi trên con đường tu thân tu tập
ấy...
Thời điểm này là thời điểm của nhạc Giáng sinh. Ở khắp nơi đều vang
vang những bản nhạc quen thuộc. Nghe nhạc, biết là mùa Giáng sinh
về.
Về nhạc ngoại quốc hay thánh ca Giáng sinh quen thuộc với ngưới Việt
Nam thì White Christmas, Holy Nights, Santa Claus is coming to town,
Jingle Bells, Feliz Navidad, The Little Drummer Boy, Ave Maria,…Còn
nhạc Việt thì nhiều lắm, nào Đêm Thánh Vô Cùng, Đêm Đông Lạnh Lẽo
Chúa Sinh Ra Đời, Mùa Sao Sáng, Chiều Bên Giáo Đường, Kinh Chiều,
Bài Thánh Ca Buồn, Tà Áo Đêm Noël,.. Còn nhạc phổ từ thơ thì Tha La
Xóm Đạo, Mimosa Thôi Nở, Nguyện Cầu, Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo
Tím,..
Chúng ta thấy không khí của Giáng sinh trong ngần ấy những bài hát
không? Trên truyền hình, trên đài phát thanh, trên những chương
trình DVD, CD,.. hay trong quán cà phê, trong các thương xá, mọi nơi
mọi chỗ, không khí Giáng sinh tràn đầy trong những dòng nhạc ấy.
Và trong những bài thơ, có biết bao nhiêu thi sĩ đã nhân ngày lễ này
để viết lên tâm sự của mình. nhưng, phải kể đầu tiên đến thơ Hàn Mặc
Tử.
Ông là một thi sĩ lớn của thi ca Việt Nam. Ông làm thơ bằng cả cuộc
đời đau đớn của mình, bằng bệnh tật ác nghiệt phong cùi dày vò thể
xác ông. Mỗi mùa trăng là mỗi lần ông bị chết điếng trong đau đớn
khi vi trùng Hansen đục khoét trong xương tủy. Thơ của ông kết tinh
từ những cảm giác ấy, từ những nỗi bất hạnh tột cùng của thể xác tận
tâm hồn. Thơ của ông là:
“Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
mỗi lời thơ đều dính não cân ta
bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
như mê man chết điếng cả làn da
cứ để ta mênh mang trong vũng huyết…”
Ông mất khi 28 tuổi sau chuỗi ngày bệnh tật đau đớn. Mộ của ông được
chôn ở nghĩa trang Quy Hòa chỉ cách trại cùi có hơn 200 thước và sau
được gia đình với sự phụ giúp của nhà thơ Quách Tấn đem cải táng tại
bãi biển Ghềnh Ráng gần tỉnh Quy Nhơn. Mộ của ông được coi như một
thắng cảnh trong vùng và được nhắc nhiều đến trong văn chương và âm
nhạc. Linh mục Trần Quý Thiện đã mô tả như sau:
“Mộ phần Hàn Mặc Tử được kiến trúc hình chữ nhật. Trước mộ là một
cây thánh giá lớn bằng xi măng cao 0m50. Trên đầu bia mộ là tượng
Đức Mẹ Maria hai tay giang rộng mắt nhìn xuống mộ vì trước khi chết
Hàn Mặc Tử ước mong được một lần trong đời đến kính viếng Đức Mẹ tại
thánh địa La Vang Quảng Trị nhưng không thực hiện được. Bước lên ba
bậc tam cấp hiện nay du khách có thể nhìn thấy trên tấm bia mộ ghi
rõ tên thánh, họ và tên nhà thơ, ngày sinh và ngày tử cùng tên cha
mẹ và anh chị em lập bia mộ. Năm 1991, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (tức
ca sĩ Nhật Trường người viết bản nhạc Hàn Mặc Tử) cùng một số anh
chị em nghệ sĩ trong nước đã bảo trợ kinh phí để ban Giám Đốc trại
phong cùi Quy Hòa xây một đài tưởng niệm nơi nhà thơ được an táng
đầu tiên tại Khe Nước Ngọc, nghĩa trang Quy Hòa và một nhà Lưu Niệm
Hàn Mặc Tử cũng được thiết lập ngay tại địa điểm mà nhà thơ trút hơi
thở cuối đời.
Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã nhận định về Hàn Mặc Tử trong bộ Nhà
Văn Hiện Đại như sau:
“Hàn Mặc Tử có lẽ là người Việt Nam đầu tiên làm thơ ca ngợi Thánh
Nữ Đồng Trinh Maria và Chúa Giêsu. Ông ca tụng đạo Thiên Chúa với
một giọng rất chân thành. Đây là lần đầu tiên thi ca Việt Nam thấy
được một nguồn cảm hứng mới. Tôi dám chắc rồi đây sẽ còn nhiều thi
sĩ Việt Nam đi tìm nguồn cảm hứng trong đạo giáo và đưa thi ca Việt
Nam vào con đường triết học”.
Chúng ta không thể nào quên khi nói đến Hàn Mặc Tử mà không nhắc đến
bài thơ Ave Maria. Thi sĩ đã làm thơ với lời chào mừng trân trọng
cung kính Mẹ Maria, người nữ tuyệt vời thánh thiện. Cái buốt đau của
thân thể khi cầm bút với những ngón tay co quắp rút lại vì bệnh đã
làm cho thi sĩ như xuất thần để quên đi thực tại và đắm mình trong
một niềm tin tôn giáo vô biên.
Như sóng lộc triều nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể
Và Tổng Lãnh Thiên Thần quỳ lạy Mẹ
Tung hô câu đường hạ ngớp châu sa
Gương xông lên lời ca ngợi sum hòa
Trí miêu duệ của muôn vì rất thánh
Maria ! linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến
Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thanh vẹn
Giàu nhân đức giàu muôn lộc từ bi
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế
Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ
Giọng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua
Trí tôi ướp bao nhiêu là khi vị
Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí
Và trong tay nắm một nạm hào quang...”
Nếu nói Hàn Mặc Tử là một nhà thơ Công giáo, liệu nhận định ấy có
chính xác không? Có người đã đặt câu hỏi ấy.
Đã có một nhận định khá chính xác tương tự như vậy: “Với Hàn Mặc Tử,
thơ là một nét nghệ thuật cao độ đi vào chủ nghĩa siêu linh, là cõi
xuất thế, là bến trăng sao an toàn cho con người ẩn náu khi sống
trong tuyệt vọng khổ đau trong cô đơn của của nhân tình thế thái.
Không ai có thể phủ nhận nét Công giáo trong thơ Hàn Mặc Tử vì chính
ông đã mở rộng biên giới thi ca Việt nam bằng những sáng tạo độc đáo
mà nền giáo dục Công giáo từ cha mẹ, gia đình, trường Pellerin và
gương sống các nữ tu Phan Sinh đã hun đúc hồn thơ của ông. Trong
những ngày cuối đời, ông đã sống như một nhà tu thực sự, cuộc sống
chìm lặng trong câu kinh, lời nguyện pha lẫn với những đớn đau do
bệnh phong hành hạ. Chính nhà thơ đã thổ lộ: ”Trong những ngày cuối
đời, tôi chỉ biết ngâm thơ và cầu nguyện mà thôi…”
* * *
Thơ Giáng sinh mà lãng mạn trẻ trung nhất phải kể đến nhà thơ Nhất
Tuấn và Truyện Chúng Mình. Năm nay kinh tế suy trầm, chắc cũng phải
cảm giác nhẹ nhàng như vậy để quên đi những lo lắng mệt mỏi cuối
năm. Ngày trước 1975, Nhất Tuấn là một nhà thơ mặc dù là quân nhân
nhưng làm thơ trẻ trung mùi mẫm nhất và cũng được phổ nhạc bay bướm
nhất.
Nhà thơ Nhất Tuấn và tập thơ Truyện Chúng Mình có những bài thơ được
phổ nhạc: “Chúa nhật này trẫm nhớ ái khanh không?”, Nguyễn Đức Quang
phổ nhạc, ”Con quỳ lạy Chúa trên trời” Phạm Duy phổ bài thơ
Cầu Nguyện "Mimosa thôi nở” Đan Thọ phổ nhạc ”Xin trả Lại Em”
Hoàng Lang phổ nhạc, ”Hoa Học trò”, “Niềm Tin” Anh Bằng phổ nhạc…
Tổng cộng có hơn 40 bài thơ được phổ nhạc trong thời gian từ 1959
đến bây giờ… ông là một sĩ quan cấp tá tốt nghiệp trường Võ Bị Đà
Lạt, làm quản đốc Đài Phát Thanh Quân Đội. Nhưng thơ của ông được
giới trẻ ưa thích vì có những tâm tình ngôn ngữ trẻ trung thơ mộng
giống họ. Tập thơ Truyện Chúng Mình gồm 5 tập và được coi là một tập
thơ có nhiều độc giả nhất. Truyện Chúng Mình kể về chuyện đôi lứa.
Nhưng cũng có nhiều bài thơ về Giáng sinh và lại được phổ nhạc nữa.
Trong cái không khí lạnh lẽo của mùa đông, nghe bản nhạc phổ thơ
Nhất Tuấn do nhạc sĩ Đan Thọ: ”Mimosa thôi nở” làm cho người ta hay
nghĩ về quá khứ. Có chút tình tứ lãng mạn dù hơi buồn một chút vì
“tình chan chứa” mà … “mộng không thành”!
Trong Truyện Chúng Mình có bài Mimosa Thôi Nở với những câu:
“Noël xưa anh nhớ
khi hãy còn yêu nhau
nhà thờ nơi cuối phố
thấp thoáng sau ngàn dâu
anh chờ em đi lễ
chung dâng lời nguyện cầu
mimosa bừng nở
đẹp như tình ban đầu
Đà Lạt mờ trăng lạnh
Đường về ta bước mau...”
Cùng nhau đi lễ Noël, hỏi nhau về ước vọng xưa sau. Em nắm tay anh
và hồng đôi má. Sao tình tứ quá. Nhưng…Kết cuộc bài thơ đích thị là
một chuyện buồn bã dở dang :
“mới bốn mùa thu qua
mimosa vẫn nở
sao mối tình đôi ta
ai làm cho dang dở
đêm này Noël đây
chuông nhà thờ khắc khoải
gió đồi lang thang bay
mưa buồn giăng ngõ tối
anh quỳ bên tượng Chúa
cúi đầu chắp hai tay
lạy chúa con chờ đợi
người ngày xưa về đây
nhưng em không về nữa
đường khuya mưa bay bay
Mimosa thôi nở
Trong hồn anh đêm nay.
Nhạc sĩ Đan Thọ phổ bài thơ này thành nhạc làm bao nhiêu con tim
thanh xuân nhức nhối. Một bản nhạc khác từ bài thơ ”Con quỳ lạy chúa
trên trời “ mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thì cũng hay không kém.
Bài thơ lục bát “Cầu nguyện“, bài thơ đầu của tập thơ Truyện Chúng
Mình tập 1, được chuyển thể cũng lãng mạn tình tứ không thua “Mimosa
thôi nở”...
Bài thơ ấy nguyên văn như sau với một câu chuyện kể lại bằng thơ,
rất mộc mạc nhưng lại gần gũi với cuộc đời thường. Cũng là chuyện
một chàng trai quỳ bên tượng Chúa cầu nguyện cho có được giai nhân
cùng mình chung sống đến cuối đời. Nhưng lại là cuộc chia phôi. Vì
người tình đã bỏ đi. Thơ man mác, tuy chỉ buồn thôi và vắng giọt
nước mắt. Thơ nén trong tim những nỗi buồn bằng ngôn ngữ đơn sơ...
“Con quỳ lạy Chúa trên trời
để cho con thấy được người con yêu
đời con đau khổ đã nhiều
kể từ thơ dại đủ điều đắng cay
số nghèo hai chục năm nay
xây bao nhiêu mộng trắng tay vẫn nghèo
mối tình đầu chót bọt bèo
vì người ta thích chạy theo bạc tiền
âm thầm trong mối tình điên
cầm bằng Chúa định nên duyên bẽ bàng
bây giờ con gặp được nàng
không giàu, không đẹp không màng lợi danh
chúng con hai mái đầu xanh
chắp tay khấn nguyện trung thành với nhau
thề nhau sóng gió bể dâu
để yêu... trước cũng như sau,.. giữ lời
Người ta lại bỏ con rồi
Con quỳ lạy Chúa trên trời thương con”
Mỗi lần khi Giáng sinh về, nghe lại bản nhạc ấy, tự nhiên sao tôi
nhớ quá những ngày mình còn trẻ. Cũng ngây ngô và mộng ước như thế.
Nhưng, chỉ là giấc mơ không thực mà thôi. Mấy ai, trong mối tình đầu
tiên mà không vấp ngã... Có người hỏi. Chứ không phải là thi sĩ
thường hay dùng cái lối “thơ viết đừng xong, thuyền xuôi chớ đỗ /
cho nghìn sau lơ lửng với nghìn xưa” như Hồ Dzếnh sao? Ông thi sĩ nào
cũng kêu ầm lên thất tình như một cái mode. Như trường hợp thi sĩ
Nhất Tuấn, đào hoa trong đời thường nhưng vẫn rên lên vì bị thất
tình và người yêu phụ rẫy…
Thơ phổ nhạc của Truyện Chúng mình còn nhiều lắm... Đơn cử như bài
Niềm Tin chẳng hạn. Thơ được phổ nhạc và được hát mỗi mùa Giáng sinh
từ trước năm 1975 ở trong nước và sau năm 1975 ở hải ngoại.
“lại một Noël nữa
mấy mùa Giáng sinh rồi
anh ở đồn biên giới
thương về một khung trời
chắc Đà Lạt vui lắm
mimosa nở vàng
anh đào khoe sắc thắm
hương ngào ngạt không gian
mấy mùa Giáng sinh trước
chỗ hẹn anh chờ hoài
lần này không về được
hồi hộp đợi tin ai
em biết không đời lính
nắng sớm với sương chiều
gió rừng rồi mưa núi
đã làm anh vui nhiều
ở đây anh chờ sẵn
đón thánh lễ truyền thanh
xin Chúa ban ơn xuống
cho em và cho anh
cũng cầu cho thế giới
cho nhân loại hòa bình
cho đôi ta gặp lại
trong một mùa Giáng sinh.”
Nhạc sĩ Anh Bằng đã phổ nhạc bài thơ này. Vẫn ngôn ngữ bình thường ý
tứ đơn sơ nhưng lại tạo được sự thích thú cho người nghe chính vì
cái đơn giản, dễ hiểu, dễ cảm ấy.
Ưu điểm nổi bật nhất của Nhất Tuấn là sự chân thành đến nỗi ngây
thơ. Trong cái hồn nhiên của tuổi trẻ, thi sĩ thi vị hóa những hành
động vụng dại của những người trẻ yêu nhau. Chúng ta, thời tuổi trẻ
ai mà không có những lúc ấy, lúc mà con tim thôi thúc để vượt qua
những rào cản kỷ luật của trường học và trường đời. Bài thơ này cũng
được phổ nhạc và cũng là một bản nhạc làm xao xuyến bao nhiêu con
tim đang yêu đang mộng:
“Chỉ tại anh nên hôm qua về trễ
cứ ”phim hay tài tử trứ danh” hoài
anh quảng cáo và “tô màu’" giỏi thế
hỏi ai còn nỡ thất hẹn ngày mai?
Chỉ tại anh nên trời thu đổi gió
Mimosa.. phủ kín mặt đường khuya
Vương đầy tóc em bắt đền anh đó
Gỡ giùm đi, đứng cười mãi.. ô kìa
Chỉ tại anh em về nhà không ngủ
Trằn trọc hoài thao thức suốt một đêm
Và bỗng thấy hình như là thoáng nhớ
Đến một người.. không biết lạ hay quen
Chỉ tại anh nên hôm nay dậy muộn
Sáng thứ hai bỏ mất một giờ đầu
Bốn “công si” cô giáo gìa …ác gớm
Còn bắt em chép phạt mấy trăm câu
ngày thứ tám em vào ngồi chép phạt
Mấy trăm câu mà chép mãi không xong
Bà giám thị cầm giấy xem, chỉ thấy:
- Chủ nhật này ”Trẫm“ nhớ Ái Khanh không?
Hồn nhiên, vô tư, ngây thơ, táo tợn, nhưng lại dễ thương! Cô gái trẻ
đang yêu của thơ Nhất Tuấn.
Tập thơ Truyện Chúng Mình chỉ là chuyện riêng của ông và người tình
thôi mà sao lại được hâm mộ đến như thế?
Tuy tập thơ ấy chỉ là kể chuyện riêng của hai người nhưng đọc thơ
xong độc giả sẽ tưởng rằng có mình ở trong đó và chữ “chúng mình”
là của riêng người đồng điệu chứ không phải ai khác. Xem thơ mà tưởng
có mình ở trong, vì lời thơ hồn nhiên, ý thơ thành thật, điệu thơ nhẹ
nhàng như ngầm chứa nhạc tính ở trong. Thơ viết về những kỷ niệm,
rất bình thường vì có thể ai cũng có kỷ niệm và tâm sự như thế. Tình
yêu trẻ trung thường đẹp và gợi nhớ đến những giấc mộng ngây thơ. “Truyện Chúng Mình“ có nhiều độc giả ái mộ không phải là chuyện lạ!
Có rất nhiều người đồng điệu đã xẻ chia ý nghĩ với thi sĩ Nhất Tuấn.
Thái Thủy, Đỗ Tấn, Thẩm Thệ Hà, Thanh Nam,.. và nhất là Đinh Hùng:
“... Bài thơ đầu tiên của nhân loại là một bài thơ tình giữa Adam và
Eve. Kẻ nào không biết yêu hoặc không thể yêu được nữa là kẻ bị
thiệt thòi nhất. Cộng sản cũng chỉ vì không biết thương yêu, không
có thơ tình, không biết bói tiếng “anh” và tiếng “Em” cho ngọt ngào
uyển chuyển cho nên mới làm nhiều chuyện phi nhân, người chiến sĩ
phụng sự cho Tự Do Chính Nghĩa từ trong tâm linh chính là người
chiến sĩ vẫn hằng ấp ủ một bài thơ tình diễm tuyệt để tặng “Em”… Tôi
chờ đợi Truyện Chúng Mình của Nhất Tuấn như một kẻ tình nhân chung
thủy chờ đợi tình thư của người yêu. Chắc rằng tất cả những người ”đã yêu, đang yêu và sắp yêu” cũng sẽ tìm thấy phần nào bóng dáng tâm
hồn họ khi đọc Truyện Chúng Mình…
Ngày mười bảy tuổi, thi sĩ thành một người trưởng thành sớm hơn tuổi
để trong dịp Giáng sinh cao giọng cất rao lời kêu gọi loài người.
Thơ chững chạc trong sự suy nghĩ của một cậu bé òa vỡ những cảm giác
của một thời những giấc mơ, những mộng uớc của mai sau:
“Hỡi loài người hãy quỳ gối cùng tôi
đêm nay sẽ thấy ý đời trở lại
đêm nay sẽ thấy ý đời thôi khổ ải
sẽ thấy đời tràn ngập cảnh yêu thương
những tràng chuông dồn dập giữa đêm trường
cùng bao ánh mắt dịu hiền trao trả
hỡi loài người hãy cùng tôi quì gối
đón hòa bình trong sóng nhạc đêm nay
mỗi âm thanh là ánh mặt trời này
ôi bất diệt hòa bình ơi bất diệt”
Tôi đọc bài thơ Giáng sinh ấy trong tập thơ “Sinh nhật của một
người không còn trẻ” của nhà thơ Lữ Quỳnh. Cái cảm giác "không còn
trẻ” có phải là chưa về già, hình như trong tâm cảm và thơ có điều
gì, nửa như tiếc nuối, nửa như nhớ về. Ở đời thường, thi sĩ là một
người dễ mến với nụ cười trên môi qua đôi mắt long lanh sau đôi kính
cận. Thế mà, đọc thơ sao nghe như có một điều gì lặng lẽ tha thiết
trong tâm. Thơ là ngôn ngữ của lặng thầm, và là những hồi ức mà suốt
đời thi sĩ không bao giờ quên được. Thời gian mấy chục năm, đối với
lịch sử đất nước chỉ là một chớp mắt. Nhưng với một đời người, thì
lại là khoảng cách rất lâu. Thi sĩ đã đi và về, trong khoảng cách ấy
bằng thơ. Nếu nói thơ là đời sống, không biết có phải là nhận định
vội vàng không? Ở cảm quan của một người đọc, tôi thấy như vậy!
Những câu thơ đã thành ý tưởng tiền chế cho một cảm giác chia sẻ, để
như thấy lại một không gian cũ, một thời gian xưa. Thơ không phải kể
chuyện đời sống, mà, chính nó là cuộc sống.
Sinh nhật tôi
Một ngày tháng chạp
Những ngọn nến thắp
Là hồi ức buồn.
Những người sinh vào tháng chạp, ở thời điểm cùng tận của một năm đã
thắp lên một ngọn nến để soi tỏ lại dung nhan cái hồi ức của mình.
Giản dị chỉ có vậy, nhưng trong liên tưởng tôi thấy bàng bạc một mùa
đông. Một nỗi niềm nào từ không gian, thời gian lan tỏa tới làm bước
chân quay trở lại về quá khứ. Không gian ấy, thời gian ấy, có phải là
vương quốc của thơ đang ngự trị?
Một nhận xét đầu tiên, là một nghịch lý. Trong khi chúng ta nói về
tình yêu lúc tuổi trẻ và thời thế lúc tuổi già. Thì ngược lại, Lữ
Quỳnh đã làm thơ để suy nghĩ về đời sống, nói lên những cảm nhận về
thời cuộc lúc còn trẻ, rất trẻ. Và, ông làm thơ về tình yêu với
những tình cảm trầm lắng vào lúc tuổi già. Nếu không có những dòng
ghi ngày tháng sáng tác ở cuối mỗi bài thơ, có lẽ tôi sẽ bị sai lầm
mà nghĩ theo lệ thường như vậy…Trẻ và già, ở tùy từng người. Có khi
trẻ ở tuổi bảy mươi tám mươi và già ở tuổi hai mươi, hai mốt. Điều
đó, đâu có gì là lạ lùng, nhất là đối với những thế hệ đã trải qua
nhiều biến động thử thách của thời thế như Lữ Quỳnh. Với người thơ,
cái ý niệm thời gian và không gian có khi chỉ là biểu kiến. Thơ vượt
qua những khoảng cách tháng năm, có thể chứ sao không? Trong cảm
giác của người đọc thơ, tôi lờ mờ thấy qua con chữ những ngỏ lời rất
lặng thầm nhưng lại hằn dấu trong tâm thức, Thơ về hồi ức hay là hồi
ức, tôi tự hỏi khi đọc từng bài trong “Sinh nhật của một người không
còn trẻ”…Bài thơ trên tác giả làm vào dịp Giáng sinh năm 1956, đất
nước chưa chiến tranh nhưng không hiểu tại sao một cậu bé như thế
lại viễn kiến xa hơn một tương lai sẽ đến của một đất nước khói lửa…
...
Xem
tiếp.
Nguyễn Mạnh Trinh |