
Gabriel Garcia Marquez |
Có một giả dụ kỳ
thú mà tôi đọc từ Linda Carson, một bỉnh bút nổi tiếng của New
Yorker viết về nhà văn châu Mỹ La Tinh nổi tiếng giải Nobel văn
chương năm 1982:
“Tưởng tượng G. G. Marquez đang cố gắng sửa chữa lại chương sách
cuối của tác phẩm mới nhất trong khi hai học trò, Amy và Bruce
bước vào.
AMY : Helo, chúng
tôi xin được học nói tiếng Tây Ban Nha!
GG. MARQUEZ : các bạn muốn học ngôn ngữ tây Ban Nha? Tốt lắm,
chào mừng các bạn.
BTUCE : Nhưng tất cả không chỉ như vậy, thày hiểu chứ..
AMY : ồ, không, có thể chỉ là một chữ ngắn.
GG Marquez chưng hửng. Một chữ ngắn.
BRUCE : hoặc một thứ dễ thương!
GG MARQUEZ : Một thứ dễ thương?
AMY : có thể chúng tôi dùng một danh từ?
GG MARQUEZ : Danh từ à? Các bạn chỉ muốn dùng danh từ?
BRUCE : Vâng, danh từ dễ thương..
GG Marquez đột nhiên mệt mỏi: Dĩ nhiên ngôn ngữ Tây Ban Nha
nhưng chỉ đúng một danh từ ngắn, dễ thương..
AMY : Đúng rồi..
GG MARQUEZ : các bạn có phải là người Spanish? Văn phòng của
Umberto Eco đã dời xuống tầng dưới của sảnh đường. Tôi nghe rằng
ngôn ngữ của người Ý cực kỳ dễ thương. Nhiều danh từ lắm
BRUCE : chúng tôi muốn nói tiếng Tây Ban Nha ..
GG MARQUEZ : tại sao?
AMY : Ricky Martin nói tiếng Tây Ban Nha..
BRUCE : Thầy biết Ricky Martin chứ?
GG MARQUEZ: Không phải nhân vật ấy, không…
AMY: Vậy à, tôi nghĩ mọi người nói tiếng Spanish đã hiểu biết về
tên tuổi ấy.
GG MARQUEZ: ồ, với lòng thương yêu của Thượng đế, chúng ta không
cùng chung một lục địa
Bruce thì thầm với Amy: Người nói tiếng Tây ban Nha đều dễ động
lòng..
GG MARQUEZ: (bực bội) Rồi. Cả lớp ngày thứ ba. Lấy sách giáo
khoa phần tiếp theo
AMY: ồ , sách giáo khoa, chúng tôi không đọc sách chữ Tây Ban
Nha hoặc hiểu biết khi đàm thoại nó. Chúng tơi muốn nói ngôn ngữ
ấy..
GG MARQUEZ : thượng đế ở trên trời , tại sao?
BRUCE : tại sao à ? ô, tôi thích quần áo..
Marquez nhăn mặt,
AMY : Tôi nghe người Spanieh rất tình cảm.
BRUCE: và dâm đãng nữa, như bản chất ngoại lai…
Marquez không thốt nên lời.
Amy thì thầm: và họ dùng thật nhiều ma túy…
CATHY (một học trò khác) :Xin lỗi. Tôi đã học một bài học về
ngôn ngữ tây Ban Nha sáng nay. Và có giải thích nào cho tôi tại
sao mọi người nói chuyện Don Quixote là một tiểu thuyết vĩ đại?
Bởi vì tôi không nhận thấy như vậy..
Ngưng lặng !
Cathy: Và tôi sẽ dành riêng một giải thưởng cho Cervantes ..”
Mẫu đối thoại trên
là một lối nói ám chỉ một phương cách thẩm thấu văn chương tệ
hại. Người học trò muốn biết vẽ mà không chịu học cách kẻ đường
thẳng, không chịu học cách pha màu, không chịu bẩn bàn tay vào
công việc ký họa. Cũng như muốn lái xe mà không chịu học cách
cầm lái, muốn nhận thức cái đẹp của nghệ thuật mà không chịu
ngắm nhìn suy tưởng. Cũng như những học trò của GG Marquez, muốn
đọc và tìm kiếm sự tân kỳ mà không chịu tìm hiểu từ những ý thức
và sự kiện bắt đầu. Cũng như đọc “Trăm năm cô đơn” mà không chịu
tìm hiểu lịch sử xứ Colombie, cũng như trải qua những biên niên
sử nhiều đời qua sách vở mà không chịu đối chiếu với thực tế. Và
mẫu đối thoại trên đã mở cánh cửa cho tôi, đi vào thế giới của
hiện thực và huyền ảo trộn lẫn..
Hình như, ở một
lúc nào đó, người ta hay nghĩ đến tuổi già. Nhưmg nghĩ là một
chuyện, cảm giác thực sự chỉ có khi trải qua mới hiểu được. Lúc
bốn mươi tuổi, suy nghĩ khác. Năm mươi. Sáu mươi . Bảy mươi. Mỗi
một thời kỳ, một cảm giác, một đời sống. Khác biệt. Những ý nghĩ
bất chợt mà thời gian trước chưa hề mảy may có, lúc đó nảy sinh.
Tình yêu và tính dục là những câu hỏi lớn. Ở tuổi già, sẽ ra sao
? Bình thường hay khác thường ? Những vấn đề chỉ mở ra khi vừa
đến tuổi không thắc mắc mà sẽ đến. Và tự nhiên, hiểu được cái lẽ
tuần hoàn của vũ trụ, của cõi nhân sinh ?
Gần đây, tôi có dự
một đám cưới khá vui. Và đặc biệt nữa. Chú rể, một cụ ông gần
tám mươi. Cô dâu, một cụ bà trên bảy chục. Tiệc cưới linh đình,
quan khách đông đảo, lễ nghi hôn nhân đầy đủ. Trông hai ông bà
cụ tóc bạc da mồi trao nhẫn cưới và hôn nhau, tự nhiên tôi thấy
tình yêu vượt qua tuổi tác thật đúng. Dù quỹ thời gian gần cạn,
tuổi gần đất xa trời, con cháu đầy đàn, họ vẫn tìm đến nhau.
Chắc yêu nhau thắm thiết lắm. Một người kể họ yêu nhau từ lúc
còn trẻ, nhưng vì hoàn cảnh không lấy được nhau thời đó. Bây
giờ, cả hai góa bụa và đốt lại bếp ấm hạnh phúc sau nhiều chục
năm dang dở…
Có người chia xẻ
với niềm vui của hai cụ ông cụ bà. Nhưng cũng có người dè bỉu.
Thật già chưa trót đời mà còn bầy đặt phô trương. Cao tuổi rồi
còn ham hố gì nữa. Sao không lặng lẽ đến với nhau mà rình rang
làm chi cho thiên hạ lắm lời để ý.!!
Không phải những
lời thị phi ấy hoàn toàn ác ý. Nhưng với tôi trong thâm tâm, có
một chút suy nghĩ. Tại sao lớn tuổi mà không thể kết hôn một
cách bình thường như mọi người? Tại sao? Tôi thắc mắc….
Có phải vì khuôn
rào hẹp khiến người ta có những vô tình ác ý. Quan niệm về tình
yêu chẳng lẽ ngoại trừ với người già ? Tôi chợt nghĩ đến một
tiểu thuyết của Gabriel Garcia Marquez. Y hệt như hoàn cảnh của
nhân vât trong “Amor En Los Tiempos Del Colèra“ (Tình Yêu Thời
Dịch Tả) Chỉ khác là ở đây hai ông bà cụ công nhiên lấy nhau.
Còn, nhân vật trong tiểu thuyết không đởm lược như thế. Họ phải
trốn lánh xã hội trên một chiếc tàu để chia xẻ với nhau những
ngày hiếm hoi còn lại…. Con tàu mang cờ hiệu của những người
mang bệnh dịch tả.
Tiểu thuyết nổi
danh ấy của G.G. Marquez là câu chuyện tình mê đắm của hai người
: Florentino Arisa và Fermina Daxa hai người yêu nhau và để ý
đến nhau từ buổi thanh xuân. Chàng thì con nhà nghèo, con của
một bà bán hàng lẻ trong khi gia đình nàng là một nhà buôn giàu
có mới nổi nhờ mánh mung gian lận. Họ yêu mhau nhưng không lấy
được nhau vì bức tường môn đăng hộ đối cũng như chính bản thân
họ cũng có những ý nghĩ nông nổi đánh giá trị con người qua hình
thức bên ngoài và tiền bạc. Tuy vậy, họ vẫn không thể quên những
kỷ niệm tình yêu với nhau suốt cả cuộc đời. Nàng đi lấy chồng
một bác sĩ giàu có con nhà thế phiệt nhưng không hạnh phúc kiểu
“đi bên cạnh cuộc đời”. Còn chàng, thất tình nên lao vào những
cuộc phiêu lưu cả tình ái lẫn sự nghiệp. Chàng nhất định phải
làm giàu bằng mọi giá và đã thành một ông chủ hãng tàu thủy giàu
có như vẫn mơ ước. Chàng lao đầu vào những cuộc giao du tình cảm
và dan díu với nhiều người đàn bà : từ gái tơ đến nạ dòng, từ
gái già chồng chê đến gái trẻ chê chồng. Nhưng bất cứ lúc nào và
bất cứ với ai, cũng chỉ thỏa mãn nhất thời của dục vọng. Chàng
không thể nào quên Fermina Daxa và ôm ấp một dự tính sẽ cưới
nàng khi người chồng nàng chết. Chàng khắc khoải chờ đợi lúc đó.
Khi ấy cả hai đã trên bảy chục tuổi thì bác sĩ Ucbino De La Cadé
từ trần. Cả hai, với sự từng trải hiểu đời và với địa vị đạt
được trong xã hội, tìm đến với nhau nối lại tình xưa. Dù đắm
đuối mê say, dù tình cảm càng lúc càng nồng cháy nhưng họ cũng
không thể nào vượt qua những trở ngại từ những ràng buộc của đại
gia đình, hoặc những lề thói quan niệm cổ hủ. Họ trốn tránh thế
sự thường hằng sống với nhau trên một con tàu lênh đênh trên
dòng sông Madaglena. Con tàu mang cờ hiệu màu vàng, của những
người mang trong cơ thể mầm mống của bệnh dịch nguy hiểm nhất
thời ấy : thổ tả…
Gabo (tên thân mật
của G. G. Marquez) muốn nói gì trong thiểu thuyết này? Có phải,
tình yêu vẫn có dù khi ấy người ta già cả? Có phải, định kiến
chật hẹp và lời nói thị phi của xã hội là ngục tù giam hãm con
người vào trong những ràng buộc không thể thoát ra? Trái tim tuy
không có tuổi tác nhưng trong lề thói thường hằng vẫn có sự khác
biệt giữa trẻ và già, có phải? Từ một ví von, tình yêu có phải
là mầm bệnh thổ tả, phát sinh từ những cuộc sống mà giá trị con
người được nhìn ngắm và đánh giá bằng tiền bạc địa vị chức tước?
G G Marquez đã vẽ lại xã hội châu Mỹ La Tinh ảnh hưởng văn hóa
Tây Ban Nha với tất cả nồng nàn dục tính của con người vùng
nhiệt đới…
Trong bài viết
“Một cuốn tiểu thuyết được viết như thế nào?”, tác giả đã thổ
lộ… Định bụng tìm ra giải pháp, tôi trở lại đọc hai cuốn tiểu
thuyết mà tôi tin rằng chúng có ích đối với mình. Cuốn đầu tiên
là cuốn “Giaó Dục Gia Đình” của nhà văn Flaubert. Cuốn sách này
tôi chưa hề đọc trong thời xa xưa khi còn mài đũng quần ở đại
học và giờ đây nó chỉ giúp tôi sửa chữa những chỗ tình cờ giống
nhau có thể gây nên những nghi hoặc không tốt. Nhưng, nói cho
cùng nó cũng chẳng giải quyết được bao nhiêu. Cuốn sách khác mà
tôi đọc là tiểu thuyết “Ngôi nhà của những mỹ nhân đang ngủ”của
nhà văn Nhật bản Yasunari Kawabata, cuốn sách mà cách đây ba năm
gây chấn động tận tâm não mình và hiện nay vẫn là một tác phẩm
tuyệt diệu. Nhưng lần này nó cũng chẳng ích lợi gì cho tôi vì
tôi đang tìm hiểu cách cư xử tính dục của các cụ già Nhật Bản và
thoạt đầu nó cũng như tất cả những gì thuộc về người Nhật và dĩ
nhiên nó chẳng liên quan gì đến cách thức cư xử tình dục của các
cụ già ở vùng eo biển Caribeen,…”
Nhưng, tác phẩm
khiến G.G. Marquez đoạt giải Nobel Văn Chương năm 1982, lại là
“Cien Anõs De Soledad” (Trăm năm Cô Đơn). Thế giới của truyện là
một thành phố nhỏ gọi là Macondo, ở bên bờ sông của vùng
Cienega, giống như thành phố Aracataca, nơi sinh trưởng của ông.
Trong không khí huyễn hoặc đặc sệt chất nóng bỏng của châu Mỹ La
Tinh, những nhân vật đã sống, đã nghĩ, đã làm tình, đã ưu tư mà
sự diễn tả đã chắt lọc đến phần sâu thẳm nhất. Câu chuyện xoay
chung quanh gia đình Buendia đến lập nghiệp tại một thị trấn giả
tưởng Macondo và khời đầu từ trí nhớ của Đại tá Aureliano
Buendia đối diện với đội lính xử bắn và kế tiếp những truyện
truyền kỳ qua lời kể tử trí nhớ của nhiều nhân vật. Chuyện kể về
người cha là José Arcadio Buendia và người mẹ là Ursula Iguarán,
người du tử gypsy Melquiades, cùng với một nhóm những người lưu
lạc định cư ở thị trấn Macondo. Đời sống ở đó về vật chất thì
thiếu thốn vì bị cô lập với bên ngoài và tinh thần thì rất cô
độc, không hiểu biết gì về thế giới đang sống. Một người sống
lưu lạc, lang thang là Melquiades có được một cuốn sổ viết bằng
ngôn ngữ “sanskrit” trong đó ghi chép lại lịch sử cũng như số
phận của gia đình Buendia và cuốn sổ này sẽ được làm rõ ràng
trước khi người thành niên cuối cùng của giòng họ Buendia qua
đời.
Trong cái không
khí huyền hoặc của thị trấn Macondo, một nơi chốn hầu như nằm
ngoài sinh hoạt của con người, một lịch sử truyền kỳ kéo dài đến
6 đời với một nỗi hãi sợ dai dẳng kéo dài thành ám ảnh bắt đầu
từ hai vợ chồng người tộc trưởng có họ hàng với nhau lấy nhau và
sợ sẽ có những đứa con dị dạng có đuôi heo. Người vợ từ chối
liên hệ tình dục với chồng luôn đeo trong người một loại khóa
trinh tiết để ngăn cấm chồng ăn ở vì sợ sẽ đẻ ra những đứa con
có hình dạng của ác quỷ. Trong khi bị chế nhạo vì chuyện này,
người chồng đã giết người bạn bằng ngon giáo xuyên cổ và từ đó
hồn ma người chết đã đi theo bịt hong kẻ thù. Bị ám ảnh khủng
khiếp nên hai vợ chồng phải đi vào rừng sâu trốn lánh và dựng
nên thị trấn Macondo với giấc mơ một thành phố có những bức
tường kính lộng lẫy. Và từ đó, giòng họ cứ nối tiếp nhau sinh
sống trong lãnh địa của cô đơn ấy .
José Arcadio và vơ cùng với một nhóm 20 người đã định cư để tạo
dựng một xã hội sơ khai, mà ngay cả ngôn ngữ cũng thiếu thốn,
không đủ danh từ để gọi các đồ vật hàng ngày. Người con thứ hai
của gia đình là Aureliano, người sau này mang danh Đại Tá, mừng
sinh nhật ở thị trấn heo hút này và những trang biên niên sử
tiếp theo với niềm cô độc và dinh hoạt chán chường.
José Arcadio tổ
chức nơi này thành một cộng đồng nhỏ bé nhưng chặt chẽ và nhất
là phải thiết kế đường xá cũng như nhà cửa trong bóng mát để
tránh cái nắng nóng bỏng nhiệt đới. Khi nhiệt độ lên cao, mọi
người phát rồ dại. Chim muông thú vật nổi điên tấn công nhà cửa
loài người và cư dân thì bị dịch mất ngủ trầm trọng đến độ mất
trí nhớ.
Khi trí nhớ bị tàn
phá, José Arcadio phải làm ra một tự điển sơ khai bằng máy điện
toán liệt kê hơn 14 ngàn từ ngữ thông thường thì anh chàng lãng
tử Melquiades trở về vói liều thuốc để chữa bệnh. Sự kiện óc nhớ
bị hủy hoại tương tự như bệnh chứng lão suy và liều thuốc chữa
trị là hiện tượng của một cách trở về với lịch sử, từ khoảng
thời gian xác định theo năm tháng hoặc ấn định bằng tâm lý, là
một phương cách để lạc về thế giới cô đơn kỳ quái. Giống như
những lời kinh Cựu ước, mọi vật tái hiện từ ngôn ngữ, tất cả
khởi đầu bằng trí nhớ của đứa trẻ khi nó phát hiện được những
cảm nhận đầu tiên. Với GG Marquez. Đứa trẻ ấy có thể là Đại tá
Aureliano Buenodia, nhưng cũng có thể là người cha José Acardio
Buenedia…
Ở Macondo, tác giả
trải dài ra một trăm năm truyền kỳ, với những mẫu nhân vật có
thật nhiều tính thời đại. Trong nét cổ kính có lẫn chua chát
khôi hài, trong nét lãng mạn có tả chân hiện thực. Nền văn minh
Âu tây đã pha trộn với truyền thống bản xứ thành một hỗn hợp đặc
sắc. Những công ty Mỹ Châu lập những đồn điền chuối bạt ngàn tạo
thành những nếp sống khá đô thị cho một nét tương tự của những
đời sống ở thủ đô Bogóta. Một thế giới được gọi là thế giới hiện
thực huyền ảo (magic realism). Năm 1967, với “Trăm Năm Cô Đơn”,
G.G. Marquez đã tạo một tác phẩm tuyệt tác không thể vượt trội
hơn nữa được của văn chương thế giới. Nó đã trở thành một biểu
tượng cho nền văn học Châu Mỹ La Tinh. Một lối kể truyện kỳ lạ
có lúc đã trở thành một cái “mode“cho các nhà văn thời danh trên
thế giới. Cùng với bóng tròn và những tài danh cầu thủ lừng lẫy,
dòng văn học với những Octavio Paz, Pablo Neruda, Mario Vasgas
Ilosa, Jorge Luis Borges, G.G. Márquez,.. thành một nét đặc sắc
cho văn minh Châu Mỹ La Tinh.
Có người đã phê
bình “Trăm năm Cô Đơn“ tựa như một cơn bão nhiệt đới muôn sắc
tuyệt vời nhưng phức tạp… Cũng như có người đã viết : Một con
vẹt có thể triết lý như một triết gia. Những hồn ma có thể lên
dương gian để tâm sự với người còn sống. Một chính trị gia tham
nhũng tồi tệ thân thể tan rã nát mục nhưng không bao giờ chết.
Một nhân vật có thể mọc đôi cánh của thiên thần. Một nhân vật
khác có thể là quái thai dị dạng với cái đuôi heo. Một nhân vật
khác có đời sống dài tới 199 năm. Và mưa, mưa rơi liên tiếp suốt
một thế kỷ. Hay là mưa rải những đóa hoa vàng xuống cả một miền
đất đai. Đó là những nét độc đáo của lối kể chuyện “hiện thực
huyền ảo”
Theo Frank Roh
định nghĩa, hiện thực huyền ảo là một từ ngữ có từ năm 1925 để
chỉ một loạt hình nghệ thuật thể hiện những cảnh huyền ảo hoặc
tưởng tượng bằng nét vẽ chính xác rõ ràng của kỹ thuật hội họa
tài liệu. Marquez đã áp dụng trong văn chương, tạo một lối ghi
chép biên niên sử kéo dài cả trăm năm, từ lúc bắt đầu tạo dựng
một lãnh địa đến lúc bị toàn thể tàn phá bởi cơn dông bão.. bắt
đầu là Eden và kết thúc là Apocalipse. Hiện thực huyền ảo nới
rộng từ tính chất của hiện thực tới những huyền thoại mênh mông,
với những hiện tượng đặc thù của thiên nhiên...
Hiện thực huyền ảo
có người định nghĩa rằng đó chính là những cá tính của thực thể
được khai triển và làm cho sâu rộng hơn với sự trộn lẫn của ma
thuật, của ảo tượng, của nhiều hiện tượng cá biệt của thiên
nhiênhoặc những kinh nghiệm mà hiện thực Âu Châu không đếm xỉa
tới. G. G. Marquez đã dùng những kỹ thuật tạo dựng tiểu thuyết
từ truyện ngắn với cách xử dụng ngôn ngữ để tạo một thế giới
riêng. Ở đó, người ta sẽ ngơ ngác vào một mê cung để xóa nhòa
ranh giới giữa ảo và thực, giữa điều huyền hoặc tưởng tượng hay
sự thực tái tạo. Một thí dụ hiển nhiên là kỹ thuật áp dụng trong
truyện ngắn “A very old man with enormous wings“ nơi mà thiên
thần sa xuống đất từ một cơn cuồng phong tàn bạo. Khi Pelayo và
Elisenda tìm thấy được thiên thần họ bị thảng thốt khi tường tận
chân dung và không thể nào cất lên một câu hỏi nào về sự vật
hiện thực. Trường hợp trước mắt rõ ràng quá đến nỗi không bao
giờ tưởng được đó không phải là sự thực, tuy nhiên, hình ảnh
thiên thần tự nó đã thành một biểu tượng của kinh ngạc.
“Hắn là thiên
thần, cô nói với mọi người” Hắn sẽ đến như một đứa trẻ, nhưng
người bằng hữu khốn khổ ấy già lão để cơn mưa quật ngã rớt
xuống…”
Câu truyện được kể
trong sự lôi cuốn của một chuyện ngụ ngôn đầy ẩn ý. Sự thực được
phối hợp với huyền ảo để tạo thành thiên thần và xuất hiện như
một chấn động lớn. Không khí của truyện thật đặc biệt, giữa mơ
hồ điều hữu lý và điều vô lý, giửa cái sờ được bằng tay, nhìn
thấy bằng mắt và những ảo giác như thật trong trạng thái vô thức
để thành một sự kiện tưởng là hiển nhiên.
GG Marquez đã tạo
thành một trường phái văn chương trên thế giới và khá nhiều
người chịu ảnh hưởng. Nó chuyên chở một loại thực tại cấu thành
từ những tính ma thuật chứa cả những thói tục mê tín dị đoan
trong xã hội. Tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” mang nhiều chuyện kể
từ thánh kinh trộn lẫn với các chuyện thần thoại vùng Mỹ châu La
Tinh, để thực tại và hư cấu trộn lẫn với nhau, mà nhiều khi, hư
cấu còn thực hơn cả sự thực nữa..
Trong diễn văn đọc
khi nhận giải Nobel văn chương năm 1982 Marquez đã viết về cái
thế giới nửa hư nửa thực, nửa thần kỳ ma quái nửa sinh động đời
thường, thế giới dẫy 9ầy cô dơn của Châu mỹ La Tinh:
“Antonio Pigafeta, một nhà thám hiểm hàng hải người tỉnh
Florence nước Ý đã cùng Magellan trong chuyến du hành vòng quanh
thế giới khi ngang qua những lãnh địa Nam Mỹ của chúng tôi đã
viết những bài tường thuật chính xác đến mức tuyệt đối nhưng câu
chuyện của ông lại tương tự hệt như cuộc mạo hiểm nào vào thế
giới huyền ảo. Ông kể rằng đã nhìn thấy những con heo đực bị
hoạn có lỗ rốn dưới đùi, những con chim không có móng vuốt mà
con cái đẻ trứng trên lưng con trống, hoặc những con thú giống
con chim bồ nông không lưỡi mà mỏ lại kỳ quặc dị dạng. Ông kể
thấy một quái thai loài vật, đầu la, mình lạc đà, chân loại hươu
mà tiếng hí lại như ngựa. Ông còn kể lại chuyện người thổ dân
đầu tiên ông gặp ở Patagonia đã soi gương lần đầu tiên và kinh
hoàng thảng thốt đến nỗi mất cả trí nhớ vì hình ảnh của chính
mình phản chiếu lại trên gương kính.
Cuốn sách mỏng
nhưng làm mê mẩn từ thuở ấy là căn nguyên cho những tiểu thuyết
hôm nay của chúng tôi. Nhưng, cũng hoàn toàn không phải là những
bài viết tường trình nhiều sửng sốt về hiện thực ở thời đại ấy.
Những trang sử chép biên niên vùng Indies đã để lại cho chúng ta
vô số những chứng cớ khác.
Eldorado, vùng đất
đầy huyền tượng mà chính chúng tôi đã nao nức tìm kiếm, dù đã có
mặt trên muôn vàn các bản địa đồ, nhưng cũng lại phải chịu sự
thay hình đổi dang, thay đổi tọa độ liên miên cho trùng hợp với
óc tưởng tượng của các chuyên gia ngồi vẽ lại địa dư. Trong
chuyến đi kiếm tìm ngọn suối nguồn trẻ mãi không già, thám hiểm
gia Tây Ban Nha Alvar Numez Cabeza De Vaca thần thoại đã đi khảo
sát ở vùng Bắc Mễ tây cơ trong dòng dã tán năm trời. Đoàn thám
hiểm nhiều thnah phần, nhiều âm mưu, lường lọc nhau, tàn sát
nhau đến nỗi chỉ còn sống sót có năm người trong tổng số hơn sáu
trăm người tham dự. Một trong những bí ẩn mà không dò tìm được
dấu tích là chuyện mười một ngàn con la, mỗi con mang trên lưng
gần nửa tạ vàng, một ngày nọ đã rời Cuzo để lên đường trả món
tiền chuộc Atahualpa để rồi biệt tích không bao giờ đến được nơi
ấn đnh. Kết qủa là, vào thời thuộc địa, gà mái được buôm bán ở
Cartagena de Indias là những con vật được nuôi trên đất bồi đầy
phù sa. trong mề gà chứa đầy những hạt vàng lấm tấm. Cơn khát
vàng của một trong những người khai sáng vùng đất ấy đã đeo đuổi
trong tâm tư chúng tôi cho đến ngày nay..”
Gabriel Garcia
Márquez là ngưới Columbia sinh năm 1928, tại Aracataca. Ông tốt
nghiệp ngành ký giả tại đại học quốc gia Columbia ở Bogotá và
đại học Cartagena. Ông hành nghề ký giả, viết phim. Tác phẩm đầu
tiên là tập truyện ngắn ”La Hojarasca” xuất bản năm 1955.
G.G. Marqúez chống
lại các nhà độc tài bảo thủ thống trị xứ Colombia Laureana Gomez
và người kế vị, tướng Gustavo Rojas Pinilla nên sống lưu vong ở
Mexico và Spain. Tiểu thuyết nổi tiếng nhất là Trăm Năm Cô Đơn
mà nhiều nhà phê bình cho rằng là nơi mà những trác tuyệt của
Jorges Louis Borges, Cervantes, Frank Kafka và William Faulkner
tụ họp lại…. |