Ngày xuân đọc thơ ISSA
Ngày đầu Xuân có một vị trí quan trọng
trong đời sống tinh thần của người Đông Phương. Xuân sinh, hạ
trưởng, thu liễm, đông tàng, cái vòng sinh hóa ấy nối tiếp nhau
không ngừng nghỉ. Bắt đầu môt chu kỳ là gì? Nếu không là ngày đầu
năm thiêng liêng. Người Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn hay Nhật Bản
đều có chung những ý nghĩ về cảm nhận đổi thay từ thời tiết và chia
xẻ với nhau từ thiên nhiên những đời sống tâm linh có chất vĩnh cửu.
Hôm nay, một sáng mùa Xuân, giở trang
sách. Tuyển tập Haiku 4 tập của học giả R. H. Blyth. Những trang thơ
mùa Xuân. Đọc để tìm lắng đọng bình yên.
Tôi tưởng tượng mùa Xuân ở xứ hoa đào.
Nhưng chùm hoa phủ lấp không gian. Hồn xuân như phảng phất lãng đãng
trong không khí. Đặc biệt ngày mùng một Tết không chỉ mở đầu cho một
ngày mà còn là điểm khởi hành của cả một năm sắp tới. Tấm lòng mở
ra, chào đón những làn gió Xuân trở về, làm hồi sinh lại nỗi yêu đời
còn nén trong lồng ngực thở. Thiên nhiên mới lạ tinh khiết hơn, gần
gũi với nỗi niềm hoang sơ của con người. Đất trời được nhìn ngắm, từ
cái nhỏ nhoi cận gần, mầu sắc của áng mây, bầu tời xanh, bãi cỏ mướt
đến tận cuối tầm mắt ngắm. Tiếng nước giọt xao động trên ghềnh đá,
gió hú qua rặng tùng, mưa đập trên khuôn cửa, hay tiếng chim ríu
rít, tất cả mỗi mỗi đều có biểu hiện mới của người và trời đất giao
hòa. Cảnh vẫn vậy nhưng hồn như mang một điều gì mới hơn, đầm thắm
hơn và sâu lắng hơn. Thơ Haiku, diễn tả cái mới toanh tinh khôi
trong cái cũ càng. Sư phụ của thơ Haiku, Kobayashi Issa, với những
bài thơ Xuân, mở ra những tâm cảm thơ mà tôi xin chuyển từ Anh ngữ
sang Việt ngữ. Trong lúc thích thú một cách bồng bột, tôi đã không
nghĩ đến câu dịch là phản và cũng không tự lượng sức mình dù cố gắng
tìm hiểu để học hỏi.
Những vần thơ rất cô đọng, nhưng sinh
động. Ngày đầu năm, mở đầu từ ý nghĩa trong veo của tuổi thơ. Trong
thơ Issa, có nhiều hình ảnh của nít nhỏ, tượng trưng cho sự ngây
thơ, trong trắng.
“Toshi dama ya
futokoro no ko mo
tete wo shite.”
“Dâng hiến của Tân Xuân.
Bé thơ trong lồng ngực cũng
Giữ chặt trong tay nhỏ xíu.”
Bàn tay nhỏ xiú ấy, có phải là nỗi đam mê của Cleopatra và Anthony,
hay tình yêu ngùn ngụt lửa bốc của Napoleon? Trái tim cũng cùng nhịp
đập với đất trời, giao hòa trong sâu lắng của ngữ ngôn diễn tả. Mùa
Xuân, với Issa chỉ là bàn tay của trẻ sơ sinh nắm giữ niềm tân hiến
của thiên nhiên. Một bài thơ khác:
“Shogatsu no
kodomo ni natte
mitaki kana”
“Ah! Đã là
trẻ thơ
trong ngày Tân Niên”
Thời thơ ấu đã là những ấn tượng khó phai và mất biệt trong cuộc
sống. Ngày đầu năm, đứa bé thơ ngây vẫn còn đầy quỹ tiền tệ thời
gian. Mỗi ngày mỗi lớn, dần dần hao cạn. Tuổi trưởng thành dường đi
ngược lại ngây thơ trong trắng của lúc tóc còn xanh môi còn thắm.
Những tờ lịch rớt xuống, đếm những điều không đếm được. Ngày tháng
có thể đọc trên đầu những ngón tay, nhưng nỗi nhọc nhằn nhân sinh,
những eo sèo thế sự thì chẳng thể nào đếm được. Họa chăng, biểu hiện
từ những vệt nhăn ở khóe mắt, ở mái đàu sương pha dần điểm bạc:
“Ganjitsu ya
jojokichu no
asagi-zora”
“Ngày đầu năm
Hạnh phúc! May mắn!
Bầu trời nhàn nhạt xanh”
Thi sĩ dường như chẳng để ý đến thời tiết đẹp với bầu trời trong
xanh của buổi đầu Xuân. Trong giây phút ấy, con người thấy gần gũi
với thượng đế trên trời.Đôi khi, hạnh phúc chỉ là mầu sắc nhàn nhạt
của cuộc nhân sinh.
“waga haru mo
jojokichi zo
ume no hana”
“mùa xuân cũng
hạnh phúc! May mắn!
Hoa mận nở”
Thơ haiku chú trọng dùng biểu tượng và những gợi ý ngầm chứa bên
trong nhưng lại diễn tả bằng ngôn ngữ đơn giản. Issa viết về mùa
xuân qua hình tượng trẻ thơ. Theo cách đếm của người Nhật Bản, thêm
một ngày đầu năm là thêm một tuổi. Nhưng với những đứa trẻ sinh từ
tháng 5 năm trước thì đếm thêm một tuổi. Thi sĩ ngày đầu năm, nghĩ
về đứa con gái xấu số chết lúc một tuổi vì bệnh đậu mùa.
“hae-warae
futatsuni naru zo
kesa kara wa”
“bò trườn đi và cười
hôm nay
từ con hai tuổi”
Ngày tân xuân dài ra trong ký ức với tiếng gọi kêu trầm thống vọng
lại từ bến bãi nhân gian. Giọt lệ của Issa cho chính thân phận mình
không phải riêng cho những cái chết của những đứa con, người vợ,
người cha, người mẹ. Ông tiếc thương cho chính sự hiện hữu của mình
cho quỹ thời gian dần khô cạn bất kể đến nỗi trường cửu của cõi tâm
linh.cái đau đớn ấy, lạ thay lại lẫn lộn với niềm hân hoan của hiện
tại đang từng phút giây đang có và tràn đầy. Sự xa lạ của khoảng
khắc nhận được dàn trải thành tâm trạng của một người hăm hở tìm
kiếm chính bản lai diện mục của mình. Giản dị và cô đọng, là những
câu thơ:
“Onureba
hino nagai ni mo
namida kana”
“chúng ta già thêm tuổi
theo chiều dài tháng năm
từ nguyên do của giọt lệ.”
Thơ xuân, đôi khi chỉ là biểu hiện vô cùng giản dị. Dấu chân mùa
xuân chỉ vương theo tiếng xào xạc trên đồng cỏ. Thế mà, lại là bước
khởi hành của nhiều liên tưởng. Xào xạc, là tiếng gió lướt đi, hay
tiếng thở dài từ kiếp sống, của lúc cựa mình thiên cổ để nhìn ngắm
trong vô cùng cái nỗi còn mất có không.
“Yusa – yusa to
haru mga yuku zo yo
nobe no kusa”
“Khởi hành mùa xuân
xào xạc, xào xạc
trong bãi cỏ của cánh đồng”
Issa nhìn ngắm thiên nhiên như một đối tượng đặc biệt. Dòng nước
cuộn róc rách qua ghềnh đá như nhịp điệu miên viễn khôn nguôi. Từ
một góc cạnh, mặt nước phản chiếu trên đôi bàn tay trắng của một
thiếu nữ đang cọ rửa xoong nồi. . . Ánh trăng ngần trên da thịt
trắng và lan ra xa theo dòng nước. Một hình ảnh đẹp đặc thù của vầng
trăng xuân.
“Asakawa ya
nabe susugu te ni
haru no tsuki”
“chỗ cạn của dòng sông
trên bàn tay cọ rửa xoong nồi
trăng xuân.’
Mưa xuân, những cơn gió chướng thổi hơi nước làm mù cảnh vật. Trời
đất trong tấm màn trắng mỏng che khuất cây cỏ. Mưa gió làm liên
tưởng đến những cánh thư đã vứt bỏ trong trí nhớ và bây giờ tả tơi
theo gió luồng chịu đựng nỗi buồn đau thầm kín của đất trời. . . Bức
tranh giản đơn của Issa:
“Harusame ya
yabu ni fukaru ru
sute – tegami”
“mưa xuân
lá thư vứt bỏ
thổi tan tác phơi trên bụi cây.”
Mưa có phải là sự tương giao giữa bất hạnh và hạnh phúc, giữa lạc
quan và bi quan, giữa buồn khổ và hoan lạc. Thi sĩ vẫn là người gợi
ý giữa một thiên nhiên thầm lặng ngỏ lời đem thông điệp cho người.
Thơ tượng hình từ những chuyển động thiên nhiên.
“Harusame ya
neko ni odori wo
oshieru ko”
“mưa xuân
cô bé đang dạy
chú mèo khiêu vũ”
Liên tưởng có từ hình tượng một cô bé đơn độc ngồi chơi giỡn với một
chú miêu xinh xắn. Dường như, là con gái duy nhất của một gia đình
hiếm muộn không có anh chị em để chơi giỡn cùng. Một khung cảnh
nhiều lãng mạn, và nghệ thuật của Issa là dùng những hình tượng
thoạt tiên chẳng có liên hệ gì với nhau nhưng lại có những gắn bó
sâu sắc. Giọt mưa, hay điệu luân vũ chú mèo hay cả hai, là hình
tượng mùa xuân? Chứa đựng trong lặng thầm là cõi nhân sinh vọng
động.
Kobayashi Issa (1763-1827) được coi
như là một trong ba vị thánh của thơ Haiku Nhật bản là Basho và
Buson. Ông sinh ra ở Yotaro Kobayashi năm 1763 trong một làng nhỏ
miệt núi Kashiwabara trong tỉnh Shinano miền trung Nhật Bản. Là con
cả của một nông dân và ông mồ côi mẹ từ lúc hai tuổi. Đó là một biến
cố in sâu đậm trong tâm thức và cũng là tham kịch của thời thơ ấu
của ông. Bà nội ông nuôi dưỡng ông từ tấm bé. Người thầy giáo trường
làng của ông đã in những dấu ấn thi ca lên đầu óc non nớt của ông và
là những mầm nụ phát triển sau này. Người thầy này cũng làm thơ
Haiku với tên tuổi của Shimpo.
Cha của ông kết hôn với bà kế mẫu
Satsu khi ông mới vừa tám tuổi và bà này đã hành hạ ông suốt thời
niên thiếu. Bà nội ông mất lúc ông mười bốn tuổi và năm sau cha ông
gửi ông lên Edo để chấm dứt sự xung khắc trong gia đình. Khi dẫn ông
lên kinh đô trên đường đi đã dặn khiến Issa nhớ suốt đời: “hãy nuốt
hết những đau xót và đừng để mọi người đau buồn vì con. Hãy để ta có
thể nhìn thấy sớm hơn khuôn mặt tươi tắn thanh thản của con”.
Mười năm ở Edo là môt chuỗi ngày phấn
đấu của một người cố gắng đi tìm cứu cánh cho đời sống mình. Ông học
làm thơ và năm 25 tuổi đã in thơ trong một hợp tuyển của thị xã
Chikua mang tên thi trường Katsukika. Thị xã này ảnh hưởng thi phái
Buson nhưng lại theo truyền thống Bashõ. Issa tạo dựng được một
khuôn dáng riêng, dù có khi là sự trộn lẫn giữa hai khuynh hướng
này.
Khi Chikua từ trần, Issa trở thành
trưởng tràng của Chikua học viện mang tên Nirowan. Nhưng có nhiều
mâu thuẩn trong nội tình nên ông từ chức năm 29 tuổi. Trở về quê nhà
thăm cha già, rồi tiếp tục cuộc du hành tìm thơ trong mười năm sau.
Với sự giúp đỡ về tiền bạc của người cha, ông du hành khắp nơi, đến
Ise, Nara, Kyoto. Ông đến thăm cung điện Hogangjji rồi Oska có ngôi
mộ của Bashõ ở bên bờ của hồ Biwa, Rồi Shikoku. Lúc này ông mang bút
hiệu Issa và viết được nhiều bài thơ tuyệt diệu. Giống như Buson,
ông chịu ảnh hưởng nhiều của Phật Giáo và Zen. Nhưng thơ của ông
phóng khoáng nhiều khi vượt qua khuôn khổ của tôn giáo.
Năm 1801, người cha già trở bệnh khiến
ông trở về quê nhà để săn sóc cả tháng trời trước khi cha ông lìa
trần. Ông được di chúc và hưởng phần lớn gia tài với điều kiện là
phải sinh sống ở Kashiwabara và lập gia đình ở đây. Người kế mẫu và
người em trai cùng cha khác mẹ phản đối không thừa nhận di chúc và
kiện cáo khiếu nại. Hội đồng làng xã ủng hộ họ và Issa đã thuật lại
trong “Ghi chép hằng ngày của cha tôi lần cuôi” mà người đọc có cảm
tưởng là đang theo dõi một chương trình của tiểu thuyết Balzac.
Vụ kiện là một biến cố ảnh hưởng nặng
nề đến thi ca Issa. Bất hạnh dồn nén làm ông càng đi sâu vào những ý
niệm siêu hình của cuộc sống. Sau cùng cũng đi đến một giải pháp
dung hòa là chia đôi tài sản. Ông về sống trong căn nhà từ đường bị
chia hai sát bên với nhà bà kế mẫu.
Ông lập gia đình với một thôn nữ tên
Kiku lúc ông năm mươi mốt tuổi và cô này hai mươi bảy tuổi. Kiku có
nghĩa là tên của một loài hoa cúc. Ông làm nhiều bài thơ cho người
vợ này. Về đường con cái ông có sự đau buồn. Người con trai đầu chết
khi một tháng tuổi, người thứ hai cũng chết năm kế tiếp, rồi đứa con
gái, Sato-jo, chết lúc vừa đầy tuổi. Năm 1819, bà Kiku mang thai rồi
bệnh chết. Đứa trẻ sơ sinh không sống được lâu hơn một năm. Ông lập
gia đình thêm lần nữa nhưng đều gẫy đổ. Trước cái tang của người
thân, Issa viết một tập tản văn xuất sắc “Những năm của đời tôi”.
Năm 1927, gia cảnh rối rắm, nhà bị cháy, Issa từ trần nhà mà không
bịnh tật, để lại bà vợ và cô con gái nhỏ.
Thơ Issa, là kết tinh của khổ đau của
một đời người phải gánh chịu nhiều tai ương của cuộc sống. Thi ca đã
thăng hoa để thành một nghị lực cho sự sống còn như kiểu nói của
Phùng Quán “vịn vào thơ và đứng dậy".
Mùa xuân, là thời điểm để thi sĩ phân
biệt giữa giản đơn và phức tạp của thiên nhiên. Thu gọn thật nhiều
hình tượng, chỉ một vài âm hưởng, thơ Haiku đi tìm những cảm giác
mong manh. Có khi từ những mầu sắc, của vàng tươi dáng trời, của đôi
mắt lãng đãng trôi theo phương trời vô định. Mầu sắc ấy chỉ tìm kiếm
thấy ở dáng trời buổi nắng tà ở trong những ấn bản mầu nổi tiếng của
Hiroshige, mà phiến trời áng mây trải tới cuối tầm mắt ngắm”
“Assari to
haru wa ki ni keri
asagi-zora”
Mùa xuân đến
Tất cả giản đơn
Là ánh vàng của chân trời”
Mùa xuân, là lúc tấm lòng mở rộng ra với Đất Trời. Cũng như vần thơ
của Shiki viết:
"Ganjime no
Wago no
Hajime kama”
“Ngày đầu năm
khai mạc hòa tấu khúc
của Trời và Đất.”
Đúng rồi, có gió và có nắng. Trên cao là vầng mây xa. Dưới thấp, là
mây, đất sương long lang lá cỏ. Hòa tấu khúc của Đất Trời phản chiếu
tâm tưởng của lòng người. Người buồn, cảnh vật đìu hiu. Người vui,
thiên nhiên mở hội. Một chu kỳ mới bắt đầu mong mỏi sự tốt đẹp sẽ
đến. Thơ xuân vui, không nhịp điệu ồn ào, mà, sẽ trầm lắng, như
hương hoa thơm thoảng quan, như tách trà thơm uống vào như hưởng cả
tinh khiết của một thời trong lành nguyên sơ . . .
Nguyễn Mạnh Trinh
|