Sống để viết, hay ...
viết để sống ...
Một câu hỏi thường hay đến với người cầm bút: Viết? Tại sao viết và
viết thế nào? Trả lời câu hỏi ấy, có khi rất giản dị nhưng cũng có
khi cực kỳ khó khăn. Viết, có phải là một cách thế để sống đời sống
thực? Hay là một cách sống với thế giới riêng mình cả những ước mơ?
Mỗi người một ý nghĩ, ở thời đại hiện nay, nhất là với những người
Việt Nam đã trải qua nhiều biến cố, ở những vị trí khác nhau, có khi
là chiến tuyến đối nghịch, thì văn chương phải phản ánh được nỗi
niềm của cả một thế hệ. Có những người, viết để giải tỏa những ẩn ức
của đời lưu lạc. Có người, coi viết là một cái nghiệp tay trái phải
trả trong khi tay phải vẫn khư khư cái nghề để mưu sinh. Từ những
quan niệm khác nhau, những suy tư khác nhau, có lẽ đã xảy ra cuộc
tranh luận. Và, câu trả lời vẫn là những phân vân bất định. …
Có người làm thơ lúc nào cũng bức xúc với câu trả lời phải viết thế
nào và ra sao. Hình như, chỉ là sự gợi ý mà không phải là những ý
nghĩ khẳng định hay phủ định. Cách nay một thế kỷ, Rainer Maria
Rilke trong tác phẩm Thư Gửi Người Thi Sĩ Trẻ Tuổi, gồm 10 lá thư
gửi cho Franz Xavez Kappus đã nêu ra một vấn đề mà tới nay vẫn còn
tồn tại. Một vấn đề muôn thuở của người làm thơ thường suy ngẫm. Tôi
đọc một đoạn trong lá thư đầu tiên (bản dịch Phạm thị Hoài):
Không ai có thể khuyên ông và giúp ông, không một ai. Chỉ có một
cách duy nhất mà thôi. Ông hãy đi vào chính mình. Hãy truy cứu cái
nguyên nhân khiến mình cầm bút, hãy kiểm tra xem nó có bắt rễ từ chỗ
sâu xa nhất của trái tim không, hãy tự thú xem nếu không viết liệu
mình có chết nổi không? Và trước hết hãy tự hỏi mình vào giờ khắc
tĩnh mịch nhất trong đêm, ta có phải viết không? Ông hãy đào xới
trong chính mình tìm câu trả lời tận gốc. Và nếu có khẳng định, nên
ông có quyền đáp lại câu hỏi nghiêm trọng ấy bằng một lời mạnh mẽ và
giản dị rằng “Ta phải viết“ thì ông hãy xây đời mình trên sự tất yếu
ấy, cuộc đời ông ngay cả trong những giây phút dửng dưng và tầm
thường nhất cũng phải trở thành dấu hiệu và chứng chi của sự thôi
thúc ấy. Rồi ông hãy đến gần thiên nhiên. Hãy thử làm người thứ nhất
nói về những gì mình thấy, mình trải qua, yêu thương và đánh mất.
Ông đừng viết thư tình, đầu tiên ông nên tránh những thể loại đã quá
thông dụng và quen thuộc, đấy là những thể loại khó nhất, vì sức
phải lớn và chín muồi mới đưa ra được một cái gì riêng giữa vô số
thành công và phần nào thành công xuất sắc của người đi trước. Do đó
ông đừng bén mảng đến những mô típ chung chung mà hãy lui về với
những mô típ do chính ngày thường của mình cung cấp, ông hãy tả ra
nỗi buồn và niềm mong ước, những ý nghĩ thoảng qua và lòng tin vào
một ngày tốt đẹp nào đó. Hãy tả tất cả với lòng chân thành tha
thiết, thầm lặng và nhẫn nhục, và hãy xử dụng mọi vật quanh ông,
những hình ảnh trong mơ và những đối tượng của hồi ức làm phương
tiện diễn đạt. Nếu ông thấy ngày thường của mình quá nghèo nàn thì
xin đừng buộc tội nó, hãy buộc tội chính mình, hãy tự nhủ rằng mình
không đủ tầm thi sĩ để gọi ra những tài nguyên của nó, bởi lẽ không
có cái nghèo và không chỗ nào là nghèo nàn chẳng đáng đếm xỉa tới
đối với người sáng tạo…”
Đọc sách, cũng học và biết nhiều điều. Mà, ngay cả khi đàn đúm
chuyện trên trời dưới đất, cũng câu hỏi trên vẫn ám ảnh, canh cánh
trong lòng…
Mỗi sáng cuối tuần tôi hay ghé quán cà phê ngồi tán dóc với bạn bè.
Một tuần qua rất mau với những ngày thứ hai tới thứ sáu tất bật để
có những ngày thứ bảy, chủ nhật thoải mái. Cũng là một cách để cuộc
đời còn có niềm vui. Ở đó, tôi gặp nhiều người bạn. Có người, nói
chuyện vui vẻ, để cho qua một buổi sáng nhiều nụ cười, quên đi những
lo lắng của cuộc sống. Những câu chuyện giỡn, những chuyện tiếu lâm.
Nhưng, thỉnh thoảng, cũng có người bạn, sau khi chuyện vãn lại làm
ưu tư hơn.Thí dụ như với một anh bạn mà tôi kể sau đây làm tôi cứ
bâng khuâng cả tháng trời…
Thành thật mà nói, anh là người đọc sách rất nhiều và có những suy
tư thấu đáo. Nói chuyện với anh, nhiều khi tôi như đi lạc vào những
trang sách và có lúc như bị lạc lối không tìm được ngõ ra. Một buổi
sáng, khi nói chuyện về giải Nobel văn chương của Hàn Lâm Viện Thụy
Điển, tôi buột miệng nói rằng người Việt Nam đã trải qua những cách
thế có một không hai trên thế giới với những đề tài tự thân nó đã có
sức thuyết phục ghê gớm, thế mà chưa có một ai cầm bút được lọt vaò
trong trào lưu văn học thế giới. Thân phận con người Việt Nam, chiến
tranh, thuyền nhân,.. toàn là những lãnh địa bao la cho sáng tác…
Thế là ông bạn quí của tôi có dịp “ăn nói”. Ông mang Milan Kundura
để nói chuyện. Trong ”The Art of the Novel“ nhà văn này đã suy luận
theo những trào lưu của văn học hiện đại. Vói những sự vận động và
tìm tòi không ngưng nghỉ, sự cách tân trong bút pháp cũng như bố cục
truyện được coi như một mục đích tối hậu cho bút mực. Làm mới văn
xuôi tự sự cũng như thay đổi cung cách suy nghĩ về quan niệm, vai
trò, vị trí, hành động, chức năng của nhân vật, Kundura đã đi từ
James Joyce, Marcel Proust, Franz Kafka đến tự bản thân mình.
Ở James Joyce, nhân vật ở trạng thái trở về hình thức đối thoại nội
tâm triệt để mỗi khi bị lôi kéo vào một tình trạng chỉ trong khoảnh
khắc của thì hiện tại.
Ở Marcel Proust, nhân vật được diễn tả và xuất hiện với tất cả sự
huyền diệu và kích thích nỗi ngạc nhiên về cái vũ trụ nội tại của
linh hồn con người. Hành trình “Đi tìm thời gian đánh mất” gồm mười
lăm quyển sách mở ra những cánh cửa đi vào khung trời tiểu thuyết
bao la nhiều chất suy tưởng.
Còn với Franz Kafka nhân vật chỉ còn là hiện thân cho một vấn nạn
“Đâu là những khả năng tồn tại của con người trong một thế giới mà
những quyết định từ bên ngoài trở thành nặng nề đến nỗi những động
cơ bên trong chẳng còn chút trọng lượng nào nữa”. Kafka mô tả những
động cơ thúc đẩy từ bên trong quyết định ứng xử của bản tính con
người giữa cái thúc ép của đời sống thực tế bên ngoài thành lực chi
phối và luôn luôn giữ vai trò chủ chốt áp đảo trong mọi cách thế
quyết định.
Riêng chính Kundura thì cho rằng nhân vật tiểu thuyết là hiện thân
cái gọi là “bản chất cục diện hiện sinh của cái tôi.”. Đây là một
quá trình tìm kiếm với tất cả những dụng công để khám phá ra những
chân dung còn chìm khuất từ những bức màn che kín của sự vật.
Muốn nhập vào những trào lưu như vậy, nhà văn cần phải nỗ lực làm
mới và rời bỏ con đường mô tả theo lề lối truyền thống với những chi
tiết của nhân vật: tên tuổi, diện mạo bên ngoài, tiểu sử, quá khứ,
đời sống… Tứ Joyce, Proust, Kafka, đến Kundura, tất cả những yếu tố
trên về nhân vật chẳng còn là quan trọng nữa. Ngay chính những động
tác để làm chuyển động tiểu thuyết cũng không còn là chủ đích, mà
cái còn lại là suy tư với những phóng chiếu luận cứ phức tạp từ
những góc cạnh nhiều chiều, nhiều phía để soi rọi vào cái sâu thẳm
của bản thể mình và đời sống mình một cách thật rốt ráo triệt để
không thỏa hiệp.
Sau khi lấy những luận cứ của Kundura làm căn bản, ông bạn trên đi
đến một kết luận. Muốn đi vào những trào lưu văn học thế giới, phải
từ bỏ chính cái tôi của nhân vật truyện. Chúng ta phải hủy bỏ chính
cái vòng mà chúng ta tự vạch ra và tự giam mình vào. Chúng ta cứ
quanh quẩn trong cái góc thế giới nhỏ nhoi mà không chịu bước ra
những phương trời khoảng khoát hơn. Những sự kiện của chúng ta hôm
nay chỉ có giá trị ở thì hiện tại, nhưng ở thì tương lai thì chưa
chắc. Cái xốc nổi chưa chắc là cái tồn tại lâu dài. Mà, muôn đời
nhất để tồn tại vẫn là hành trình tự tìm kiếm chân dung con người,
chân dung muôn thuở có chung một mẫu số của nhân bản nhưng có thể
khác về tử số, của những hiện tương của bây giờ. Nhà văn phải có trí
tưởng tượngvươt qua cái tôi … Tại sao chúng ta cứ viết hoài về cái
đã quen thuộc đã nhàm chán. Sao không thử bước qua đi những con
đường lạ. Viết để làm gì nếu không có sự tìm tòi khám phá. Viết để
làm gì, nếu văn học không mang được những nét tích cực cho cuộc nhân
sinh.
Tôi suy đi nghĩ lại, những điều Kundura viết nó chung chung và hiện
thực những ý tưởng ấy thành cụ thể không phải là đơn giản... Trong
bụng vẫn vương vấn những suy nghĩ. Những điều kể trên có phải thuần
từ lý luận và có dễ áp dụng ở thực tế Việt Nam không. Mà, thực hành
thì ra sao? Đi tìm chính mình, soi gương mỗi ngày? Đúng quá rồi,
nhưng diễn tả ra sao vì cái thực và cái ảo có khi nhập nhằng thành
một. Đằng sau cái hình của mình có khi cón cái bóng nhiều khi to lớn
hơn, lộng lẫy hơn. Làm thơ tượng trưng, thơ phá cách, thơ cách tân…
để sáng tạo? Đúng rồi, nhưng có chắc là tìm kiếm chân thực mới lạ
không hay là từ ngàn xưa đã có sẵn? Tôi chợt nghĩ đến hiên tượng
“tẩu hỏa nhập ma” mà Kim Dung hay mô tả. Chưa đủ nội lực mà cứ đòi
tập tành thì phế thải có ngày! Làm thơ có vần chưa làm chủ được vần
điệu ngôn ngữ mà đòi cách tân, phá cách thì thi ca trở thành dị hợm
mấy hồi. Cái căn bản cần thiết phải có mới đủ sức làm sâu sắc hơn,
làm mới lạ hơn văn chương. Thành ra, rút cuộc vẫn là sự tự rèn luyện
và khó khăn nghiêm khắc với chính mình. Nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã tự
đặt một kỷ luật cho bản thân. Mỗi ngày, dù có cảm hứng hay không
cũng ngồi vào bàn làm việc. Lâu dần sẽ thành một thói quen tốt đẹp.
Và, với cách làm việc như thế, ông đã có một công trình trước tác đồ
sộ. Riêng tôi khi theo học lớp sáng tác văn học ở tại đại học ở đây
cũng được chỉ dẫn rằng mỗi ngày phải viết vài trang bằng ngôn ngữ
mình và dịch vài trang từ những tác phẩm được kể là cổ điển để tập
thành thói quen trong công việc vận dụng chữ nghĩa. Cũng như đọc một
cuốn sách nhiều lần, lần đầu để nắm bắt ý tưởng, lần sau tóm lược và
ghi chép lại thành từng thẻ có thể hệ thống hóa. Tôi cố gắng theo
nhưng hình như đời sống ở đây có quá nhiều thúc bách nên kỷ luật ấy
cũng gần mai một đi. Nhưng ít ra tôi cũng tự hiểu đó là một phương
thức tập luyện tốt….K ỹ thuật cũng rất cần tuy chưa đủ để tạo thành
những tuyệt tác. Mà, nói đến kỹ thuật là nói đến những kinh nghiệm
thu lượm được từ quá trình làm việc qua sự vận động và tìm kiếm.
Nói theo lý thuyết một cách logically như vậy thì quá dễ. Làm sao để
tiếp cận được vào văn học thế giới thực sự là một câu hỏi khó cho
những người cầm bút. Vượt qua những giới hạn thực tế, nhiều khi cần
phải nỗ lực trong một đời sống nhiều thúc ép hiện nay.
Câu chuyện trong quán cà phê có phải là chuyện phiếm bàn chơi? Tại
vì tôi quá nặng lòng với văn chương nên thắc mắc vương vấn mà thôi.
Chứ còn, ngày lại ngày, vòng quay đời sống dường như mỗi ngày bào
mòn cả ước mơ. Với tôi, còn cầm bút được là vẫn còn một chút hạnh
phúc nhỏ nhoi. Viết để cho riêng mình có một thú vui, như mình nâng
niu một đóa hoa, không phải là một điều thích ý sao? Mỗi lần đọc
những dòng chữ do chính mình viết ra, có phải là đang tâm sự với
những người cùng tri kỷ. Và, cũng chẳng để ý làm gì đến ít hay nhiều
mắt xanh để ý đến văn chương mình? Cái gì tốt đẹp tự nhiên sẽ tồn
tại, cũng như những giả trá bất toàn sẽ bị đào thải theo đúng luật
đất trời!
Ở trong nước, câu hỏi: Tại sao viết? Viết để làm gì? và viết như thế
nào? cũng là những vấn nạn thường xuyên trên báo chí.
Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài phỏng vấn của Dã Tượng đã phát biểu:
“Vâng, nhà văn viết bằng cái gì? Theo tôi có ba cái chính: tài năng
“trời cho”, sự trải nghiệm hay “vốn sống” và cái thứ ba là nền tảng
văn hóa dân tộc và nhân loại mà anh ta có được, anh ta “đứng“ trên
đó để tiếp tục đi tới… Lớp người trẻ cầm bút ở Việt nam hiện nay
thiếu hụt hơn cả chính là cái thứ ba này...” Và ông cho rằng sự
thiếu thốn kể trên vì trong nước hiện nay không có Đại Học thực sự
với chất hàn lâm phải có. Nền đại học hiện tại chỉ là những “lớp phổ
thông cấp bốn“ như lời giáo sư Hoàng Ngọc Hiến ví von. Và sau đó ông
còn đề cập đến không có tự do sáng tác tạo thành một nền văn học
“minh họa“ nông cạn, một chiều và là công cụ cho chính quyền.
Chu Văn Sơn, trong “Tác phẩm lớn, tại sao chưa?” thì phân tích:
“.. Không thiếu những cây bút sau màn trình làng đầy ấn tượng hứa
hẹn một triển vọng nào đấy nhưng rồi tài năng ban đầu không cường
tráng lên để thành tài năng, trái lại, cứ sa sút mai một dần. những
cái ra sau chỉ là sự pha loãng cái ra trước, thậm chí loãng đến mức
khó tin. Có người bi quan đã ngờ vực khôngb khéo cái tạng chính của
người viết ở ta chỉ là “nhà văn của cái đầu tay”.
Giải thích về hiện tượng sa sút phong độ sau những sáng tác đầu tay,
người ta thường đề cập ba thiếu hụt quen thuộc: vốn văn hóa, vốn
sống và những kỹ năng sáng tạo. Vốn văn hóa không chỉ là tri thức về
các bộ môn văn hóa hay hiểu biết về các nền văn hóa bốn phương, mà
quan trọng hơn là cái lõi nhân văn của kẻ viết có đầy đặn hay chưa
sau khi hấp thụ những tinh hoa văn hóa khắp nơi ấy. Vốn sống cũng
không phải là những tri thức cuộc sống đã được nạp đầy hay vơi trong
túi khôn của kẻ viết, mà đáng nói hơn là vốn ấn tượng, vốn trải
nghiệm cật ruột của chủ thể sáng tạo trong trường đời đã đủ giúp anh
hóa thân vào mọi nỗi đời chưa. Cũng như thế kỹ năng sáng tạo đâu chỉ
đơn giản là những chiêu mới chiêu lạ chiêu độc tích cóp được từ việc
học những trường phái tân kỳ hay các bậc thầy đến từ phương xa. Mà
quyết định hơn là mọi thao tác kỹ năng đã ngấm vào thành ứng xử nghệ
thuật thành giác quan của người viết hay chưa. Chúng ta thường
khuyến cáo người viết hãy bồi đắp cho những thứ ấy đầy đặn lên, vạm
vỡ hơn. Không thể chối cãi được rằng nội lực của người viết phụ
thuộc rất nhiều vào sự dồi dào của ba yếu tố ấy. Chưa có một nội lực
như vậy, thật khó hy vọng về tác phẩm thật sự lớn…”
Cũng có người thì lại quan niệm nghe ra hơi ngang tai nhưng không
phải là không lý do trong thực trạng văn học trong nước hiện nay.
Như lời phát biểu của Nguyễn Đình Chính, con ruột nhà văn Nguyễn
Đình Thi và là tác giả của tiểu thuyết “Đêm Thánh Nhân”, cũng như đã
có ý định muốn ra khỏi Hội Nhà Văn Việt Nam:
“Tôi biết rằng nhà văn thì nên đứng ra ngoài lề xã hội, ngậm miệng
ăn tiền ngồi quay mặt vào vách tường mà viết văn thì mới là nhà văn
lớn, mới là khôn ngoan, biết điều. Nói nhiều là ngu. Càng nói càng
dại. Có lẽ tôi đang là một ví dụ cụ thể. Nhưng đã hỏi thì tôi xin có
nhời. Đất nước đang tiến vào vận hội mới Toàn dân tộc đã thoát ra
khỏi cơn ngái ngủ bao cấp, ỷ lại rồi. Thú thực nhé, là một người
trong cuộc mà tôi cũng chẳng hiểu văn nghệ Việt Nam hôm nay đã chạy
thoát ra khỏi cơn ngái ngủ bao cấp đó chưa?
Viết để sống. Sống để viết. Hình như ở bất cứ không gian thời gian
nào cũng là hai vế của một phương trình. Có lúc tưởng đối nghịch
nhau nhưng tựu trung vẫn là một. Dù ở trong nước hay hải ngoại, dù
thời gian cách nay cả thế kỷ cho đến bây giờ, viết vẫn là do bức xúc
từ đời sống. Sống đeo đẳng cái nghiệp viết. Và viết để làm đời sống
có ý nghĩa hơn. Văn chương, có khi là duyên phận, là những tình cờ,
của những phút giây “bắt được của trời”. Thực ra, để trở thành một
nhà văn Việt Nam thường thường đã khó, huống chi còn đòi tác giả
lớn, tác phẩm lớn. Ở trong nước, thì giáo dục hạn chế, đại học chỉ
là bậc trung học nối dài, triết học căn bản không có vì thay thế
bằng học thuyết Mác Lênin. Ở hải ngoại, thì tiếp cận được với văn
học thế giới nhưng ít độc giả và tất cả nỗ lực văn chương đều dồn
vào trên vai cá nhân những người cầm bút cô đơn. Nhà văn, chỉ có thể
cầm bút được nếu không ở tâm trạng phải viết vì quá nhiều điều chất
chứa từ cuộc sống phải bộc lộ, phải nói ra. Cầm bút, chính là một
phương cách để tự giải phóng mình…
Nguyễn Mạnh Trinh
|