Văn chương tuyển chọn trong nước :
chọn nhưng không tuyển…
Tuyển tập là chọn những bài vở hay nhất để tuyển thành một tập. Ban
tuyển chọn một giải thưởng văn học là những người có đủ tư cách để
chọn lựa một tác giả hay tác phẩm xuất sắc nhất trong thành phần đã
được tuyển. Thông thường tôi có ý nghĩ thô sơ như vậy. Nhưng, ở thực
tế, thì dường như vậy mà không phải vậy. Thử nhìn vào trong nước,
qua tất cả những dữ kiện mà tôi được biêt qua báo chí và truyền
thông, sự thực chẳng phải giản dị như vậy. Có một điều gì kỳ kỳ mà
một người sống ở hải ngoại như tôi khó lòng hiểu nổi. Từ cảm giác
ấy, tôi viết không phải là với thái độ của một người tọc mạch muốn
tìm kiếm những tiêu cực để bỉ thử, mà là một chủ đích đi tìm hiểu
một thực trạng văn chương mà mình cứ canh cánh muốn tìm hiểu…
Năm nay, ở trong nước rộ lên một phong trào thi ca, nào hội thơ, nào
công bố “100 bài thơ hay nhất thế kỷ“.. Nghe thì tưởng như những
công trình nghiêm túc, nhưng thật ra có phải chính xác như thế không
? Một thế kỷ trong văn học không phải là một thời gian ngắn và tuyển
chọn được những bài thơ tiêu biểu không phải là việc dễ dàng và ai
cũng làm được. Thế mà lại tổ chức thành một cuộc thi để bình chọn.
Bất cứ ai cũng có thể tham dự để chọn lưa, bất cần kiến thức văn
chương. Như vậy liệu kết quả có khả tín không ? Hay chỉ là một cách
để dễ dàng thực hiện những điều mà những người có quyền lực chính
trị đứng đằng sau chỉ thị ?
Danh sách những bài thơ hay nhất thế kỷ gồm một bài thơ chữ Hán của
lãnh tụ Hồ Chí Minh được xếp đầu bảng ngoại hạng còn 99 bài thơ khác
gồm cả những bài của các vị tiền bối như Nguyễn Khuyến, Trần Tế
Xương, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và các bài của các nhà thơ của văn
học miền Nam như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng, Đinh Hùng, Nguyên Sa,
Phạm Thiên Thư, Á Nam Trần Tuấn Khải, Trang Thế Hy. Chỉ có thế và
còn lại toàn là thơ miền Bắc và thơ trong nước bây giờ, có danh và
vô danh trộn lẫn.
Có phải ngẫu nhiên một bài thơ chữ Hán được xếp vào hay đó chỉ là sự
tôn sùng lãnh tụ, một trường quy bắt buộc của nền văn học xã hội chủ
nghĩa ? Cũng như, những nhà thơ của văn học miền Nam hay ở hải ngoại
bị bỏ quên. Danh sách 100 bài thơ được mệnh danh là hay nhất thế kỷ
20 ấy, có thiếu nhiều bài và cũng thừa nhiều bài. Sự chọn lựa theo
một chủ ý rõ ràng mà chính trị chỉ đạo. Như vậy không phải là vô
tình mà là sự cố ý muốn chôn vùi sự thực văn học ?
Phê bình gia Phạm Xuân Nguyên, một người theo dõi hiện tình văn học
khá sát đã nhận xét :
“... Chúng ta hiểu thơ Việt nam thế kỷ 20 là của người Việt làm ra
dù ở bất cứ đâu, trong bất cứ thời điểm nào của trăm năm vừa qua.
Ban tổ chức cuộc thi không hạn định không gian địa lý vùng miền của
hai tiếng “Việt Nam“ này, cho nên thơ chọn ở đây phải được hiểu là
tất cả thơ của người Việt làm ra trong thế kỷ 20 ở trên lãnh thổ
Việt Nam và ngoài lãnh thổ Việt Nam, làm ra trong thời kỳ đất nước
thuộc địa và đất nước độc lập, đất nước phân chia và đất nước thống
nhất. Nhìn vào danh sách 100 bài thơ được tuyển chọn ta không thấy
điều này. Danh xưng “Việt Nam“ ở đây đã bị thu hẹp rất nhiều. Như
vậy là danh không chính.”
Trong bài “Năm điều bất cập“ đăng trên báo Phụ Nữ Thành phố Hồ Chí
Minh sau “post” trên web-site Talawas, của Phạm Xuân Nguyên còn nêu
ra những điều không ổn khác như bài thơ chữ hán của Hồ chí Minh được
đặt trên đầu danh sách, cũng như bài được tuyển chọn “chủ yếu là của
các tác giả trước 1945 và sau 1975 và số lượng chính là các tác giả
ở miền Bắc“, hay “cuộc tuyển chọn 100 bài thơ Việt Nam hay nhất thế
kỷ 20, như kết quả cho thấy là cuộc tuyển chọn của một bộ phận công
chúng. và như vậy, thơ được gọi là “hay nhất” trong tập này chỉ
tương đối ở cuộc này mà thôi, theo cách làm này mà thôi. Nhưng để
gọi là “thơ Việt hay nhất thế kỷ 20 thì thật là thậm xưng, là vội vã
tùy tiện”.
Nhà thơ Thanh Thảo người được chon bài thơ “Dấu chân qua trảng cỏ“
trong danh sách những bài thơ hay nhất thế kỷ 20 “ cũng thắc mắc về
“danh nghĩa độc giả bầu chọn“ mù mờ để in ra một tập thơ có nhan
đề.. nhớn như vậy là một công việc liều lĩnh. “Chọn thơ hay khác với
chọn lựa hoa hậu hay ca sĩ triển vọng. Đừng thấy người ta ăn khoai
mình cũng vác mai đi đào như thế, coi không tiện.”.
Không hiểu công việc thực hiện công trình “100 bài thơ Việt Nam hay
nhất thế kỷ XX“ như thế có phải là công việc chọn mà không tuyển
không ? Nếu không tuyển thì liệu kết quả được chọn ấy có chút giá
trị nào ?
Hay cũng như chuyện giải thưởng văn học năm 2006 của Hội Nhà Văn. Có
cả ban tuyển chọn đàng hoàng mà không biết chọn thế nào, tuyển ra
sao đễ ông Chủ tịch Hội Nhà văn Hữu Thỉnh được giải nhất về thơ với
tập “ Thương lượng với thời gian “ và giải tặng thưởng cho Ly Hoàng
Ly với tập thơ “Lô Lô”. Cũng Phạm Xuân Nguyên lại viết : “ Đến lần
ăn giải này nữa, ông Hữu Thỉnh đã lập một “ hat-trick giải thưởng
Hội Nhà Văn Việt Nam “. Lần một năm 1980, ông được giải cho trường
ca “ Đường Tới Thành Phố “ và đó là lần xứng đáng. lần hai năm 1995,
ông được giải cho tập thơ Thư Mùa Đông, lần đó thì hơi gượng, vì như
nhà văn Tô Hoài đã nhận xét, tập thơ đó lẫn lộn nhiều thứ như một
gánh đồng nát. lần này, năm 2006, ông lấy giải với tập thơ “Thương
Lượng với Thời Gian” thì quả thực không xứng, theo ý tôi.
Ngay khi tập thơ ra đời, đọc nó tôi đã thấy là nó cũ, cũ về ý tứ,
cảm xúc, cũ về giọng điệu lối thơ. Kiểu làm duyên làm dáng trong câu
chữ ( sông chảy chậm đợi chiều đang bị ướt ), kiểu triết lý chuyện
đời (hãy yêu lấy con người/ dù trăm cay ngàn đắng/đến với ai gặp nạn
/xong rồi chơi với cây), một lần nghe thì được, nghe sang lần hai
lần ba thì thấy chán.Dạng câu Xa vắng quá bồn chồn đi hỏi cát … là
rất … Hữu Thỉnh. Bài Thương lượng với Thời gian lấy làm tên chung
cho cả tập : Buổi sáng lo kiếm sống/ Buổi chiều tìm công danh/ Buổi
tối đem trí khôn ra mài giũa / tỉnh thức những hàng cây bật khóc đọc
lên nghe giả. Tôi nghĩ : Hữu Thỉnh thương lượng với thời gian nhưng
thời gian không còn chờ đợi ông. Tôi không nghĩ rằng ông Chủ tịch
hội thì không nên nhận giải Hội mình trao( mặc dù ở nước ta tránh
được chuyện đó là hay nhất ), nếu đúng tác phẩm của ông hay thật
xứng đáng thật. Trong trường hợp giải thưởng tập thơ của ông Hữu
Thỉnh năm nay tôi thấy không xứng đáng vì tập thơ đó không hay. Và
còn vì bên cạnh nó có có một tập thơ khác xứng đáng hơn…”
Tập thơ ấy là tập thơ Lô Lô của Ly Hoàng Ly, theo Phạm Xuân Nguyên.
Và kết quả là Ly Hoàng Ly từ chối nhận giải. Sau đó, lại lòi ra
chuyện ông chủ tịch hội Nhà Văn Hữu Thỉnh trong khi viết bài thơ “
Hỏi” lại lượm đỡ ý và lời của bài thơ “ Thượng đế sinh ra mặt trời “
của nữ thi sĩ người Đức Christa Reinig. Và, dậu đổ bìm leo, người ta
kiếm ra hàng chục câu thơ mà ông Hữu Thỉnh đã mượn đỡ để dùng, từ
câu thơ của vua Tự Đức đến những câu ca dao tục ngữ…
Giải thưởng văn học ấy, hình như chỉ có chọn mà không có tuyển. Bởi
nếu tuyển thì làm sao có những bê bối không thể tưởng tượng như
thế!!!
Thêm trường hợp các tuyển tập được thực hiện, hình như chỉ có chọn
mà không tuyển. Đọc những tuyển tập, người đọc thấy rõ điều ấy.Một
tuyển tập của một tác giả, phải có đầy đủ những bài tiêu biểu. Nhưng
tiêu biểu của tác giả khác với tiêu biểu của người biên tập. Bởi vì,
còn những áp lực đè nặng lên việc chọn lựa. Văn học với bàn tay
chính trị chỉ đạo đằng sau tạo những áp lực như thế…
Một người bạn thân hay có dịp về Việt Nam kể cho tôi nghe nhiều
chuyện. Một trong những chuyện ấy là chuyện sách vở. Bởi mỗi lần anh
đi về tôi đều gửi mua rất nhiều sách và lần nào anh cũng đều than
thở nặng quá. Muốn mua ra phố Bolsa mua thiếu gì. Tôi chỉ đành cười
trừ. Ừ, mà ở phố Bolsa nhiều sách xuất bản ở trong nước thực. Những
sách biên khảo nhiều lắm. Không còn những nhan đề sách của thời xưa
nữa. Thời đổi mới nên tư duy cũng đổi và sách vở là mặt nổi dễ nhìn
thấy nhất.
Thời trước, in những tuyển tập của những tác giả tuy có công lớn với
văn hóa Việt Nam nhưng ở phe đối nghịch với chính quyền trong nước
là một hành động khá liều lĩnh. Lúc ấy,mà nhắc đến tên những Nhất
Linh, Khái Hưng,Hoàng Đạo,… đã là một lỗi lầm ghê gớm, huống chi còn
tập trung văn phẩm để in thành một tuyển tập bề thế. Cái gương Nhân
Văn Giai Phẩm còn sờ sờ trước mắt với cái án tốn tại mấy chục năm
khiến ai bạo gan đến đâu cũng phải e dè.
Thế mà, thời thế cũng khác đi, và văn chương cũng chuyển hóa theo.
Thời mở cửa, thế giới không còn chấp nhận những tư tưởng chủ quan
giáo điều nữa. Huống chi, ông Mác, ông Lê-Nin chỉ là những bóng ma
để dọa đe con trẻ thôi…
Bây giờ, mọi người đều nghĩ đến lợi nhuận đến buôn bán, kể cả đất
đai của cha ông. Thì, nhằm nhò gì ba cuốn sách hơi “ thoáng “ một
chút. Thế là những cuốn sách tuyển tập như thế ào ạt ra đời nhiều
đến tối mặt. Tự Lực Văn Đoàn, được in lại toàn bộ tác phẩm cả mấy
ngàn trang và những tác giả được nhìn ngắm lại, khách quan hơn nhưng
cũng vẫn trong còng lẩn quẩn. Yêu nước nhưng đi sai hướng,thí dụ như
vậy. Đọc trong những trang sách, thấy lờ mờ một chủ trương, đánh lẫn
lộn cái thực và cái giả. Thí dụ, để đánh bóng cái giả, phải làm thế
nào để những Hồ Chí Minh, Xuân Thủy, Sóng Hồng ( tức Trường Chinh
Đặng Xuân Khu, tổng bí thư đảng )… cũng là những nhà thơ lớn của
thời tiền chiến. Viết văn học sử theo chủ quan như thế khiến người
đọc nhiều khi như sa vào mê hồn trận và lạc vào trong một mê cung mà
không phân biệt nổi ảo và thực.
Ngày trước khi vừa bắt đầu đổi mới, một giám đốc xuất bản có tiếng ở
miền Namnhư Mai Quốc Liên cũng nhắc đến những khó khăn khi in và
phát hành những tuyển tập như thế. Mặc dù được sự đồng ý và yểm trợ
của lãnh đạo nhưng vẫn có phản ứng từ phía những người cực đoan bảo
thủ. Họ phê phán và tìm kiếm những sơ hở để công kích, với sự quy
chụp rất “ chính trị”… nhưng, hiện thực bây giờ là những cuốn tuyển
tập đã được in và phát hành tràn lan. Dường như, những chuyện lý
luận như vậy đã thành chuyện xưa cũ.
Điểm qua những cuốn sách tôi có, dù số lượng không nhiều cũng làm
chóng mặt.Những tác giả chen lấn trong những bộ sách đồ sộ, bìa
cứng,in đẹp. Tuyển tập Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan,
Nguyễn Đình ThI, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Hoài Thanh,
Vũ Ngọc Phan,… Có lẽ, đó là những công trình để lại cho đời. Nhưng,
đó có phải là hoàn toàn những tâm đắc của tác giả chưa thì còn phải
xét lại.
Cũng lại anh “ chính trị “ ló đầu vào. Tuyển tập Hoài Thanh dường
như thiếu phần viết về thơ tiền chiến chung với Hoài Chân. Tại sao
vậy, bởi vì tác giả trước đó đã băn khoăn vì đã viết quá trung thực
đế vô tình đụng chạm đến chủ trương đấu tranh giai cấp của đảng. Có
lúc Hoài Thanh đã cho những nhà thơ tiền chiến là “ giặc” vì đã góp
công ru ngủ dân trí, làm nổi bật cái “ ta” bạc nhược mà quên lãng đi
cái “ tôi” anh hùng. Bộ Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại là một bộ phê
bình thơ của một người yêu thơ, hiểu thơ, cảm thơ và tìm ra được
những nét đặc sắc của một thời kỳ thi ca nở rộ. Thế mà, trong tuyển
tập góp nhặt công trình một đời cầm bút lại không có phần quan trọng
ấy. Có lẽ, chúng ta hiểu vì sao ? Bởi có anh chính trị viên ló đầu
vào và cái màn tự ph tự kiểm đã làm Hoài Thanh năm lần bẩy lượt tự
mổ xẻ tự đấm ngực ăn năn cho tác phẩm của mình…
Hoặc nhà văn Nguyễn Tuân khi được in tuyển tập lần đầu tiên đã phẫn
nộ và cho rằng chỉ có được một phần không đáng dù rằng như thế cũng
đã được rồi. Nhà văn Nguyên Hồng khi được in tuyển tập của mình cũng
băn khoăn không biết mặt ngang mũi dọc sẽ ra sao..
Tôi có lần đọc một cuốn sách của giáo sư Phong Lê, Viện trưởng Viên
Văn Học ở trong nước : “Văn Học Trên Hành Trình Thế Kỷ XX”. Ông có
cái nhìn khá khoa học về giá trị đích thực của hai nền văn học “
cách mạng “ và “ kháng chiến”. Về giá trị nghệ thuật của nền văn học
này, ông cho rằng đó là một thứ “ công cụ tuyên truyền “ do những “
người viết văn “ tạo ra “ trong tư cách là.. cán bộ tuyên truyền “
(trang 308) … có “ giá trị như là những tư liệu ( trang 432 ) mặc dù
nó đã có “ hàng nghìn, hàng nhiều nghìn cuốn sách, hàng triệu, hàng
nhiều triệu trang in “ (trang 430) cà đã được khen, được ca tụng,
được trầm trồ” hết nơi này đến nơi khác, hết năm này qua năm khác “
( trang 431).
Giáo sư Phong Lê còn nhận xét nặng nề hơn nữa khi cho rằng nếu như
nhân vật thời đại là thước đo của bất cứ nền văn học nào được xem là
chủ lưu của thời đại đó thì khi cần làm việc ấy, văn học “ cách mạng
“ và “ văn học kháng chiến phải nhờ đến những con người “ đến từ
những trang sách khác, và không gian khác, chứ không phải của ta hôm
nay( trang 430) “ những nhân vật như Núp, chị Sứ, chị Uùt, anh Trỗi,
anh Thuận, mẹ Tom, em Hòa, chị Lý.. chỉ có giá trị hấp dẫn, cổ võ,
nêu gương đối với bạn đọc, nhằm đưa bạn đọc đến các chiến công và
đến với những thành công tất yếu của sự nghiệp cách mạng ( trang 427
). Những nnhân vật này chưa bao giờ là những “ điển hình văn học,
mang bóng dáng con người thời đại. Đó chỉ là những “ tượng, những
phù điêu đã và nếu là hoa thì cũng là hoa mọc trên đá hoặc hoa đá”
(trang 388). Ngoài lý do cách mạng và kháng chiến buộc người nghệ sĩ
phải “ hy sinh nghệ thuật để phục vụ chính trị, “ giáo sư Phong Lê
còn phân tích đến những nguyên nhân sâu xa, là cội rễ của những tình
trạng văn học yếu kém không sinh khí. Một trong những nguyên do
chính là lãnh đạo Đảng đã áp dụng một cách cứng nhắc cái gọi là
phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ông đã ví von đó là
sự cưỡng lại của quy luật nghệ thuật là quaí thai của lịch sử
( trang 418). Lý luận rằng khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ thì chủ nghĩa
hiện thực này cũng tan vỡ theo. Sau khi “ trả lại sự công bằng” cho
một loạt những tác giả như Boris Patenak, hay Milan Kundura hay
Platonov,…, ông nêu ra những mâu thuẫn không thể nào điều hòa
đượcïc. “ Duy có điều chắc chắn lànếu không xếp những tên tuổi trên
đây vào sở hữu của Chủ Nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thì rõ ràng
chẳng có gì đáng bàn, đáng tự hào về một nền văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa. nhưng liệu lô-gich đó có thuận không nếu có một tên
tuổi nào đó không chấp nhận, không chịu bước vào “ ngôi đền thiêng
này”, hoặc một tên tuổi nào đó được “ xếp hạng “ rồi bây giờ lại
được chứng minh là không xứng đáng và đã xa rời “ hiện thực” hoặc
chỉ đứng lại ở một nửa sự thực hoặc tô điểm cho sự thực. Tóm lại chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là thứ người ta tưởng tượng ra,
phỉnh nhau giết nhau vậy thôi, chứ làm gì có !!!?
Cuốn sách “ Văn Học Trên Hành Trình Thế Kỷ XX “ CỦA Phong Lê là một
cuốn sách tôi tìm thấy ở trong nhiều chi tiết cũng như lý luận thích
thú. Dù phần đầu với chân dung của 14 khuôn mặt tiêu biểu cũng có
nhiều điều phải coi lại : có Hồ Chí Minh, Tản Đà, Ngô Tất TỐ, Hoàng
Ngọc Phách, Vũ Đình Long, Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan, Trương Chính, Hải
Triều, Hoài Thanh, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng. Danh
sách ấy còn thiếu nhiều khuôn mặt và cũng dư nhiều vóc dáng. Và tôi
nhiều khi cố tìm những lý do để Phong Lê chọn lựa những tiêu biểu
như vậy ! Tới bây giờ vẫn còn ngờ ngợ phân vân…
Theo Lê Quý Kỳ, một người phê phán nặng nề cuốn sách này thì giáo sư
Phong Lê đã bị cách chức Viện trưởng Viện Văn Học vì chủ trương và
suy tư của ông đã biểu lộ trong tác phẩm. Thì có sao đâu, trong thời
buổi đổi thay thay đổi. Đúng, sai, có lúc lẫn lộn, thoảng khi…
|