Chuyện những người
Không Quân ngày tan chiến
Nơi ta ở, ngày
ấy là.. trại tù. Nơi ta ở, ngày ấy là.. nơi chôn vùi những ước vọng
thanh xuân. Nơi ta ở, là những cánh chim bị nhốt trong nan lồng. Nơi
ta ở, ngậm ngùi đời bại binh dằn vặt… Một người Không quân, làm thơ,
ở Long Khánh, mỗi ngày nhìn ngọn núi Chứa Chan và nghe tiếng còi tàu
của chuyến xe lửa chạy qua, lại bồi hồi. Ngày tháng như hun bằng lửa
đốt. Tháng ngày. như đếm bằng nỗi niềm. Có một bài thơ, đã được viết
lên trong tâm cảm ấy. Và suốt trong những ngày ở trại thù, bài thơ
ấy được giấu vào trong tận cùng tâm tư, thỉnh thoảng được đọc cho
những người bạn cùng chia sẻ ý nghĩ khi dạt dào cảm khái :
"Nơi ta ở rào kẽm
gai buộc trói
Lồng nan thưa heo hút mấy khoảng đời
Mắt man mác áng mây chiều vời vợi
Hết rồi sao thời cánh vỗ rong chơi
Núi sắc xám nhạt nhòa không gian tím
Cánh nhạn bay vỗ mỏi mấy tầng khơi
Tưởng nhớ thuở còn miệt mài chinh chiến
Sắc ngựa hồng xoãi vó giữa lưng trời
Nơi ta ở tiếng còi tàu nhắc nhở
Đỉnh Chứa Chan như chan chứa nỗi niềm
Lúc mạt vận thôi cũng đành dang dở
Mộng kiếm cung vào quá vãng cất riêng
Núi mù mịt cũng mịt mù năm tháng
Tàn sớm khuya lụn trưa tối hoang mang
Vết binh lửa nhét dồn vào quên lãng
Tim nhói đau khi nhớ lại bàng hoàng
Nơi ta ở mái tôn cong bốc lửa
Doanh trại xưa thành ngục thẳm ngậm ngùi
Lưng gạo mục nuôi thân ngày trâu ngựa
Đốt nắng trời nghe biển xối mồ hôi
Cuộc cờ tàn bó tay vì vận nước
Ta Thần ưng vẫn đợi lúc chuyển đời
Khi lịch sử với thần phong thổi ngược
Tinh đẩu nào rạng rỡ đã về ngôi
Nơi ta ở chập chùng căm với hận
Vuốt kên kên mắt cú vọ vô nhân
Conex biệt giam từng ngày tăm tối
Tiếng kẻng khua như nỗi chết đến gần
Ta an nhiên chờ một ngày ước vọng
Cánh chim thần lại ngang dọc tầng cao
Sẽ có ngày hùm thiêng giơ móng vuốt
Phi hổ xưa đường mây dệt trăng sao..”
Họ là những
người tù rất trẻ và trong tâm thức dường như vẫn còn dai dẳng một
cuộc chiến. Phần đông những người tù cải tạo đều hun đúc trong lòng
những nỗi niềm nhưng cố giữ gìn để chờ mong một ngày được trở về nên
sự chống đối chỉ là thụ động ngấm ngầm và không thành hành động.
Nhưng có một số cá biệt. Họ vẫn nghĩ cuộc chiến vẫn còn và mong ước
được một ngày thoát cũi xổ lồng và gặp được “quân bạn” để tiếp tục
cuộc chiến đấu. Ôi ! quân bạn, cái từ ngữ mà ngày nào ở trên
bầu trời đã sát cánh với nhau, thì lúc sa cơ, lại thành chữ thiêng
liêng của mộng lại tung hoành như xưa … Họ là những phi công trẻ,
của những phi đoàn Thái Dương, Phi Hổ, Thần Ưng, Thiên Lôi, Bắc
Đẩu,.. hay những sĩ quan không phi hành ngày xưa.
Đầu năm 1976
thời tiết hình như lạnh hơn mọi năm. Cái đói đi liền với cái rét.
Lúc ấy chúng tôi đang ở Long Khánh, hòm thư 75 09, mà chúng tôi đã
đùa cợt khi nói tới bẩy năm mà chưa chín được thì làm sao “cải tạo
tốt” để trở về lại với gia đình. Có phải đó là cái tên tiền định mà
bất cứ người tù nào cũng đều căm ghét ? Chiến tranh vẫn còn dấu vết,
từ những chiếc xe tăng T-54 bị bắn cháy với hàng chữ “tiểu đoàn 87
BĐQ hạ tăng này“ màu đỏ chói đến những căn nhà trong doanh trại cũ
đầy dấu đạn. Đó là với cảnh, còn với người thì rõ nét hơn. Những mắt
cú vọ, những lời xỉ mạ của kẻ thắng và ánh mắt căm hờn hay chế diễu
quân thù của người bại trận tù binh.
Những tháng ngày
nối tiếp để thấy ảo vọng hòa giải hòa hợp là không thực. Trong giờ
đọc báo buổi tối, trên tờ Nhân Dân thấy tin những quân nhân của chế
độ Tưởng Giới Thạch từ năm 1949 bị tù đày tới bây giờ (1976) mới
được xét để trả tự do. Và càng ngày, càng thấy được những ngu dốt
của kẻ chiến thắng, ăn nói một điệu như vẹt nhưng đời thường thì
phét lác ăn nói ngập ngọng, nhiều khi là sĩ quan mà không thông phép
toán cộng trừ nhân chia hay những điều khoa học thường thức sơ đẳng
nhất.
Nhớ lại những
ngày ấy, không phải để nhớ đến những người còn sống. Mà, chính là
dịp để tưởng niệm những người đã chết. Có rất nhiều anh hùng vô danh
đã ra đi của tất cả các quân binh chủng, từ chủ lực quân đến địa
phương quân, nghĩa quân. Rất nhiều gương kiêu dũng hào hùng. Riêng
tôi, từ những ngày bị tù đày, đã thấy những người đồng đội Không
quân của tôi, kiên cường với lý tưởng của mình và thách đố bạo lực.
Những người ấy, thỉnh thoảng còn nhắc lại trong đám bạn bè, nhưng
dường như là những chiến sĩ vô danh ít được đời nhắc đến. Thực ra,
tù đày là đồng nghĩa với khổ sở với nhân phẩm bị chà đạp và chẳng có
ai hãnh diện vì cái thua thiệt của mình. Nhưng với người đã chết,
phải có sự công bằng, của nén nhang tưởng nhớ của lòng tri ân vô vàn
của những người còn sống sót…
Một ngày trong
năm 1976, ở trại tù L9-T5, khối chúng tôi bị trực nên được lệnh di
chuyển hai conex lên phi trường không biết để làm gì. Lăn từng bước
từng bước, ba chục tù một conex xúm nhau đẩy trên mặt đất ghồ ghề.
Nửa chừng thì được lệnh lăn trở về vì không cần nữa. Về đến trại
thấy ở giữa sân có hai xác người nằm bêu dưới nắng. Thì ra, là hai
đồng đội của chúng tôi, vượt ngục ra đến bên ngoài thì bị bắn vì
chống cự lại.
Tất cả chúng
tôi, mắt như sầm xuống với một cảm giác đau đớn và nén lại những xúc
cảm vỡ òa. Hai xác người bê bết máu còn mặc bộ đồ trận cũ ngày xưa
là hình ảnh bám mãi vào tiềm thức tôi và khi nhớ lại không khỏi một
sự đau đớn. Hai phi công trẻ, Lê Văn Bé và Nguyễn Văn Lộc của phi
đoàn A37 ngày xưa bị phơi xác như một lối dằn mặt thị oai dã man
thời trung cổ. Và những người quản giáo đã xỉ mạ người chết để răn
đe người sống...
Chuyện cũ tưởng
đã vùi trong quên lãng thì một bữa ở xứ người tôi tình cờ gặp lại
anh Huỳnh Văn Giàu người bạn tù ngày xưa. Hai đứa không biết nhau
cho đến khi tình cờ nói chuyện về trại tù Long Khánh. Giàu chính là
người đã trốn thoát khỏi trại tù thành công và sau đó cũng tổ chức
vượt biên để thoát được một địa ngục có thật trong nước. Giàu nói
những chuyện ấy, nhỏ nhẹ tự nhiên và không có sự “ nổ “ hay khoe
khoang bản thân mình. Nhiều khi anh có có vẻ xúc động khi nhắc đến
những người bạn đã chết.
Bé, Lộc, và cả
Giàu, cùng nhiều người bạn trẻ khác nung nấu ý định vượt trại với
chủ đích đi sang Kam Pu Chia để đến Thái Lan. Dọc đường nếu có ”quân
bạn“ của lực lượng kháng chiến sẽ gia nhập. Để sửa soạn họ phải sửa
soạn cơm khô và vũ khí. Ở trong tù, cơm đã không đủ no mà phải để
dành một nửa phơi khô và giấu diếm ngụy trang để những tên “ăng ten“
hoặc quản giáo khỏi để ý. Còn vũ khí là những trái lựu đạn còn sót
lại mà những người tù hay tháo chốt ra để đầy trong lán ngủ mà ít ai
để ý. Họ dồn những trái lựu đạn lại gắn chốt vào và cất giấu đi để
chờ lên đường. Mỗi người sửa soạn một bao cát may khá kỹ càng để
chứa cơm khô và lựu đạn và một cây dao rựa cầm tay. Thời gian nuôi ý
định cũng khá dài và cho đến khi họ cảm thấy sự nguy hiểm là có thể
sẽ bị bại lộ.
Lúc ấy ở L9T5 có
quản giáo Hạ người gốc thiểu số thượng du thường tỏ ra căm thù và tổ
chức màng lưới ăng ten trong bếp, trong khối để báo cáo mọi chuyện.
Hắn mặt mày luôn khó đăm đăm, cái môi sứt luôn luôn đe dọa “cùm
nhốt“ những người tù cải tạo. Có lần hắn đã điểm mặt anh Lê Thụy một
cựu nhân viên Việt Nam Thông Tấn Xã : ”Có bửa óc anh ra thì cũng
chẳng cải tạo được. Chất phản động đã ngấm vào máu anh rồi..”. Nói
như thế khác nào tuyên án tử hình, chắc anh Lê Thụy giờ sống ở Quận
Cam còn nhớ?. Và, ở trong tù, cũng phải nói có nhiều người quá hèn
hạ để chỉ điểm báo cáo bạn bè mình. Và quân chủng KQ cũng có những
người như vậy. Khi được trả tự do, có một tên hồi trước làm giảng
viên trường Anh ngữ làm khối trưởng đã bị đánh ngay tại bến xe Phước
Bình vì những việc làm dơ bẩn báo cáo chỉ điểm hãm hại bạn bè.
Hồi trước, đã có
chuyện “tiến sĩ” Nguyễn Văn Hảo gửi thư chui về cho vợ đã viết là
“đừng tin những gì mà bọn này nói“. Thế là anh bị biệt giam, và mỗi
lần tập họp lại mang ra chì chiết xỉ mạ. Nào học tập mà còn tư tưởng
không an tâm, nghi ngờ cách mạng, nào dám dùng chữ “bọn ấy“ để chỉ
những người Cách mạng… Thực ra, anh này không phải là phó thủ tướng
VNCH Nguyễn Văn Hảo thật mà chỉ trùng tên thôi và chuyện của anh cứ
được nhắc lại hoài để bọn quản giáo răn đe hăm dọa. Không biết bây
giờ anh lưu lạc nơi đâu?.
Còn một chuyện
khác là chuyện của nhà văn Dương Hùng Cường. Trong khi “lên lớp“ với
bài học được soạn sẵn từ trung ương “truyền thống đoàn kết chiến đấu
của dân tộc Việt nam” thì Dương Hùng Cường đã phản bác lại là chỉ có
truyền thống chia rẽ chứ chẳng có đoàn kết gì cả, và ông đã mang
lịch sử từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh để chứng minh. Kết quả là
một chuỗi ghép tội, nào phản động, nào bóp méo lịch sử theo quan
điểm Mỹ Ngụy,.. toàn những tội có thể đáng đem ra bắn bỏ. Dương Hùng
Cường cũng là một nhà văn KQ và là tác giả của Buồn Vui Phi Trường,
Vĩnh Biệt Phượng, và là cây bút châm chích nổi tiếng Dê Húc Càn của
báo Con Ong thời trước. Về sau, ông bị bắt lại lần thứ hai trong Vụ
Án Hồ Con Rùa và chết ở trong xà lim của trại giam Chí Hòa.
Huỳnh Văn Giàu
đã kể lại những giây phút sửa soạn ra đi nghẹt thở ấy. Thực ra không
phải tất cả những người tham dự đếu đồmg nhất ý kiến. Có người muốn
chờ đợi thêm một thời gian nữa, có người muốn thực hiện ngay vì
những nguy hiểm bại lộ chực chờ. Một người chủ trương ra đi mạnh mẽ
nhất là Lê văn Bé. Anh đang bị bịnh ghẻ vì chứng phù thủng nên cứ
phải xin nước cơm để uống thay cho thuốc vitamin. Và cái hình ảnh mà
cả anh em trong đội thường thấy là Bé cố gắng tập đi và tập phơi
nắng để chữa bệnh ở sân trại. Chính Giàu đã nhiều lần thuyết phục Bé
nhưng anh vẫn khăng khăng quyết định hành động. Giàu kể lại là bọn
anh đã nghiên cứu khá kỹ những vọng gác và những lối ngõ có thể ra
đi an toàn, mang lương khô và lựu đạn dấu ở ngoài và chọn một lối ra
vượt hàng rào ở phía suối. Anh kể đã dùng hai cây cọc sắt để vượt
rào kẽm gai cũng như dò lần ra đường dây điện dể cắt đi làm cho toàn
thể cả khu mất điện làm cho các bóng đèn ở hàng rào không ánh sáng
để dễ dàng cho việc vượt thoát. Giàu quyết định đi sau nhưng giúp
Bé, Lộc và hai người bạn khác một là Quân Báo, một là Biệt Kích ra
đi. Đêm hôm ấy mưa lớn, tối khoảng mười giờ, Giàu ra hàng rào cắt
điện để lúc hai giờ đêm cả nhóm ra đi. Với cách dùng cọc sắt, dặt
trên hàng rào, đi qua, rồi cứ thế tiếp tục, cả nhóm ra được bên
ngoài. Giàu trở về trại. Và hình như họ chia làm hai toán. Lộc và Bé
một toán, còn hai người bạn khác một toán đi song song nhau. Và khi
Bé và Lộc bị toán dân quân bắt gặp sau khi đã đi được hai ngày. Bé
kêu Lộc chạy thoát đi để anh cản đường và tung lựu đạn ra. Lựu đạn
nổ và anh bị bắn hàng tràn đạn vào người. Lộc không đành bỏ bạn lại
một mình cũng tung lựu đạn chống trả. Và cả hai đã hy sinh. Không bỏ
anh em không bỏ bạn bè, câu châm ngôn của quân chủng thật đúng với
trường hợp của Bé và Lộc. Bọn VC đã căm thù bằng cách bêu xác hai
anh rồi khi chôn lại chôn sấp nằm úp mặt dưới đất và cũng không cho
làm bia mộ để làm dấu cho thân nhân về sau. Ông già Trạch, một người
tù cải tạo trong toán đi chôn thấy thế nhảy xuồng huyệt để lật ngửa
xác Bé lên thì bị một tên vệ binh lên cò súng và chửi thề rồi hỏi
“Đ. M. mày muốn xuống nằm chung không thì bảo ?” Về sau, những người
bạn tù đi qua, lén lút mang lại những hòn đá để làm dấu cho hai ngôi
mộ. Không biết thời gian qua, có còn dấu vết gì để thân nhân hai anh
cải táng?
Huỳnh văn Giàu
là người tù hầu như duy nhất của L9T5 vượt trại thành công. Anh là
người tạo ra nhiều huyền thoại cho những bạn tù cùng trại. Có người
nói anh đã qua tới Thái Lan, có người nói gặp anh ở Sài Gòn... Tôi
hỏi và Giàu chỉ cười, không nói. Bản tính khiêm nhường khiến anh
không muốn nói về mình nhưng lại rất xúc cảm, rất chân thành khi nói
về hai người bạn đã hy sinh…
Đã hơn ba chục
năm, đáng lẽ con sông Bến Hải chia cách đã phải lấp từ lâu. Một cuộc
chiến tàn khốc mà cả dân tộc bị thiệt hại và chỉ tạo lợi nhuận cho
những đám kên kên sống trên những xác chết. Có nhiều người kêu gọi
hãy quên đi dĩ vãng để xây dựng lại đất nước và hàn gắn lại dân tộc.
Điều ấy, bất cứ một người yêu nước nào dù ở bên này hay bên kia đều
mơ ước. Nhưng, những người nắm quyền lực trong tay, chỉ là thiểu số
ít ỏi của hơn 80 triệu dân, ngoài mặt nói chuyện đoàn kết nhưng bên
trong thì vẫn không từ một thủ đoạn chia rẽ nào để cố giữ lại quyền
lực thống trị. Cả với người đã chết, như chuyện áp lực với các nước
lân bang đập phá không cho dựng tương đài tưởng niệm những người bỏ
mình khi vượt biển. Hay để nghĩa trang quân đội nơi chôn cất các tử
sĩ của QLVNCH bị bỏ hoang phế, tượng Tiếc Thương bị kéo sập. Như
vậy, chuyện cũ đã chưa thể quên lại cộng thêm những chuyện mới xảy
ra. Thế thì làm sao tin tưởng được để hòa giải hòa hợp với nhau để
hàn gắn lại những đau thương tan nát./.
|