Con chó của bà tôi
LTG:
Đây là một câu chuyện thật trong cuộc đời của một cậu bé, thời
thơ ấu sống với bà ngoại. Nay đã trưởng thành, tuy sống xa quê
hương nhưng trong lòng vẫn giữ nguyên những kỷ niệm với bà
ngoại, người đã gần gũi với cậu nhiều nhất trong thời thơ ấu.
Đêm nay, một đêm trăng rằm, ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời
nhung thẫm, ở thành phố hiếm khi thấy một đêm trăng tuyệt vời
như thế. Có lẽ giờ này cũng gần nửa đêm, tôi trở về nhà sau mấy
giờ ngồi đọc sách miệt mài trong thư viện trường, đầu óc cảm
thấy mệt mỏi, tự nhiên tôi muốn có vài phút giây yên tĩnh để
lòng mình ngất ngây với cái đẹp của một đêm trăng sáng.
Đứng lại một lúc lâu trước sân nhà để ngắm trăng giữa cái yên
lặng của đất trời, ánh trăng như giãi lên cây cỏ, hoa lá một thứ
ánh sáng mượt mà, lung linh, huyền ảo. Chỉ có bóng cây lay động
dưới ánh đèn đường buồn bã, chỉ có tiếng lá khô lăn tròn trên
mặt đường chạy xuống cuối dốc, và tiếng chó sủa khắc khoải phía
chung cư bên kia bãi đất trống.
Nghe tiếng chó sủa vu vơ tự nhiên tôi lại nhớ đến bà tôi, dù đã
bao nhiêu năm, từ ngày bà tôi mất đi đến nay, trong lòng tôi vẫn
không thể nào quên khuôn mặt hiền hậu của bà, ngời ngời như ánh
trăng rằm trên nền trời cao vời vợi. Tiếng chó sủa đêm nay sao
nó giống lạ lùng với tiếng sủa của Tony, con chó lạc loài mà bà
tôi đã nuôi nấng khi bị vứt bỏ bên vệ đường, nó đã trở thành
người bạn thân thiết của tôi trong những ngày thơ ấu, ở một nơi
yêu dấu chốn quê nhà.
Tony là một con chó con ốm yếu, bệnh hoạn với màu lông vàng lốm
đốm nom chẳng bắt mắt tí nào, nó giống như một đứa trẻ mồ côi,
lúc nào cũng rên ư ử vì đói, vì buồn, vì thiếu mẹ. Không hiểu
tại sao bà tôi lại đặt tên Tony cho một con chó cái, trong khi
bà chẳng hề biết một chữ Tây, chữ Mỹ nào cả. Con chó Việt Nam
mang một cái tên rất Mỹ, có thể bà nghĩ rằng cái tên đẹp đẽ đó
sẽ làm cho đời nó may mắn hơn, mà cũng có thể ngày xưa lúc các
con còn ở nhà, vẫn hay đem chữ Tony ra đùa cợt với nhau, cho nên
nó đã vô tình in vào trí nhớ của bà tôi.
Giữa lúc ấy cả nhà đang chật vật với miếng ăn hằng ngày, Tony
xuất hiện thật không đúng lúc, vì nó cần uống sữa, sữa lại là
thứ thực phẩm cao cấp mà ngay cả lũ trẻ con chúng tôi cũng ít
khi được thưởng thức. Tuy vậy, tôi cũng không mảy may ganh tị
với Tony khi bà tôi bóp bụng mua một hộp sữa đặc hiệu Ông Thọ
cho nó, vì lẽ rất tự nhiên là tôi cũng đã được mẹ cho bú đến
mười lăm tháng mới thôi, rồi cho đến lúc thôi bú tôi vẫn khóc ri
ri mỗi buổi tối, khi nhớ hơi ấm và giòng sữa ngọt từ đôi bầu vú
mẹ. Sau này mẹ đẻ thêm em bé, tôi lại thích thú nhìn em tôi rúc
vào ngực mẹ, cái miệng tham ăn vừa bú chùn chụt, vừa lẩu nhẩu,
lầu nhầu như một chú chó con.
Bố tôi không có nhà, tôi chỉ lờ mờ hiểu vì sự vắng mặt không hẹn
ngày về của bố, nhưng cũng không thắc mắc hơn khi bà tôi hầu như
đã đem hết tình thương để bù đắp cho đứa cháu nhỏ tội nghiệp. Mẹ
tôi phải ngồi chợ suốt ngày, chỉ có hai bà cháu ở nhà trong
những giờ anh tôi đến trường, chính Tony đã mang đến cho tôi
niềm vui trong tiếng cười khúc khích trẻ thơ, mỗi khi hai đứa
đuổi nhau vòng quanh nhà, có lúc tôi đã bày trò chơi cút bắt với
nó, để thấy được ánh mắt mừng rỡ của Tony khi tìm được cậu chủ
nhỏ.
Mẹ tôi lúc ấy cũng khá vất vả để tìm đủ cơm gạo cho một gia đình
bốn miệng ăn, không kể Tony chỉ được ăn cơm thừa canh cặn, cùng
chút xương xẩu sau mỗi bữa cơm. Nhưng hình như nó có vẻ bằng
lòng và an phận khi lạc loài vào căn nhà kém may mắn vật chất,
nhưng lại thừa thãi tình thương cho nó. Có những lần, tôi có cảm
tưởng như là bà tôi đã phải nhịn bớt phần cơm của bà dành cho
con vật đáng thương và trung thành ấy.
Trong đêm khuya, khi cả nhà đã ngon giấc, bà tôi trăn trở không
ngủ được thường ngồi dậy ăn trầu, chắc lúc ấy trong trái tim bà
mẹ già, hình ảnh những đứa con xa gần đang hiện về trong trí
nhớ. Bà hay gọi tên các con, từ bác cả đã phải theo vợ về quê
lập nghiệp, sống cuộc đời nông dân chân lấm tay bùn. Mỗi lần
được về quê thăm bác, tôi không tin nổi khi nhìn bác quần ống
thấp ống cao, với đôi chân đất không giày dép.
Bà tôi có năm người con nhưng chỉ có mình mẹ tôi út ít ở với bà,
và có lẽ bà cũng thương mẹ tôi nhất. Thỉnh thoảng vào buổi tối,
khi học bài xong, anh em tôi thường quấn quýt bên bà nghe kể
chuyện. Bà tôi có nhiều chuyện lắm, nhưng hay nhất có lẽ là
những chuyện ma, tôi vẫn nhớ là lúc ấy anh em tôi đã co người
lại không dám thò chân xuống đất, tưởng như cái bóng đen mịt
mùng ngoài khung cửa kia có biết bao nhiêu điều kỳ bí. Mỗi lần
như thế mẹ tôi lại mỉm cười âu yếm nhìn hai đứa con đang thu
người lại bên bà mẹ già, sau mẹ tôi kể rằng, ngày còn nhỏ mẹ
cũng có những cảm giác giống hệt anh em tôi, rồi khi lớn lên,
mới thấy rằng ma không đáng sợ bằng người. Câu nói của mẹ tôi
khó hiểu quá, cái đầu ngây thơ của tôi không làm sao hiểu nổi,
để mãi sau này khi bà tôi mất đi, chúng tôi lớn dần lên, mới
thấy những thứ ma cỏ trong chuyện của bà tôi, chưa hẳn là những
điều đáng sợ.
Tuy vậy cả nhà cũng yên lòng vì từ nay trong nhà đã có Tony, bây
giờ khá xinh đẹp và bụ bẫm, cũng nằm yên dưới chân giường, ghếch
cái mõm lên đôi chân, đôi mắt nâu cuả nó thỉnh thoảng lại mở ra
nhìn anh em tôi, như muốn chia sẻ cái sợ hãi vu vơ trong đầu đám
trẻ nhỏ. Nhà tôi có nuôi thêm một con mèo tam thể, trông nó mềm
mại xinh đẹp mà tính tình lại chẳng dễ thương, thỉnh thoảng nó
vẫn hay gây sự với Tony, hai đứa cứ vờn nhau quanh chiếc phản
gỗ, ồn ào như hai đứa trẻ con đang cãi nhau.
Trong đêm khuya, khi cả nhà đã say ngủ, có lẽ chỉ mình Tony vẫn
lơ mơ ngủ dưới chân bà, mỗi khi bà tôi buột miệng gọi tên một
người con nào bà nhớ thì nó lại nhỏm dậy, hoặc ngóc đầu lên, đưa
đôi mắt ngơ ngác như muốn chia sẻ nỗi niềm với bà tôi. Không
hiểu những lúc ấy, các bác của tôi đang xa nhà, có cảm thấy
trong tâm can chút nhớ nhung về người mẹ già hiền lành ấy không?
Sống bên cạnh bà tôi, lại được bà thay mẹ dạy bảo, tôi đã thừa
hưởng được phần nào tấm lòng nhân ái của bà tôi, cho nên mỗi lúc
có tiền, tôi cũng rất hào phóng với những người ăn xin nghèo
khổ, ngồi đầy trước giáo đường mỗi ngày chủ nhật. Mỗi lần chia
sẻ với họ những đồng hào lẻ trong túi, tôi được họ trả công bằng
những nụ cười của lòng biết ơn, thế mà nó cũng làm tôi sung
sướng suốt cả ngày. Tony cũng như tôi, nó cũng thừa hưởng được
lòng nhân ái từ nơi bà tôi, để sau này khi làm mẹ một đàn chó
con tham ăn, tranh phần ăn của mẹ, Tony vẫn lui ra đứng nhường
cho con nó với một vẻ hiền lành, chịu đựng. Tự nhiên tôi liên
tưởng đến bà, những lúc nhìn bầy cháu lâu nhâu tranh nhau những
món ngon, bà đã giả vờ nói đầy bụng để nhường phần ăn cho cháu,
không than thở một câu nào.
Năm tôi lên tám tuổi thì bố tôi về, Tony cũng mừng rỡ như đã
biết bố tôi từ lâu lắm, khi nhìn bố con tôi quấn quýt bên nhau,
có lẽ nó cho bố tôi là người đáng tin cậy khi thấy tôi chơi đùa
với bố, như đã từng chơi đùa với nó. Một lần Tony đã không ngần
ngại khi cắn vào gấu quần của bố tôi lôi lại, cũng vì nó tưởng
bố tôi ỷ lớn ăn hiếp bé khi hai bố con đang quần võ với nhau.
Tôi cứ rũ ra cười, bố tôi thì lại muốn trêu thêm con chó tội
nghiệp đang tìm cách bênh người yếu đuối. Không phải chỉ ở trong
nhà, ngay cả những lúc tôi rảo chơi trong xóm, bị lũ chó hàng
xóm tấn công, thì Tony cũng quyết một lòng chiến đấu với lũ nặc
nô hàng xóm, gồm hai mụ chó lông xù to mồm hay sủa bậy.
Gia đình tôi đã sống những ngày êm ả trong cảnh đời không được
sung túc, có hình ảnh bà tôi quanh năm ngày tháng chỉ giản dị
tấm áo cánh nâu, chăm sóc cho lũ cháu để cha mẹ tôi yên lòng vật
lộn với cơm ăn áo mặc giữa chợ đời. Chắc vì thế mà tôi gần gũi
với bà, đi học về bà luôn luôn dành cho tôi củ khoai, cái bánh,
và tôi cũng không quên chia xẻ cho Tony một chút, như có vui
cùng vui, khổ cùng khổ. Chỉ vì đói mà Tony cũng có lúc lục lọi
kiếm ăn để bị đòn một trận nên thân, nhưng ngay lúc ấy, nghe
tiếng kêu oăng oẳng cuả một con chó đói, tôi lại hối hận như là
đã cư xử thiếu tốt đẹp với một người bạn thân đang lúc đói khổ,
con người lắm khi còn chẳng tự chủ được huống gì là một con chó.
Tôi lên tiếng gọi nó, định vuốt ve nó để bày tỏ lòng hối hận cuả
mình, nhưng Tony dường như còn sợ hãi, chỉ lấm lét nhìn tôi từ
một khoảng xa. Rồi như một đứa bé mau hờn mà lại dễ quên, Tony
ngoe nguẩy cái đuôi và chạy tới bên tôi, giụi đầu vào chân tôi
có vẻ như biết lỗi. Ôi thương quá những con vật đói khổ, giá như
Trời cho tôi có đủ cơm ăn, nỡ lòng nào tôi lại để Tony thiếu
thốn.
* * *
Có một hình ảnh không thể nào nhạt nhòa trong lòng tôi cho đến
tận bây giờ, đó là năm bà tôi qua đời lúc tôi lên mười. Khi ấy
bà ốm đau nằm liệt một chỗ, cả cái thân hình gầy đét ấy như dán
xuống mặt giường, dưới tấm chăn mỏng tôi cứ ngờ ngợ không biết
bà còn sống hay đã chết. Những lúc ấy hầu như Tony lúc nào cũng
quanh quẩn dưới chân giừơng của bà, mặc dù không biết nói, không
làm sao chia sẻ được những cảm nhận với con người, nhưng nó vẫn
nhấp nhỏm khi nghe tiếng rên khe khẽ của bà tôi trong cơn đau
đớn. Thỉnh thoảng, như một người quản gia rất chăm chỉ, nó đưổi
theo một cánh bướm lượn ngoài sân, rình một chú chuột nhắt lục
sục dưới gầm trạn, rồi lại quay về nằm lơ mơ dưới chân giường
người bệnh.
Những ngày cuối đời ấy, trong lòng bà tôi lại chập chùng nỗi nhớ
thương những đứa con xa nhà, thỉnh thoảng không biết tỉnh hay
mê, bà tôi gọi tên từng người. Các bác tôi thay nhau về thăm,
đến rồi đi, có người xa quá lại không về được, có người vì nghèo
phải chạy theo cơm áo. Mỗi lần về lại có cảnh chia ly bịn rịn,
tôi thấy đôi mắt đẫm lệ của bà tôi cố mở to ra, như muốn thâu
hết hình ảnh của từng đứa con vào lòng.
Buồn làm sao cái ngày cả nhà đưa bà tôi sang bên kia sông, trong
chiếc áo quan màu vàng thẫm giữa những tiếng khóc rấm rứt của lũ
cháu con, và tiếng kinh cầu hồn quyện lẫn hồi chuông chiều buồn
lê thê của ngôi giáo đường bên kia sông. Giây phút cuối cùng ấy,
Tony quay cuồng chạy vào chạy ra khi thấy chiếc giường trống
không của chủ, nó rít lên nho nhỏ những âm thanh ai oán thay cho
tiếng khóc của con người, khi chiếc áo quan được chuyển ra khỏi
nhà, trên chiếc thuyền tròng trành tách qua bờ bên kia.
Lần cuối cùng bà tôi được đưa vào nhà thờ, rồi đem chôn ở khu
nghĩa địa bên kia đường. Sau này, mỗi khi tôi ngồi một mình
trong ngôi giáo đường miền quê êm ả, lòng không khỏi rưng rưng
khi nhớ đến hình ảnh còm cõi của bà tôi, miệng bõm bẽm nhai
trầu, tay phe phẩy chiếc quạt, bàn tay gầy gò, nhăn nheo lần rờ
trong làn vải để gãi lưng cho cháu. Tôi đã có những buổi trưa
ngủ lơ mơ bên cạnh bà, mùa hè trời nóng bức, mây trên trời như
đứng lại không buồn trôi, cây cỏ im phăng phắc không một hơi
gió, những lúc ấy bà vẫn quạt cho cháu ngủ. Dưới đất là con
Tony, nằm thè lưỡi ra với cái nắng hè gay gắt, con vật trung
thành ấy lúc nào cũng quấn quýt bên hai bà cháu, như nó đã là
một thành viên quen thuộc trong gia đình.
Sau này, bà tôi không còn nữa, tôi cứ bị ám ảnh khi nghe người
ta kể lại rằng, trong khu nhà thờ ấy, một người trong đêm khuya
vào ngày lễ Các Linh Hồn, đã nhìn thấy từng đoàn người từ phiá
nghĩa trang mặc áo trắng, cầm nến đi từ từ qua khu nhà thờ giữa
một đêm trăng sáng. Tự nhiên tôi cứ nghĩ một cách chắc chắn rằng
bà tôi đã có mặt trong đoàn người lành thánh đó.
Những buổi chiều năm xưa, những ngày sau khi bà tôi mất, tôi hay
ngồi một mình ngoài bến sông, để say mê nhìn từng đợt sóng nhỏ
gờn gợn đẩy vào bờ. Không biết có phải lúc ấy tâm hồn tôi đang
đi tìm kiếm lại những ảnh hình thân yêu cuả dĩ vãng, như dòng
sông vẫn còn đó, mà dòng nước đã trôi đi biết bao giờ trở lại?
Gió vẫn xạc xào trên rặng dừa dưới mé sông, khi con đò đưa khách
tách bến sang bên kia phố chợ, tôi vẫn ngậm ngùi nhớ bà tôi và
tưởng lại những ngày yêu dấu cũ. Không biết tự bao giờ, Tony
cũng ngồi bên tôi ngơ ngẩn nhìn theo chiếc đò trên dòng sông
lặng lờ trôi. Đôi mắt nó buồn rầu như có vẻ hiểu rằng, có một
mảnh hồn đã mãi mãi tách qua bờ bên kia, biền biệt đi vào miền
vĩnh cửu.
Nguyên Nhung |
Thơ Văn chỉ là những gì
trong tâm tư của người viết, gửi vào cuộc đời chút chia xẻ
đã trải qua, cảm nhận được. Dòng đời giống như một dòng
sông, có khi êm đềm, có khi dậy sóng, nơi ấy bao nhiêu con
thuyền đã có duyên để gặp gỡ nhau, tìm được nhau qua những
buồn vui của thân phận người.
Nguyên Nhung.
|