Tản Đà,
"
Thề
non
nước
"
-
PSN 30.08.2008
Đọc, nói thơ là một trong những nghệ thuật sống đẹp không thể
thiếu của nhà thơ Nhất Hạnh, nghệ thuật đó đã có từ khi thi sĩ còn
rất trẻ. Sau khi xuất gia và trở thành thiền sư nhà thơ đã biến
nghệ thuật ấy thành truyền thống trong các thiền viện của Mai thôn
đạo tràng do ông hướng dẫn.
Phù Sa đã sưu tầm từ nhiều nguồn riêng biệt rải rác đó đây những
bài bình giảng ấy của thi sĩ dưới dạng âm thanh, rồi phiên tả,
biên tập lại thành văn viết. Tuy có tính cách riêng tư vì Thầy chỉ
nói riêng với học trò trong chốn thiền môn, nhưng nhận thấy: ngoài
giá trị về mặt văn học, nghệ thuật, tác giả còn mở ra cho ta một
khung trời mới, khung trời của trí tuệ và tình thương lớn, mà chỉ
có tuệ giác của một Thiền sư mới thể hiện được cho dù nguyên tác
là những bài tình thơ lãng mạng.
Phù Sa
sẽ lần lượt phổ biến lên trang này từng bài một trước khi in thành
sách với tựa đề
Thơ trong cửa thiền hay Thầy Nhất Hạnh
đọc thơ .
Và đây là bài thơ
Thề non nước
của Tản Đà
mà Thầy đã đọc cho học trò 4 chúng tại tu viện Làng Mai Pháp quốc
trong khóa tu mùa hè năm hai ngàn lẻ ba.
ôm nay chúng ta học một bài
thơ của thi sĩ Tản Đà, bài Thề Non Nước. Bài này có liên hệ tới
sự chia cách, nhớ thương và sầu khổ.
Tản Đà - Nguyễn
Khắc Hiếu
1888-1939
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc
Hiếu, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1888 (tức ngày 29 tháng 4 năm
Mậu Tý), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây;
nay là huyện Ba Vì.
Ông xuất thân trong một gia đình phong kiến quan lại. Thân
sinh ông là Nguyễn Danh Kế, đỗ Cử nhân, làm đến Án sát và
từng giữ chức Ngự sử trong kinh. Mẹ là Lưu Thị Hiền, cũng có
sách ghi là đào Nghiêm, vốn là một đào hát, nổi tiếng tài
sắc, giỏi văn thơ.
Do ảnh hưởng gia đình, năm 14 tuổi, ông đã thạo các lối từ
chương thi phú. Năm 1907, ông theo anh ra Hà Nội, học trường
Quy Thức ở phố Gia Ngư. Năm 1909, đi thi hương ở Nam Định bị
hỏng. Năm 1912, đi thi khoa Nhâm Tý
vẫn hỏng, chán nản bỏ về Hòa Bình
uống rượu, làm thơ và thưởng trăng.
Năm 1915, ông lập gia đình. Năm 1916, người anh từ trần, gia
đình trở nên cùng túng, Tản Đà quyết định chuyển hẳn sang
nghề cầm bút. Thời gian này ông viết tuồng cho các rạp và
được đọc thêm nhiều sách dịch Âu Tây bằng chữ Hán, nhờ đó tư
tưởng có nhiều biến chuyển.
Năm 1920, đi du lịch ở Huế, Đà Nẵng, trở về viết truyện "Thề
non nước". Năm 1921, làm chủ bút tờ Hữu Thanh tạp chí. Được
6 tháng, từ chức, trở về quê. Năm 1922, lại ra Hà Nội lập
Tản Đà thư điếm, sau tập hợp với Nghiêm hàm ấn quán thành
Tản Đà thư cục.
Năm 1925, phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ, Tản Đà càng
nhập thế tích cực hơn. Ông tổ chức một chuyến du lịch vào
Nam, gặp gỡ nhiều nhà chí sĩ và viết bài trên nhiều báo.
Tháng 2 năm 1928, trở về Bắc, rồi lên định cư vùng Yên Lập
(Vĩnh Yên), sau xuống Hải Phòng, rồi
lại lên Hà Nội. Năm 1933, sau khi An Nam tạp chí bị đình
bản, ông chuyển sang trợ bút cho Văn học tạp chí ít lâu rồi
về quê ở ẩn.
Cuối năm 1937, chuyển về làng Hà Trì (Hà Đông), tham gia
dịch thuật, viết báo. Sau chuyển ra Hà Nội, mở lớp dạy Quốc
văn hàm thụ, Hán văn diễn giảng, kiêm cả xem lý số Hà lạc.
Ông sống nghèo, không đủ trả tiền nhà
phải cùng gia đình dọn về phố Cầu mới.
Trong hai năm 1937 và 1938, ông dịch thơ Đường đăng trên báo
Ngày nay, trong đó có bài Hoàng Hạc lâu nổi tiếng của Thôi
Hiệu.
Ông qua đời vì bệnh vào ngày 17 tháng 6 năm 1939.
Trên văn đàn của văn học Việt Nam trong hơn 3 thập niên đầu
thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc
đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tạo. Ông là một cây bút phóng
khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực, đi khắp miền đất nước,
ông để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng
làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Ông được đánh
giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền
văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ
điển và hiện đại".
Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ
Đường ra thơ lục bát và được biết đến như một người dịch thơ
Đường hay nhất.
Tác phẩm:
Văn:
* Giấc mộng con I (1917)
* Giấc mộng con II (1932)
* Giấc mộng lớn (1932)
* Thề non nước (1922)
* Tản Đà văn tập (1932)
Thơ:
* Khối tình con I (1916)
* Khối tình con II (1916)
* Tản Đà xuân sắc (1918)
* Khối tình con III (1932)
Kịch:
* Tây Thi (1922)
* Tống biệt (1922)
Dịch thuật:
* Liêu Trai chí dị (1934)
Nghiên cứu:
* Vương Thúy Kiều chú giải (1938)
* Một số bài báo...
|
Thề non nước là lời thề giữa núi và sông, một mối tình, một sự
cam kết giữa núi và nước
cũng
như hai người sống chung với nhau, thương nhau và có hạnh phúc
với nhau.
Hai
người đó có thể là hai cha con, hai mẹ con, hai anh em, hai vợ
chồng hay hai thầy trò.
Người
này nguyền với người kia, hứa hẹn với người kia là không bỏ
người kia, nhưng vì một biến cố nào đó mà có sự xa cách, vì có
sự xa cách nên có sự trách móc, hờn giận. Thề tức là lời nguyền.
Non
là núi và nước là sông với biển. Thề non nước tức là lời thề
giữa núi và sông. Tản Đà là tên
ghép từ
hai chữ Tản và Đà. Ở ngoài Bắc có núi Tản Viên và sông Đà Giang.
Cách nay hơn một trăm năm có đứa bé được sinh ra ở vùng núi Tản,
sông Đà, được hun đúc bởi khí thiêng sông núi đó, lớn lên thành
thi sĩ, lấy bút hiệu Tản Đà. Hai câu đầu của bài thơ là :
Nước non nặng một lời thề,
Nước đi, đi mãi, không về cùng non.
Nước non nặng một lời thề
là lời thề rất nặng. Mình đem tất cả trái tim của mình ra để ước
nguyện, cam kết. Nhưng mà :
Nước đi, đi mãi, không về cùng non.
Cũng như mình
qua Tây rồi ở luôn không chịu về nữa! Tôi ra đi năm 1966 và hứa
với các bạn sẽ về trong ba tháng, vậy mà ở bên này luôn bốn mươi
năm vẫn chưa về.
Cho
nên đọc bài này,
tôi
thấy thấm lắm. Chính quyền chưa cho về, nhưng tôi tìm cách để
về. Không về được bằng thân xác của tôi thì tôi về bằng đường
tinh thần. Tôi gửi đệ tử xuất gia cũng như đệ tử tại gia từ
nhiều nước về. Bên nhà đã in chui sách và sang chui băng đĩa của
tôi.
Như
vậy thì tôi cũng đã về rồi.
Nhưng
phải thấy được bằng con mắt vô tướng. Tuy rằng tôi chưa về,
nhưng kỳ thực tôi đã về rồi. Trong bài thơ này mình cũng phải
thấy được chuyện đó, phải nhìn sâu bằng con mắt vô tướng, mình
đừng để bị kẹt vào hình tướng bên ngoài.
Nước non nặng một lời thề.
Vậy mà nước đi hoài.
Nước đi, đi mãi, không về cùng non.
Trong quí vị, người nào có tâm trạng đó, đọc bài này sẽ thấm
lắm.
Nhớ lời "nguyện nước thề non",
Nguyện nước thề non là một thành ngữ
gốc
chữ Hán,
thệ hải minh sơn.
Mình và cô nàng (mình tạm cho núi là anh chàng và nước là cô
nàng) đã thề thốt nặng lời với nhau, vậy mà cô nàng đi, đi hoài
không chịu về. Cô nàng hứa là cô sẽ về, nhưng mà cổ đi luôn.:
Nước non nặng một lời thề,
Nước đi đi mãi, không về cùng non.
Nhớ lời "nguyện nước thề non",
Nước đi chưa lại, non còn đứng không.
Non còn đứng không
tức là núi đứng chơ vơ một mình. Nước đi chưa lại tức là nước đi
chưa về.
Khứ và lai, khứ là đi và lai là lại. Núi đứng một mình và núi
nói giọng trách móc.
Nước đi chưa lại, non còn đứng không.
Non cao những ngóng cùng trông,
Mình
không có hạnh phúc, tại vì mình luôn có tâm trạng chờ đợi,
ngóng, trông; cứ nghĩ chừng nào người kia về chừng đó mình mới
có hạnh phúc, còn người kia chưa về thì mình chưa có hạnh phúc;
mình không có khả năng tiếp xúc với những mầu nhiệm của cuộc đời
và vì vậy cuộc đời mình trở thành những chuỗi đợi chờ, rất là
uổng. Ở Việt Nam có người thiếu phụ, chồng đi lính, cứ đợi
chồng, ngóng trông chồng quá, một hồi trở thành đá, gọi là Hòn
Vọng Phu. Không chịu sống chỉ chờ đợi thôi.
Non cao những ngóng cùng trông,
Những ngóng cùng trông
tức là suốt ngày không có làm ăn gì hết, chỉ để tâm trạng nhớ
thương, đợi chờ và trách móc. Những người như vậy sống không có
hạnh phúc. Trong chúng ta, người nào sống trong tâm trạng chờ
đợi, khổ đau, than trách nên đọc bài này để quán sát tuy
đây
là một bài thơ và thi sĩ không phải là một pháp sư, nhưng bài
này có tuệ giác của đạo Bụt
Suối khô giòng lệ chờ mong tháng ngày.
Hình ảnh một dòng suối từ trên núi chảy xuống không còn nước
nữa: tui không khóc được nữa, tui hết nước mắt rồi, tui khóc
mấy chục năm nay, bây giờ tui không còn nước mắt nữa, gọi là
suối khô giòng lệ và chờ mong tháng này qua tháng khác, năm này
qua năm khác. Tác giả lại còn cường điệu thêm nữa.
Xương mai một nắm hao gầy,
Nhớ thương, chờ đợi, bây giờ trở thành ra mình hạc, xương mai.
Có một cây gọi là cây liễu, tượng trưng cho nỗi buồn, buồn như
liễu - cây liễu ủ rũ thành ra nói buồn như liễu. Buồn thì không
có niềm vui, mà không có niềm vui thì ốm đi. Ốm như cây gì?
-
cây mai. Ở Việt Nam có cây mai vàng, mai trắng, đến Tết người ta
cắt vào đem cắm trên bàn thờ. Cái đẹp của cây mai không phải là
mập, mà là gầy và phải có bông thì mới đẹp. Người nào mảnh mai,
gọi là mình hạc xương mai. Hai hình ảnh đó, tuy ốm nhưng mà đẹp,
mình hạc, xương mai. Nhưng ở đây không phải là nhịn đói để bớt
ký lô cho mình đẹp. Cái ốm của mình không phải do cố tình ăn
régime, diet để cho ốm, cho đẹp, để cho có mình hạc xương mai,
mà tại nhớ quá, thương quá thành ra mình ốm: tui ăn không
được, tui ngủ không được nên tui ốm. Vì vậy cho nên thấy núi
xác xơ, xương mai một nắm hao gầy, giống như mình hạc
xương mai. Tội nghiệp ghê hôn ! Chớ nói tui ốm quá, tui gầy quá
thì đâu có hay. Phải nói mình hạc, xương mai, một nắm hao gầy
thì mới hay. Suối khô giòng lệ, xương mai một nắm là hình
ảnh mình phải sử dụng thì mới trở thành thơ được.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Các anh nào hay các cô nào muốn làm thơ phải bắt chước Tản Đà.
Thường thì mây đi chơi trên trời nhưng tối mây về đỉnh núi ngủ,
cho nên đỉnh núi luôn luôn có mây phủ. Và thi sĩ nói: Ôi, tóc
bạc rồi, nhớ thương quá tóc bạc rồi. Mây thì luôn luôn màu
bạc. Thấy núi phủ mây bạc: Chao ôi, ông này buồn quá, nhớ
thương quá nên tóc ổng bạc rồi. Khi nhớ thương nhiều, lo
lắng nhiều, đầu mình bạc rất mau. Ngày mình hạnh phúc, mình còn
có nhau, tóc mình xanh, bây giờ bị xa nhau, tóc mình bạc. Tóc
bạc là tại vì nhớ thương. Mình hạc, xương mai, tóc bạc là để nói
tới sự nhớ thương của núi đối với nước.
Trời Tây ngả bóng tà dương,
Nhìn phương trời về phía Tây vào buổi chiều. Triêu dương là ánh
sáng buổi ban mai, tà dương là ánh sáng buổi chiều, chênh chếch
nên gọi là tà. Khi mặt trời đã ngả bóng về phía Tây, ánh sáng
vàng vọt chiếu trên núi làm cho tình trạng càng xác xơ hơn nữa.
Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha.
Người chờ đợi là núi, mà núi có thể là đàn ông, núi có thể là
đàn bà. Người chờ đợi có thể là cha, người đi là con; người chờ
đợi có thể là mẹ, người đi là con; người chờ đợi có thể là thầy
và người bỏ đi có thể là con. Tự nhiên con bỏ thầy mà đi, làm
thầy phải thương, phải nhớ và nếu thầy không thực tập thì cũng
xương mai một nắm hao gầy như bất cứ ai.
Trời Tây ngả bóng tà dương,
Khi trời về chiều, càng biểu lộ vẻ sầu muộn, tàn tạ của người ở
lại, của người nhớ thương. Nét đẹp của người ở lại là nét đẹp
của ngọc, của vàng. Nét ngọc, nét vàng đó vì chờ đợi cho nên đã
phai mờ, phôi phai. Nhớ thương quá, chờ đợi quá thì đâu còn niềm
vui, đâu còn hạnh phúc nữa. Vì vậy cho nên nó có vẻ tàn tạ và sự
tàn tạ này càng trông thấy rõ khi mặt trời chiều chiếu xuống.
Làm thơ như vậy mới đúng là thơ.
Trời Tây ngả bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Càng phơi tức là phơi bày cái buồn tủi.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Hồi nãy bé Bảo Tích có lên thăm
Sư
ông,
Sư
ông hỏi: con thấy Sư ông có già không? Nó im lặng một hồi rồi
nói: hơi già. Nhưng đợi vài năm nữa chụp tấm hình rồi sẽ thấy,
bây giờ Sư ông còn trẻ lắm, trái tim của Sư ông còn trẻ lắm.
Non cao tuổi vẫn chưa già
Trong này có chuyện chơi chữ, có một nghệ thuật chơi chữ. Chữ
non có nghĩa là núi, nhưng cũng có nghĩa là trẻ. Ở Việt Nam mình
hay nói trăng già hay là trời già. Trăng già độc địa. Núi thì
non, trăng thì già. Tại sao núi mà nói là trẻ, trăng lại nói là
già? Mình có câu ca dao là:
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già ?
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non ?
Trăng bao nhiêu tuổi mà bị gọi là già?
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già ?
Núi bao nhiêu tuổi còn được gọi là trẻ ?
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non ?
Cái này đố sư cô Đẳng Nghiêm dịch ra tiếng Anh được?
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già ?
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non ?
Tác giả dùng ý đó vào trong này, mình là người Việt, mình đọc
mình phải hiểu được ý đó.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Theo nguyên tắc
non
phải trẻ hoài, tại vì tên mình,
Non
là trẻ mà.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
Non thời nhớ nước mà nước nhởn nhơ, không thèm nhớ tới non gì
hết trơn.
Non thời nhớ nước,
nước mà quên non.
Người ta nhớ mình như vậy mà mình quên người ta.
Có khi Thầy xuất hiện giữa đường con đi, nhưng mắt con vẫn nhìn
Thầy như nhìn một người xa lạ.
Không thèm để ý, không thèm chào nữa.
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
Mình nhớ họ như vậy mà họ tỉnh bơ, không thèm nhớ tới mình gì
hết. Vậy mà ngày xưa thề non hẹn biển.
Nước non nặng một lời thề,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
Cũng như ngày xưa mình nói rằng: con quỳ xuống, con cầu mong
Bụt và đại chúng cho con được xuất gia, cho con được ở luôn,
suốt đời. Cúi đầu xuống con nhận cái y này, đời đời nguyện mang
theo. Vậy mà mới tu được mấy năm đã bỏ thầy, bỏ chúng mà ra
đi đành đoạn.
Non thời như nước, nước mà quên non.
Sự than trách, sự buồn bã được diễn tả bằng mười hai câu thơ. Đó
là quá nhiều rồi, không thể nào thêm được nữa. Chữ mà là
chữ rất thường,
nhưng trong bài này chữ mà có ý trách móc
rất đậm đà, rất hay.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Theo nguyên tắc, giữa hai người yêu, giữa cha con, giữa mẹ
con, giữa những người bạn, giữa thầy trò, giữa huynh đệ với nhau
có thể
mở ra một lời thề, như lời thề của non và nước: dù núi có
cạn, sông có mòn đi nữa thì liên hệ của mình vẫn không bao giờ
suy suyển. Trong bài tựa kinh Lăng Nghiêm có câu: Thuấn
nhã đa tánh
khả
tiêu vong, thước ca la tâm vô động chuyển.
Thuấn nhã đa tánh tức là: tính chất của hư không có thể tiêu
vong được, nhưng mà tâm Bồ đề của con sẽ không bao giờ lay
chuyển; con sẽ tu hành cho tới khi con thành đạt mới thôi, con
sẽ không bỏ Bụt, không bỏ Pháp, không bỏ Tăng. Hư không hữu tận,
ngã nguyện vô cùng có nghĩa
là:
hư không vô biên kia có thể có được
sự chấm dứt của biên giới, nhưng nguyện của con là không có biên
giới.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non, còn nước vẫn còn thề xưa.
Non nói rằng: như vậy mới đúng. Chừng nào tôi còn đó, anh
còn kia, chừng nào anh còn đó, em còn đây thì lời thề năm xưa
của mình vẫn còn có giá trị, vẫn còn có hiệu lực. Tại sao bây
giờ mình lại đạp lên trên lời thề nguyền mà đi như vậy, mình phụ
bạc nhau như thế đó.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non, còn nước vẫn còn thề xưa.
Khi nghe những lời tâm sự đau khổ của núi thì thi sĩ mới bắt đầu
can thiệp, bắt đầu khai thị. Thi sĩ là dharmateacher, là pháp
sư, thành ra thi sĩ phải can thiệp và mình coi thi sĩ này khai
thị như thế nào? Phần sau của bài thơ này là phần khai thị. Tác
giả đưa ngón tay lên nói :
Non xanh đã biết hay chưa ?
Non xanh, lam sơn hay thanh sơn là núi có màu xanh. Thi sĩ gọi
tên núi mà nói: núi xanh ơi, hãy lắng nghe ta nói, đừng có
ngồi đó mà than phiền nữa.
Non xanh đã biết hay chưa ?
Nước đi ra biển lại mưa về nguồn.
Đây là một sự thực, mình
có thể quan sát
để
thấy được
rằng
người kia
sẽ trở về hoặc
đã trở về rồi,
nhưng
mình vẫn chưa
hay biết,
vẫn
cứ tưởng người kia đi
luôn không
trở về,
rồi mình sầu khổ, khóc than:
nước đi rồi, nước bỏ mình nước đi đành đoạn, nước sẽ không bao
giờ trở về nữa đâu!
Mình bị
kẹt vào hình tướng cho nên mình không thấy được
nước đã trở về,
nhưng kỳ thực nước đã trở về
dưới
một dạng khác, dưới một hình tướng khác, dưới
dạng một cơn mưa. Anh đã chờ đợi năm mười năm, nhưng trong thời
gian đó nước đã trở về rồi, nước đã mưa xuống rồi mà anh không
biết và anh tiếp tục trách móc...
Như ở Việt Nam có người nói tôi đi bốn mươi năm chưa về, nhưng
sự thực tôi đã về rồi, tôi đã về dưới dạng những người đệ tử,
với băng giảng, với những cuốn sách của tôi. Đừng nói là tôi
chưa về, nếu nói tôi chưa về tức là kẹt vào cái tướng, kẹt vào
con mắt hữu tuớng. Vì vậy cho nên phải thực tập Tam giải thoát
môn, phải áp dụng Không, Vô tướng và Vô tác. Áp dụng được Vô
tướng thì thấy tôi bây giờ đang ở Việt Nam.
Một số các bạn hữu ở Hoa kỳ hay là Úc châu sau khi về Việt Nam
rồi trở lại thì báo cáo rằng: tuy rằng hình hài Thầy không có
ở Việt Nam, nhưng mà con thấy sự có mặt của Thầy ở Việt Nam rất
rõ ràng, đi ra Trung cũng thấy Thầy, đi ra Bắc cũng thấy Thầy,
đi vô Nam cũng thấy Thầy. Những người đó có con mắt vô
tướng, có thể thấy được những cái ngoài cái tướng,
còn
bị kẹt
vào cái tướng tức là
mình bị tướng đánh lừa rồi.
Trong kinh Kim
Cương
có câu:
phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng,
tức nơi nào có hình tướng là nơi đó có sự lường gạt.
Cho nên
phải tập nhìn
bằng
con mắt
vô
tướng
và thi sĩ nói: Núi ơi, núi
đừng có than khóc! Nước đã trở về rồi, tại sao núi còn than khóc
?
Khi có người thân qua đời, người đó là ba, là mẹ hay là đứa con
của mình qua đời, mình tưởng người đó sẽ đi, đi hoài. Con ơi,
sao con bỏ mẹ mà đi? Anh ơi, sao anh bỏ em mà đi, đành đoạn bỏ
em mà đi một mình? Khi người ta khóc, người ta luôn luôn
trách móc giống hệt như cái núi đó. Người ta đập ngực, người ta
bứt tóc, người ta lăn ra đất, người ta khóc như vậy tại người ta
bị kẹt vào cái tướng.
Nhìn cho kỹ, thấy ba mình đâu có đi đâu? Ba mình đang có mặt
trong mình, trong mỗi tế bào cơ thể của mình, ba mình đã trao
truyền tất cả những tinh hoa của ba mình cho mình, mẹ mình cũng
như vậy. Chỉ cần ngồi lại và tiếp xúc một cách sâu sắc hình hài
của mình thì thấy rằng trong mỗi tế bào của mình có đầy đủ sự có
mặt của ba mình và sự có mặt của mẹ mình. Mình có thể nói: ba
ơi, con biết là ba đang có mặt trong con và con đang mỉm cười
với ba nè. Tự nhiên không có sự chia cách, không có sự sầu
khổ vì mình thấy được, vì mình có con mắt vô tướng. Hay như vậy
đó.
Vậy người nào mới vừa mất người thương, muốn bớt sầu khổ, phải
theo lời khai thị này của tác giả, phải nhìn để thấy rằng không
có gì đi, không có gì mất, vô khứ, vô lai, không có đi, không có
lại và cái mình tưởng đã mất rồi, kỳ thực nó đang còn ở trong
mình.
Non xanh đã biết hay chưa ?
Nước đi ra biển lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Rất từ bi!
Nước non hội ngộ còn luôn
nghĩa là sự gặp mặt giữa nước và non, nó xảy ra trong từng giây
phút. Mình trách móc người kia phụ bạc mình, nhưng kỳ thực người
kia đang ở trong mình. Nếu gọi Thầy, con tức khắc thấy Thầy ngay.
Nếu mình kêu mẹ ơi, mình thấy rõ ràng mẹ đang có ở trong
mình và mỉm cười với mình, mẹ mình chưa bao giờ chết. Cha mình
cũng vậy. Bản chất của mẹ mình là không tới không đi, vô khứ vô
lai, bất sinh bất diệt. Bản chất của Đức Thế Tôn là vô khứ, vô
lai, bất sinh bất diệt thì bản chất của mẹ mình cũng vậy. Khi
thấy được như vậy thì mình thoát khỏi sầu khổ. Điều này phải
khai thị mới thấy được và lời khai thị là:
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Buồn là kết quả của vô minh. Mình tưởng có sự xa cách, vĩnh viễn
xa cách, đoạn tuyệt, nhưng kỳ thực không có gì tới, không có gì
đi.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Trong câu này mình thấy có tuệ giác, có từ bi.
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
Trên sườn núi có những cây dâu mọc xanh tốt. Cây dâu xanh tốt đó
là gì, nếu không phải là nước? Mình tìm nước ở đâu nữa? Nếu nhìn
dâu xanh tốt mọc bên sườn núi thì mình thấy nước đang còn ở với
mình. Nếu nước không còn với mình thì làm sao ngàn dâu xanh tốt
được? Sự kiện là có ngàn dâu xanh tốt nằm ở trên sườn núi thì
biết rằng nước chưa bao giờ bỏ mình, tại sao mình buồn, tại sao
mình than trách?
Nước kia dù hãy còn đi,
Trên phương diện hình thức thì thấy giống như nước đang đi, đang
còn đi. Trên phương diện nội dung thì nước đã về rồi. Thấy ngày
hôm qua nước chảy đi rồi, mình nghĩ rằng nước sẽ đi, sẽ đi hoài,
đi không bao giờ trở về nữa, nhưng mà trên thực tế nước đã trở
thành mây, nước mưa xuống trở lại, nước đã trở về với mình rồi.
Ngàn dâu xanh tốt,
non thì cứ vui.
Chữ
ngàn
này có nghĩa là rừng, rừng dâu, chớ không phải là mười lần một
trăm. Ngàn dâu xanh tốt là đối tượng quán chiếu. Nếu nhìn những
tướng không phải tướng nước mà thấy được nước trong đó thì mới
thực sự là thấy nước. Ví dụ nhìn vào phô mai (cheese), mình thấy
sữa thì mình mới giỏi. Còn mình nói đâu còn sữa nữa, chỉ có
cheese thôi thì đâu có giỏi. Cũng như nhìn nước đá một
cục cứng ngắt, mình không thấy có mây, nhưng kỳ thực nước đá là
mây. Nếu không có mây thì làm sao có mưa, không có mưa làm sao
có nước để làm nước đá được.
Cho
nên con mắt mình nhìn vào nước đá phải thấy mây. Khi nhìn tuyết
rơi, mình thấy tuyết đâu phải nước, đâu phải mây, nhưng kỳ thực
tuyết cũng là mây.
Con mắt của người tu là phải nhìn cái này mà thấy được cái khác
thì mới hay. Đó là con mắt tương tức. Ví dụ nhìn anh mình, mình
thấy ba, thấy mẹ, mình cũng thấy mình trong đó. Đó mới là cái
nhìn của tuệ giác. Còn mình nhìn anh mình, mình nói: anh đi
đi, tôi không có dính líu gì với anh hết. Khi giận anh mình,
mình nói như vậy, mình thấy anh mình là một người hoàn
toàn khác mình. Có một người thanh niên giận cha, họ nói: ông
đó không phải ba của tôi, tôi không có muốn dính líu gì với ổng
hết. Nói như vậy là vô minh, là không thấy được mình là ba
mình, mình là sự tiếp nối ba của mình.
Cũng như cục nước đá giận mây: mây hả, tôi nguyện đời đời,
kiếp kiếp không có gì liên hệ với mây hết. Mà đâu biết mình
chính là mây? Mình đã giận mây, tức mình đã giận mình, mình giận
ba tức là tự giận mình.
Còn tác giả mời mình nhìn vào ngàn dâu xanh tốt, nhìn vào rừng
dâu để thấy nước trong đó. Tại vì nếu không có nước làm gì ngàn
dâu xanh tốt được. Núi ơi, xin núi đừng có than phiền, đừng có
sầu khổ nữa, núi hãy vui lên, đừng có chờ đợi nữa, không có sự
xa cách đâu. Ba mình, mẹ mình, người thương luôn luôn có mặt
trong giây phút hiện tại.
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Và đây là câu kết luận :
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước không nguôi lời thề.
Non non nước nước, chỗ nào có non là chỗ đó có nước, chỗ nào có
nước là chỗ đó có non, không có thể nào chia tách ra được. Không
có gì có thể chia cách thầy trò, cha con, huynh đệ, anh em mình
được, khi mình có tình thương đích thực, khi mình có mặt trong
nhau. Lời thề đó rất nặng, sự cam kết đó rất sâu xa, muốn giữ
được sự cam kết đó, mình cần phải có tuệ giác. Có tuệ giác, có
trí tuệ thì mình không bị sầu khổ, than trách nữa.
Trong bài thơ này của thi sĩ Tản Đà có tám câu khai thị và có
mười bốn câu than trách, sầu khổ. Thi sĩ chỉ cần khai thị tám
câu thôi mà chỉ rõ cái không đi không tới, không có sự xa cách
mà phải có hạnh phúc
và
phải sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại.
Vậy chúng ta đọc lại để thấy cái hay, cái thấy thấm thía của bài
thơ này. Nếu quí vị muốn làm thơ thì cứ làm thơ, làm thơ có thể
nói ra được Phật pháp vì trong đạo Bụt đại thừa có nói rằng:
tất cả các pháp đều có thể biến thành Phật pháp cả, nhất nhất thiết pháp giai thị Phật pháp.
Vị nào có tài có thể phổ nhạc. Vậy chúng ta đọc chung, các cháu
nghe nhé.
Thề non nước
Nước non nặng một lời thề,
Nước đi, đi mãi, không về cùng non.
Nhớ lời “nguyện nước thề non”,
Nước đi chưa lại non còn đứng không.
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô giòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Trời tây ngả bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non, còn nước, vẫn còn thề xưa.
Non xanh đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước không nguôi lời thề.
Tản Đà
Nhất Hạnh
12.07.2003 Làng Mai - Pháp quốc.
|