Bồ
câu và Pê rô
1.
Công viên nhỏ im mát. Ở đây không có sân thể thao nào khác ngoài bốn
sân quần vợt xây theo hàng dọc có lưới ngăn cách riêng. Hàng cây che
nắng. Ðánh banh ở đây, mình không phiền người, người không phiền
mình. Banh không bay lạc qua sân người. Ngược lại, khỏi bực mình
gián đoạn vì một trái banh lạ rớt lãng xẹt ngay giữa sân đang hồi
gay cấn.
Người đến, người đi. Người thỉnh thoảng thấy. Nhiều người gần mười
năm qua, từ ngày đầu cho đến bây giờ vẫn gặp.
Trước hết là “Bọn bốn người.” Ồn ào. Thân thiết. Không tuần nào vắng
bóng. Mùa đông chơi sân câu lạc bộ trong nhà cũng lại thấy họ. Tìm
ra những bạn đồng điệu, hợp nhau để họp nhau dài dài năm này qua năm
khác, đâu dễ. Cùng chơi đùa qua năm tháng. Cùng chia sẻ niềạm vui
sảng khoái trong không gian và thời gian của vòng sân. Cho dù nhiều
năm sau nữa, họ vẫn là những người trẻ mãi. Với nhau không già.
Rồi phải kể đến hai vợ chồng người Ðại Hàn. Ông cao lớn dềnh dàng.
Vợ thấp tè. Mỗi Thứ bảy đến sân khi lờ mờ sáng. Không ai tranh được
cái sân chơi lành lặn, mát mẻ nhất ở đây. Chơi đúng hai giờ không
hơn không kém. Hỏi ông sao không thấy chơi vào ngày Chúa nhật. “
Chúng tôi đi nhà thờ.” Người Ðại Hàn bây giờ là tín đồ Tin lành
ngoan đạo nhất thế giới. Còn hơn người Nam Mỹ theo Thiên chúa giáo
Vatican
thế kỷ trước. Ông chồng chơi giỏi, chịu khó đưa banh “hầu” vợ. Bà
thì coi như đứng một chỗ, giao bóng đỡ banh. Không những giơ tay mà
còn giơ cả chân lên cao như hình nộm múa rối. Cứ nhìn là phải cười.
Ðại Hàn, chồng chúa vợ tôi số một . Thế hệ của họ mà vợ chồng chịu
đều đều ra sân chơi quần vợt với nhau, cũng hiếm. Bây giờ sân nào
cũng có mấy bà “củ sâm”. Các bà người Tàu, người Việt vui chơi trò
gì mà không hề gặp ở đây.
Nhóm người đằng kia thì ăn mặc tùy tiện chướng mắt. Quần dài, quần
cụt. Áo sơ mi dài tay, ngắn tay, áo thun màu mè, hình chữ loạn xạ,
áo thun lót hở nách không tay. Giày da giày vải. Tất trắng tất đen.
Trông luộm thuộm bẩn mắt. Người chơi, kẻ đứng đợi kháu chuyện om
sòm. Ðem theo cả thùng đá lạnh to chứa thức uống. Lại thêm cả ghế
ngồi. Họ chơi sân nào thì kể như chiếm luôn nửa ngày là ít. Chúng
tôi đặt tên. “Củ Sâm!”
Mấy ông to con lớn xác, đầu gối, khỉu tay mang băng đen, băng trắng
tùm lum. Ðể vợt, để xách ngay trên sân dành chỗ rất lâu trước khi
đến đủ. Vừa đánh vừa nói oang oang. Họ là những người gốc Hy Lạp,
ông chủ các hàng ăn.
Nhưng đặc biệt vui vẻ là nhóm bốn ông, một bà. Ðặc biệt vì các bà
thường ít khi đứng chung lẫn lộn với các ông để đánh đôi. Các bà
chơi riêng, các ông chơi riêng. Riêng nhóm này đầy đủ sắc tộc Âu Á
Mỹ .
Nam
nữ, già trẻ. “Nhóm bà Nhật”. Vì người lớn tuổi nhất, lịch sự nhất,
đánh hay nhất, dai sức nhất, được quý nhất là một bà người Nhật, nhà
giáo về hưu. Bà đến sớm, đi quanh một vòng lượm rác, các hộp banh
trống, các nắp hộp kim loại vất bừa bãi. Dần dần mọi người trong
nhóm noi gương làm theo. Ai đau khỉu tay, đầu gối, trật xương vai...
hôm sau thế nào bà cũng cho thuốc dán. Tôi chưa thấy ai nhã nhặn,
lịch sự và khỏe như bà. Người xấp xỉ tuổi của bà thì thua xa là
chuyện chắc, cỡ ba mươi bốn mươi theo cũng đứt hơi. Lại thêm ông
người Tàu, hình như ông thân quen hầu hết mọi người. Nhiều khi kẹt
sân chạy chỗ khác, vừa thấy ông là mọi người kêu réo chào hỏi niềm
nở. Sau cơn mưa đêm trước, sáng hôm sau sân còn đọng nước, ông tới
sớm với chổi và khăn, những thứ luôn sẵn trong xe, để lau khô sân.
Cái ông người gốc Ý thì rất quy tắc và an toàn trên hết. Áo quần
giày vớ luôn trắng tinh như đi dự tranh giải quần vợt quốc tế
Wimbledon.
Tuyệt đối không để trái banh nào lạc lõng trên sân. Sợ trượt té.
Trong năm gần đây, có thêm ba cha con. Một cha và hai cô con gái
tuổi mười ba. Ông bố da trắng bệch, đeo kính gọng vàng. Chưa tới sáu
mươi mà đi đứng chậm, lù đù. Nhìn ông đưa banh cho hai ái nữ dợt.
Bên phải. Bên trái. Ðều đặn. Ông không thuộc loại nhà nghề nhưng
kiên nhẫn như ông thì cũng là một bài học. Nghe họ nói thì biết là
người Hoa nhập cư không lâu. Ở Mỹ có con gái đến tuổi đó thì cha mẹ
gốc Hoa, Việt... nói chung là đến từ các nước Á châu, đêm ngày lo
ngay ngáy. Tuổi cứng đầu thích làm điều trái ngược. Nổi loạn, nổi
giận bất tử và bỏ nhà. Ông bỏ thì giờ chơi với con để ngăn ngừa nổi
ám ảnh nầy. Mừng cho ông là mấy đưa con chịu đi chơi với bố. Khi mệt
ông ngồi ngửa thở dốc trên chiếc ghế xếp mang theo. Thỉnh thoảng
đứng dậy tiếp nước uống hay lăng xăng lượm banh cho con. Ông bố có
tổ tiên là Khổng Mạnh, từ một đất nước, nơi con sợ cha hơn sợ cọp,
qua tới đất Mỹ văn minh bình đẳng tự do, bây giờ cha sợ con, tận tụy
phục vụ con. Thấy ông là thấy một trời hy sinh lo lắng.
Sau cùng là “Hai con bồ câu”. Ít khi vắng mặt. Ðến và đi đúng giờ.
Cười chào tươi rói. Lịch sự. Rất dễ mến. Cặp “tình nhân-vợ chồng”
này thường chơi sân cuối dãy. Chỉ thoáng nhìn họ, hay bất chợt thấy
họ nói cười thủ thỉ với nhau, săn sóc trìu mến thương yêu nhìn nhau:
hạnh phúc biết bao. Có họ sân chơi thêm đẹp, ấm áp hạnh phúc và lãng
mạn tình yêu. Mười năm trôi qua. Nhìn họ, vẫn thấy khắng khít như
ngày đầu gặp. Chúng tôi gọi họ là “Hai con bồ câu”. Khi hiếm hoi
vắng họ, mấy người hỏi nhau. Hôm nay đôi bồ câu bay đi đâu nhỉ?
2.
Cư như thế Xuân Hạ và...Thu, đi về.
Không hẹn, đầu mùa xuân nắng ấm lại gặp nhau trên sân. Có người trở
lại. Kẻ bỏ cuộc chơi. Tôi và bạn bè. Tôi và những tiếng cười rộn rã.
Mới đó mà đã trên mười năm vui chơi chạy nhảy trên khung sân. Mười
chu kỳ ngày tháng. Thời gian trôi nhanh. Nhanh như đường banh qua
lưới!
Mùa vui trở lại sau gần nửa năm tuyết lạnh. Co ro. Giầy ủng. Áo lạnh
khăn choàng.
Những buổi sáng sớm mùa xuân hoa nở rộ. Nắng trong và lạnh nhẹ.
Mùa hè nóng mệt mồ hôi. Sân chơi gặp mùi thịt nướng. Công viên vui
mắt. Bong bóng màu sắc sặc sỡ. Nhiều bóng sút dây bay lơ lửng hay
vướng mắt dưới tàng cây. Công viên rộn tiếng cười nói. Ăn uống. Sum
họp quây quần.
Thích nhất, mùa thu. Quá đẹp. Lá đổi màu vàng đỏ tím nâu. Vườn thu ở
đây đẹp và thơ. Chẳng thua vườn thu
Luxembourg
của Anatol France. Chỉ thiếu bờ vai tượng đá phong rêu. Cũng ngậm
ngùi như vườn thu Cung Trầm Tưởng. “ Mùa thu âm thầm. Bên vườn Lục
Xâm. Ngồi quen ghế đá. Không em buốt giá từ tâm”. Nắng đục gợi nhớ.
Bâng khuâng. “Ô hay buồn vương cây ngô đồng. Vàng rơi, vàng rơi, thu
mênh mông.” (Bích Khê). Trên sân chơi, lá vàng rơi lênh đênh, xôn
xao gió đuổi chạy vòng.
Những ngày cuối thu rét lạnh. Khi đàn ngỗng trời giã từ hàng liễu rũ
quanh hồ nước trong veo cuối công viên, kêu đàn rơì rạc trên trời
xanh, bay thấp ngang sân theo đội hình thao diễn về miền
Nam
tìm ấm. Khi trên bãi cỏ sân nhà trang hoàng lưới nhện, đầu lâu, hình
nộm ma quái và những quả bí vàng rực khắc hoa đủ mặt vui buồn của
mùa Halloween. Khi nhiệt độ đã quá thấp và tuyết trắng mỏng đầu mùa
lả tả rơi. Khi áo ấm khăn quàng không còn đủ giữ cho khỏi lạnh sau
một hồi múa may quay cuồng. Khi cây đã trơ cành, trời xám xịt. Tạm
biệt sân chơi và những ngày giờ hạnh phúc.
3.
Những ngày cuối tuần của mười năm. Với những người, những khuôn mặt
dáng vóc thường thấy. Dẫu không thân, nhưng đã quen. Dù chỉ vẫy tay
chào hay đơn giản một nụ cười thiện cảm.
Ðúng tám giờ sáng. Hai con chó, một lớn đen, một trắng nhỏ, chạy
tung tăng Theo sau là ông chủ Do Thái rậm râu. Nón chụp nhỏ bằng bàn
tay mỏng dính trên đầu hói tóc. Ði nhanh.
Tay
cầm thánh kinh. Chăm chú đọc lớn, có khi nghe như hát. Thỉnh thoảng
ngừng lại. Chờ. Lôi trong túi bọc ni lông. Hốt phân. Bỏ vào thùng
rác. Tiếp tục đi và tiếp tục đọc. Hàng xóm nơi tôi ở là Do thái. Gần
họ tôi thấy chưa có tín đồ đạo giáo nào sùng tín và giữ đúng giới
luật như họ. Họ tồn tại và lập quốc qua bao nhiêu thế kỷ thảm họa
diệt vong cũng nhờ vào lòng tin tôn giáo và niềm tự hào nơi tổ phụ.
Mười năm hơn có gì thay đổi? Ừ có! Tôi nhớ lại những năm đầu, ông
dẫn theo chỉ một cô chó trắng nhỏ Fox Perrier. Liến thoắng. Tinh
nghịch. Quá đỗi dễ thương. Mỗi lần qua sân, nó trì kéo đến rào. Vểnh
mỏ qua ô lưới sắc. Sủa chào. Hello Perro! Tôi vừa đỡ banh vừa cười
chào. Mấy người trong sân cũng cười vui trìu mến. Pê rô là tên của
cô chó thân thiện. Nhìn Pê rô tôi hiểu phần nào, nhưng không dễ chấp
nhận các bà ở Mỹ quý chó hơn chồng, chịu khó săn sóc chó hơn cả cha
mẹ. Bà tỷ phú vừa chết, bỏ lơ con cháu và bao nhiều người đói kém
tật nguyền bạc phước, di chúc để nửa tài sản hàng triệu đô la cho
chó. Mấy người này sẽ rùng mình sởn gáy khiếp đảm khi nhìn chó treo
lủng lẳng trên các xe bán thịt cầy tơ tại Việt
Nam.
Cám ơn Pê rô, hình ảnh quá thân quen.
Mùi thuốc lá thoang thoảng. À! Nhìn ra chiếc ghế cạnh sân chơi, đã
thấy chị ngồi đó. Một tay giữ điếu thuốc trên miệng. Khói thuốc bay
lãng đãng. Một tay nâng tách cà phê lớn. Trân trọng nhấp từng ngụm
nhỏ. Gương mặt thật lạ. Ðôi mắt nhìn bất động về một phía. Chẳng
biết đang vui hay buồn. Ðang lo lắng hay thảnh thơi. Nhưng có điều
trên nét mặt cứng đọng đó, tôi cảm ra được chị đang tận thú thuốc lá
cà phê và những giây phút của riêng. Chị khoảng trên bốn chục. Không
phấn son. Áo quần giản dị thoải mái theo mùa. Ðến công viên sau giấc
ngủ muộn cuối tuần. Chị ngồi đó. Chúng tôi chạy nhảy cười đùa cãi cọ
trong sân. Tất cả hình ảnh đó chị thấy nhưng không chắc chị đã nhìn.
Mỗi lần nhìn chị, hay thoạt nhớ hình ảnh chị, ngồi trên chiếc ghế gỗ
đơn côi trong công viên những buổi sáng, tôi ngậm ngùi cho tình cảnh
cô đơn của chị và lại liên tưởng đến một người bạn trai thân mến.
Thuở chưa mất nước, con nhà giàu. Ở đâu cũng học giỏi. Tính tình
chân chất. Gần sáu mươi vẫn một mình. Sáng đi làm, tối về nấu nướng.
Ăn tối. Ðọc báo. Ði ngủ. Không yêu đương và không tính chuyện yêu
thương. Bạn bè thân đôi đứa ở xa. Bạn bè gần, hiếm hoi. Không thích
bon chen, giao thiệp ồn ào. Anh quen với cuộc sống đó. Lấy cái xô bồ
của đời mình để đo đời thiên hạ, rồi thương người! Biết đâu chị cũng
thích lối sống riêng và hạnh phúc với nó thì sao. Nói cho cùng, biết
thế nào là sướng khổ. Chị hay tôi?
Tôi phải nhắc đến một người mà cứ mỗi lần xuất hiện, khóe mắt anh
nhìn, tôi biết mình là kẻ hết sức may mắn. Cái may mắn lớn nhất trên
mọi may mắn. Thế mà không phải riêng tôi mà nhiều người hầu như coi
thường và sẵn sàng dùng nó để đánh đổi những thứ phù du ảo ảnh. Anh
không còn trẻ nhưng cũng chẳng già. Năm trước ngồi xe lăn còn có
người đẩy. Một thiếu phu thon người, mặt mày thanh tú. Ăn mặc đúng
thời trang. Dễ thường là vợ. Năm nay, run rẩy. Nửa thân tựa trên gậy
chống, một mình lê chân qua đường. Miệng rung, méo lệch. Một tay
buông thõng không động đậy. Anh ngồi xiêu vẹo nhìn chúng tôi. Trầm
tư, đôi lúc thích thú cười mếu. Chắc anh đang tiếc những ngày mạnh
khỏe như thế đã qua trong đời. Tôi cũng đoán chắc, giờ này anh không
ham gì tiền bạc danh vọng, hay một tình yêu không tình thì còn chút
nghĩa. Chỉ một ước ao đơn giản, một điều đã có, đã vượt khỏi tầm
tay: Cầm vợt ra sân!
4.
Sau chuyến rong chơi xa, dài ngày tháng, tôi trở về trời đã cuối
xuân. Mùa hoa đã tàn. Mấy hoa Peoni qua ngày nở rộ, úa tàn rơi rụng
bẩn lối đi. Chưa kịp làm quen với giấc ngủ trái giờ, sáng sớm đã vội
dậy, xách vợt ra sân. Những khuôn mặt thường quen hầu như gặp lại.
“Bọn bốn người” vẫn đủ số. “Vợ chồng Ðại Hàn” vẫn giơ tay giơ chân
đỡ bóng. “Nhóm bà Nhật” thêm nhiều khuôn mặt mới. Hai cô gái nhỏ lớn
nhanh, chơi với nhau và không còn có bố kềm cặp. Nhìn về cuối sân
“Ðôi chim bồ câu” chỉ còn lại con trống thui thủi dợt bóng một mình.
Chưa kịp hỏi, anh bạn Ý đứng cạnh, ngậm ngùi. “ Nàng đã bay đi”.
Tiếng anh chùng xuống thương cảm. “Tụi tôi nhiều lần ua rũ chàng
theo nhóm. Vừa lẻ bạn, chàng chưa thấy hứng nhập bầy”. Người khác
xen vào. “Thêm một tin không vui khi cậu đi xa. Pê rô chết đầu mùa
xuân vì ung thư ruột”. “Ồ. Thật sao?” “Xác Pê rô hỏa táng. Tro rải
trên hồ cuối sân, gần cây liễu rũ.”
Chicago, Thu 07
|