1.
Giữa đêm khuya. Hàng ngàn tù cải tạo bị áp tải lùa
nhốt nén chặt dưới đáy hầm tàu Sông Hương để đầy ải ra Bắc.
Sau cuộc hành trình dài của con tàu địa ngục, những
tù nhân của chế độ lại bị tống lên những toa xe lửa ngạt thở cũ
kĩ lắc lư. Chặng cuối đường lưu đày đoàn xe tải Molotova bịt
bùng tiếp nối xuyên qua những bản làng Tây Bắc heo hút.
Cuối cùng. Trong đêm tối rừng âm u chập chờn ánh
đuốc. Mấy ngàn người rã rượi lo âu, được phân phối giam giữ rải
rác trong vùng thung lũng hẹp Mường Cơi Sơn la. Bốn bề núi rừng
bao phủ. Sương mù và ám khí. Chỉ có vượn hú mà chẳng hề nghe
tiếng chim gì kêu ngoài tiếng kêu não nuột của con chim “Bắt cô
trói cột!”, mà những năm tháng sau này khi cơn đói đay nghiến
hành hạ thì tiếng chim ai oán nghe rõ như tiếng người kêu vọng.
“Cơm còn cho cục! Cơm còn cho cục!”
Sáng sáng khi sương mù u uất gía lạnh còn phủ xám
núi đồi thung lủng hay chiều chiều khi tia nắng cuối ngày khuất
sau dẫy núi xám xịt mù ám nghẹt thở siết quanh thung lũng trại,
những hồi kẻng âm vang rợn người dội lại từ vách núi, rờn rợn
như tiếng chuông gọi hồn dóng lên từ cõi âm ti. Âm thanh đó vang
vọng. Nhức nhối xuyên suốt ngõ ngách hồn xác những tù nhân khổ
sai biệt xứ.
2.
Một buổi sáng Chúa nhật.
Mùa đông và gió mùa đông bắc.
Ðói lạnh. Tê cóng.
Nhìn qua ô cửa sổ nhà giam, bên kia cách một hàng
rào kẽm gai là một dãy nhà giam khác mới cất vội vã. Người bạn
tù thân nhất của tôi biết nhau từ buổi sáng tinh mơ sắp hàng
trình diện đi tù, qua bao đổi thay di chuyển từ Nam ra Bắc vẫn
có bên nhau, vốn là sĩ quan báo chí, anh chỉ cho tôi mấy người
già co ro đang yên lặng nhẫn nhục ngồi đan rổ rá bên hiên nhà.
Mấy cha Tuyên úy Công giáo. Cha Huồn, cha Thuấn, cha Hùng...
Chỉ một người ốm yếu tiều tụy ngồi cạnh mấy cha, anh
hỏi tôi:
“Cậu có biết ai đó không?”
“Không!”
Anh nhìn tôi ngạc nhiên.
“Tôi thật không biết. Chưa hề thấy. Ai đó?”
“Trời! Thượng tọa Thiên Lương, Nha Tuyên úy Phật
giáo đó!”
Có lẽ anh ngạc nhiên vì nghĩ tôi là một Phật tử chắc
phải biết rành mấy thầy, cũng như anh biết hết thẩy mấy cha.
Ðó là lần đầu tiên tôi thấy Thầy.
Thấy một cách dửng dưng thờ ơ lãnh đạm. Thái độ của
tôi thật cũng dễ hiểu. Sau hơn một năm giam giữ chung với mấy
đại đức, tôi đã không còn giữ được điều thứ ba của tam quy. Quy
y Tăng.
Thời gian tù đầy là lúc cần đến sự hỗ trợ của đức
tin tôn giáo. Ðối diện với khốn cùng và sự bất lực của bản thân
trước những mất mát tang thương. Mất đất nước. Mất tự do. Mất
cha mẹ vợ con và bạn bè thân thiết... con người chỉ còn biết
vươn tới, cầu mong ở các đấng thiêng liêng cho một hy vọng mong
manh. Vai trò của mấy thầy, mấy cha trong hoàn cảnh này thật cần
thiết.
Như trong bài Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô mà
tôi đã học thuộc những năm dài ở trường Dòng:
“Ðem yêu thương vào nơi oán thù,
Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục
Ðem an hòa vào nơi tranh chấp...
Ðem niềm vui tới chốn âu sầu...”
Tiếc thay! Một số lớn mấy thầy mà một thời các Phật
tử, kể cả những người lớn tuổi, rập đầu xưng “con” vì lòng kính
trọng bậc xuất gia, không giữ được tư cách bình thường chứ đừng
nói chi đến đạo hạnh. Có lần tôi đã gặp và yêu cầu quý vị ráng
giữ gìn để chúng tôi khỏi xấu hổ lây. Nhiều anh em đến than
phiền. Ðể giữ niềm tin cho họ và cũng để tự an ủi, tôi cố giải
thích rằng. Ðấy không phải là các bậc xuất gia đi tìm chân lý
giải thoát cứu đời. Họ chẳng qua chỉ là các thanh niên vào chùa
cạo đầu để trốn quân dịch!
Ngày tháng chậm chạp ù lì trôi qua với những khổ đau
vô tận.
Thân xác mỏi mòn.
Tinh thần rời rã!
Không biết bao nhiêu lần chuyển trại âu lo căng
thẳng. Rày đây mai đó. Bạn bè vừa kết thân, có thể chia sẻ với
nhau những buồn vui, nương tựa nhau những lúc đau yếu suy sụp và
nhất là có thể tin cậy được nhau vội vã chia tay.
Hy vọng
mong manh một ngày về theo chính sách của cộng sản cũng rã tan.
Sau ba năm, toàn thể tù cải tạo được chuyển giao cho
Cục Công an trại giam quản lý. Từ đây bắt đầu những ngày tù thật
sự. Sáng mở cửa, điểm danh ra buồng. Tối đếm đầu, khóa cửa. Cả
trăm người triền miên thiếu ăn thiếu tắm, chen chúc trong dãy
buồng giam chật ních ngạt thở. Chẳng còn mấy ai chờ đợi một ngày
về. Nhiều anh em bạn bè đã bỏ cuộc tù. Sinh Nam tử Bắc!
3.
Một ngày Tết ở trại Phù Yên Sơn la. Tôi gặp Thầy.
Dãy nhà dài gọi là láng nơi thầy ở nằm song song với
láng của tôi. Chỉ cách nhau một sân rộng. Ngăn chia bởi một
hàng rào kẽm gai có cửa thông. Nhân ngày Tết, các láng được qua
lại thăm nhau.
Sáng Mồng một Tết. Trời thật đẹp. Nắng trong mà
lạnh. Tôi thầm nghĩ. Nếu đất nước thanh bình gia đình đoàn tụ,
ăn tết trong cái khí hậu này thì tuyệt vời. Sau bữa ăn sáng vui
vẻ với anh em bạn thân, tôi quyết định sang thăm thầy.
Như một tập tục bao đời của gia đình. Sáng Mồng một
Tết sau lễ gia tiên, cả nhà đi chùa lễ Phật. Lấy lộc đầu xuân.
Mạ tôi thì đi cho đủ mười chùa. Lúc còn ở Huế, sau giao thừa mạ
tôi rước thầy về nhà khai kinh đầu năm. Trong giấc ngủ mơ màng,
mùi trầm hương, tiếng mõ tiếng chuông. Tiếng kinh tụng trầm bổng
rất hay của thầy là những kỷ niệm êm đềm khó quên.
Thế nên những khi xa nhà xa quê, ngày Tết là ngày
nhớ ray rứt. Nhớ lặng người. Hoài niệm những ngày tháng cũ.
Ở tù không chùa, thôi thì sang thăm thầy vậy!
Bước vào nơi thầy ở. Nhìn quanh. Vắng lặng. Lát đát
mấy anh trùm chăn, chắc đang đau khổ khóc thầm vì nhớ vợ nhớ
con. Mấy anh khác kéo nhau ra sân tụm năm tụm ba đấu láo.
Gặp một trung tá tôi quen ngồi gần cửa, tôi hỏi nhỏ
vừa đủ hai người nghe
“Thưa trung tá, thượng tọa Thiên Lương nằm ở đâu?”
Trong tù bọn cán bộ cấm ngặt gọi nhau bằng cấp bậc
cũ. Thế nhưng chúng tôi vẫn gọi riêng với nhau, xưng hô đúng cấp
bậc để chứng tỏ rằng trong hoàn cảnh mất nước tù đày chúng tôi
vẫn tôn trọng các bậc đàn anh quân ngũ.
Tuy nhiên, một thực tế đau lòng là càng cao cấp bậc
thì số người làm ăng ten báo cáo mật cho cán bộ Việt cộng càng
nhiều. Mặt khác, tư cách và sự đối xử giữa họ với nhau càng tệ.
Tệ hơn lớp trẻ nhiều.
Chỉ tay về phía cuối láng, ông nói
“Ông ấy đang ngồi kia kìa!”
Nán lại giây lát, tôi nói máy móc
“Cám ơn trung tá. Nhân dịp năm mới chúc trung tá sức
khoẻ để xum họp gia đình.”
Tôi hạ giọng đùa
“Happy New... York !”
Ông cười gượng:
“Cám ơn anh. Tôi chúc anh cũng như vậy. Nhưng với
sức khoẻ như vầy, chắc tôi chết trong tù. Vợ con bên Mỹ cả rồi,
ngày xum họp làm gì có được mà mong !”
Mắt ông rưng rưng muốn khóc. Tôi lẩn tránh. Chào vội
đi về phía thầy.
Trước mặt tôi một ông già ốm yếu mệt mỏi gầy gò
trong bộ đồ tù màu lam cổ nồi. Chiếc khăn mặt trắng vắt một bên
vai. Ngồi một chân trên giường, một chân thòng xuống đất, tay
xoa tới xoa lui chiếc đầu trọc mới cắt không đều. Một hình ảnh
thật thân quen gần gũi như tôi đã từng thấy những lần lên thăm
chùa Trà Am, Bảo Quốc... ở Huế.
Tôi cất tiếng
“Dạ thưa Ôn!”
Thầy ngước mắt nhìn lên. Ðôi mắt sáng hiền lành đôn
hậu. Ung dung đứng dậy, đưa hai tay nắm lấy tay tôi, nhỏ nhẹ
“Chào anh!”
“Thưa Ôn. Nhân dịp đầu năm con qua thăm Ôn. Cầu chư
Phật gia hộ cho Ôn được sức khoẻ, thân tâm thường an lạc.”
Nét mặt vẫn ung dung tự tại, nhưng trong đôi mắt,
tôi thấy Ôn đang cười vui. Ấn nhẹ vai tôi ngồi xuống giường với
Ôn. Với tay lấy mấy chiếc kẹo tiêu chuẩn tết trại phát và gô
nước mời tôi.
“Anh người Huế?”
“Dạ. Thưa Ôn con sinh ở Huế, nhưng ở trong Nam lâu
hơn.”
Tôi chợt nhớ ra.
Tuy giọng nói của tôi không còn trọ trẹ Huế chính
gốc mà đã pha Nam, nhưng khi xưng hô thì tự nhiên gọi thầy bằng
Ôn như hầu hết người Huế xưng hô với các vị tăng già.
Chỉ sau ngày đấu tranh Phật giáo 1963, rồi sau đó
lập ra nào là Viện Tăng Thống, Viện Hóa Ðạo mới gọi là Hòa
Thượng Ðại Ðức. Vừa xa lạ vừa kiểu cách. Lắm khi lại dùng danh
xưng Ngài. Vừa phong kiến vừa xa thế gian.
Trước đây chúng tôi gọi là Ôn Tường Vân, Ôn Linh Mụ,
chẳng khi nào dám gọi đích danh là Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết,
Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu.
Tiếng Ôn, nghe thân thiết gần gũi mà đâu có mất đi
niềm tôn kính. Một lần tôi gọi “Thầy Ðôn Hậu”. Mạ tôi rầy. “Ðừng
hỗn con. Gọi là Ôn Linh Mụ”. Tôi nhớ rõ, lúc còn làm cố vấn giáo
lý cho các gia đình Phật tử, chúng tôi gọi là “chú Minh Châu,
chú Thiên Ân...”. Mãi sau nầy mới đổi ra gọi là thầy, rồi thượng
tọa khi các vị du học ở Ấn độ Nhật bản về làm Viện trưởng làm
giáo sư đại học.
Từ sự xưng hô này, thầy nhận ra tôi là người Huế.
Thầy hỏi tôi:
“Anh có nhận được tin nhà không? Vợ con thế nào?”
Ý Ôn muốn hỏi thăm vợ con có đi lọt không.
“Dạ cám ơn Ôn. Con có nhận được thư gia đình ở
Saigòn tuần rồi”.
Nhìn Ôn, tôi ái ngại:
“Trông Ôn ốm yếu quá! Con lo Ôn không chịu đựng
được.”
Thầy cười, nụ cười Bồ Tát, nhìn tôi:
“Tôi thì chỉ lo cho các anh không quen lao động cực
khổ. Ăn uống lại quá thiếu thốn. Thương các anh chưa hề trải qua
cái đói, cái lạnh. Riêng thầy xuất gia từ thuở nhỏ, dưa muối
tương chao qua ngày, ruộng rẫy cũng đã làm. Thành thử thầy quen
và chịu đựng được.”
Ðôi mắt,
giọng nói và nét mặt của thầy, trong phút chốc đã truyền qua cho
tôi một sự an bình lạ thường. Không nói lời nào, Thầy đặt tay
trên vai tôi xiết nhẹ...
Kẻng báo giờ cơm. Ðám đông ồn ào từ ngoài sân ùa
vào. Lặng người xúc động, tôi đứng dậy run run cầm tay Thầy từ
giã. Ðôi tay gầy xương.
4.
Chúng tôi cùng mấy thầy mấy cha chuyển trại từ Sơn
La về Vĩnh Phú sau đợt Trung cộng tràn qua biên giới phía Bắc.
Tuy vẫn cùng ở chung một trại nhưng kỷ luật gắt gao, ăng ten chỉ
điểm theo sát nên chẳng còn có dịp nào được gặp lại thầy.
Một thời gian sau, người bạn kể cho biết thầy ngất
xỉu ngoài hiện trường lao động phải đưa về bệnh xá cấp cứu. Ai
cũng nghĩ thầy sẽ không qua khỏi. Trong lúc anh em buồn rầu lo
lắng thì thầy hồi phục trở về tiếp tục lao động bình thường.
Thầy chỉ bị kiệt sức. Ai hỏi thăm, thầy cười hiền lành:
“Nhờ chư Phật gia hộ! Tôi còn sống và sống lâu
nữa!”
Thời gian ngắn sau đó thầy lại kiệt sức. Lại hồi
phục. Có ai thăm hỏi, thầy lại cười hiền lành. “Nhờ chư Phật gia
hộ! Tôi vẫn còn sống và sống lâu nữa.”
Về sau anh em trong đội mới phát giác ra được nguyên
nhân căn bệnh kiệt sức của thầy. Tổ lao động của thầy có mấy đại
đức trước đây là đệ tử của thầy. Thường khi lao động về, mấy đại
đức chia phiên lấy phần ăn cho thầy. Ðói cách mấy thầy cũng
khoan thai ra giếng múc nước rửa mặt xong mới vào tọa thiền và
thọ trai.
Thời gian nầy, thức ăn cho tù vốn đã quá ít nay còn
hạ xuống, vì khó khăn lương thực mất mùa. Phần ăn của thầy đã bị
mấy vị trai trẻ lén lút xén gần hết. Thầy biết, nhưng tâm từ bi,
chẳng than thở. Có chừng nào thì độ chừng đó. Cứ thế sức kiệt
dần. Từ khi biết được nguyên nhân, anh em chia người canh giữ
phần ăn cho thầy. Thầy cười!
5.
Thầy gượng khỏe cho đến ngày được tha.
Mười mấy năm tù ngục đọa đày. Bao người trẻ tuổi
khoẻ mạnh đã chôn xác tức tưởi góc núi, ven rừng. Ốm yếu như
thầy vẫn thọ với đời. Thầy về được cho tạm trú trên căn gác thấp
hẹp, trước cổng một ngôi chùa nhỏ nằm sâu trong hẻm cụt Saigon.
Ngày vía, ngày lễ Phật, anh em tù cũ kéo đến thăm. Thầy liên lạc
với ni cô đầu bếp, với mấy bà làm công quả để có mâm cơm chay
tươm tất cho mọi người. Người tin Phật. Người tin Chúa. Người...
Căn gác vui, rộn rã. Và ấm tình người.
Tuổi quá tám mươi. Trên căn gác hẹp trước cổng
ngôi cổ tự nghèo. Một sớm mùa xuân, Ôn viên tịch.
Tâm
hương đảnh lễ !
|