Chén cơm chờ chết


- Báo
cáo cán bộ... ộô... ộ... ô!!! Buồng 13 xin cấp cứu... ứu... ứ...
ú!!!
Trong cái yên tĩnh của đêm đen lạnh lùng và cô tịch, giữa núi rừng
hoang vắng, tiếng báo cáo của những người tù đang đói ăn mà vẫn
phải gào to vì đó là vấn đề sinh tử của một người bạn cùng cảnh
ngộ. Thế nhưng, tiếng kêu gọi đầy giọng điệu nài nỉ đó sẽ mất hút
vào vách núi đá và lá rừng bao quanh trại sau một vài lần vang đi
vội lại nếu không được bạn tù của những buồng kế cận tiếp âm
chuyển đến cán bộ trực trại.
Âm thanh những lời báo cáo trên đây, từ buồng này chuyền sang
buồng nọ, đi lần đến phòng "trực ban" của trại chẳng khác gì hình
ảnh của một con cóc nhảy từ bụi rậm này sang hốc đá kia. Một
phương tiện thông tin vô cùng thô sơ giữa lòng thế kỷ XX, chuẩn bị
bước sang XXI và trên đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa "anh
hùng"! Tiếng kêu cứu vang dội đêm đen đó đem lại cho người nghe
cảm thấy rùng rợn như đang sống trong một thời kỳ ma quái, xuất
phát từ cái rung động của nó trong bầu không khí cô liêu mông
quạnh và nhất là từ nỗi đau đớn của người tù ở điểm khởi hành của
lời báo cáo.
Trại tập trung tù cải tạo nào cũng vậy, phần lớn thường nằm trong
lòng chảo của một vùng đồi, rừng núi bao quanh theo hình chữ C
hoặc chữ U. Trấn thủ ở nơi mở ngõ của chữ C hay chữ U là khu doanh
trại của bộ chỉ huy và nhà ở của cán bộ "khung". Qua sắp xếp như
vậy, trại chính danh giam tù kể như bị bao vây tứ phía. Ở vùng đồi
núi, đất trống đâu có nhiều nên những buồng ở của tù rải rác khắp
vùng đồi, cái nằm khuất dưới thung lũng, cái thì trên mỏm đồi con,
khó có trường hợp tất cả các buồng cùng nằm trên một mặt bằng. Do
đó, tiếng kêu cứu bệnh phải vất vả lắm mới đến tai cán bộ trực
trại có phận sự trong đêm. Chưa kể trường hợp ông ta ngủ say, trùm
kín vì mức độ lạnh lẽo của núi rừng.
Tiếng kêu cấp cứu đêm đó mãi lâu sau mới được đáp nhận bằng một
giọng ngáy ngủ đầy bực tức của cán bộ trực trại:
- Nghe rồi, nàm gì mà gọi nắm thế!
Hầu hết những người tù cải tạo của các buồng trong khu giam đều
thức giấc với tiếng báo cáo đó, lo âu cho người bạn ốm đau hiện
tại và cho phận mình trong tương lai. Kêu cấp cứu cho buồng 13,
con số không hên, thì ai cũng nghĩ rằng:"Chắc là nó rồi!"
Mấy hôm nay dư luận trong trại mơ hồ loan đi rằng dạo này "Nó" suy
sụp và bệ rạc vô cùng. Từ một thanh niên lực lưỡng khỏe mạnh, điển
trai, cột trụ của đội "cơ động", nay "Nó" chỉ còn là một bộ xương
cách trí lê lết lẩn quẩn quanh chỗ nằm, sau một cơn bịnh phù vì
suy dinh dưỡng. Hôm trước đây, có người đi khám bệnh ở "trạm xá"
một lượt với "Nó" về cho biết tình hình là bây giờ "Nó" xệ kinh
khủng, toàn thân phù to, hai chân nặng như chì, cử động không nổi,
còn hòn bi của bộ phận thầm kín to gần bằng quả dừa xiêm! Vậy mà
cán bộ quản giáo của đội chưa chấp nhận đưa "Nó" vào "biên chế"
đội "xi-cà-que" của những người bệnh hoạn ốm yếu mà vẫn giữ "Nó"
lại đội gốc, để phụ trách "canh tác cải thiện" cho đội vì sợ mất
sĩ số lao động, có ảnh hưởng xấu đến quá trình "thi đua"! "Nó" còn
có bí danh "Phong-Giặc-Nái", một biệt hiệu mà anh em tù cải tạo,
từ trại nào không ai còn nhớ nữa, đặt cho "Nó" theo điệu nói và
cung cách phát âm vần "Lờ" thành "Nờ" của cán bộ cộng sản ở chữ
"lái". Sở dĩ có tên tục đó cho "Nó" là vì cộng sản gọi người lính
Không Quân Việt Nam Cộng Hòa là giặc lái.
Trước ngày "đứt phim" của Việt Nam Cộng Hòa, Phong là trung úy
không quân, lái chiến đấu cơ A1H thuộc phi đoàn 214 và nằm trong
thành phần mà tử vi tướng số gọi là "đào hoa chiếu mệnh". Vào buổi
hưng thời đó, Phong có một ngoại hình rất đẹp, mà người trai trẻ
nào cũng ước mơ, vì anh là khách hàng thường xuyên của phòng thể
dục thẩm mỹ trong căn cứ. Ðẹp trai, nhà giàu, học giỏi lại sĩ quan
không quân loại chải chuốt, cười nói có duyên, ăn mặc là lượt nên
các kiều nữ Sài Gòn đã đặt Phong lên mục tiêu hàng đầu, phải chiếm
cho bằng được. Về phía Phong thì tự cho rằng đã là sĩ quan không
quân thì phải giữ đúng truyền thống quân chủng là "hào hoa phong
nhã" đúng mức, coi sự chinh phục như là lẽ sống đời mình.
Ðã lên trời thì phải chiếm mục tiêu được chỉ định trong chiến
thuật và chiến lược, trong đời thường thì phải thu phục phái đẹp
một khi đã giã từ trời mây, hạ cánh đáp. Hai xu thế nam nữ gặp
nhau như hai cực nam châm khác tên nên cuộc đời tình ái của Phong
nhiều khi cũng phong ba bão táp, đúng như lời than phiền của các
bà vợ không quân là:"Sống thì làm khổ vợ con, chết thì làm vợ con
khổ!" Tình cảm đa nguyên, đa dạng nhưng cho đến ngày "sập tiệm,
nghẽn lối đường mây", Phong vẫn cứ độc thân, thui thủi một mình
một bóng trên đường đời, mặc dù cha mẹ Phong luôn mong mỏi sớm có
một tí cháu nội để nối dõi tông đường.
Trong những ngày đi tù cải tạo, Phong cảm thấy cô đơn hơn bao giờ
hết vì khi "Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt, quăng máy bay đi
trại tập trung" thì những người em thơ mộng ngày trước của Phong
đã phương trời biền biệt! Lắm thầy thối ma, nhiều đào chẳng ai ngó
ngàng một khi đã sa cơ thất thế. Một số em theo gia đình di tản ra
ngoại quốc, số khác thì vội vã đi lấy chồng vì sợ bọn cầm quyền
cộng sản mới lên ngôi ép buộc phải chấp nhận những anh "binh
tròn", mất tay, cụt chân, làm chồng, như tin đồn khi "cách mạng"
vào thành phố. Một con người khỏe mạnh vạm vỡ như Phong trước kia
mỗi sáng lót lòng tối thiểu phở "tàu bay" cũng phải hai tô cỡ B-52
vậy mà vào trại rồi chỉ đành hài lòng với mỗi tháng 15 kí gạo mốc,
đong non, chan "nước đại dương", một loại nước muối pha loãng cộng
thêm vài gắp rau luộc và năm khi mười họa một miếng thịt mỡ to cỡ
ngón tay! Trong khi đó thì suốt ngày, một tuần sáu ngày, có khi cả
bảy ngày, với ngày chúa nhựt mà trại gọi là "ngày thứ bảy cộng
sản", thậm chí tám ngày nếu phải lấy đêm làm ngày vượt mức lao
động xã hội chủ nghĩa! Những ngày công như vậy, Phong phải quần
quật với những thân cây to tướng, những bó củi rợn người, lại thêm
lập thành tích chào mừng này nọ nên cơ thể của Phong phải "khắc
phục" tự túc, lấy thân nuôi thân bằng chất dinh dưỡng mà lục phủ
ngũ tạng Phong đã tích lũy được trong mấy mươi năm đời mình, trước
khi "Bác và Ðảng về giải phóng", đưa vào trại tập trung cải tạo!
Túng thì phải tính, nhất là túng quẫn vì miếng ăn khi bụng đói
cào. Bao tử quyết định tất cả về con người, thậm chí lấn lướt cả
lý trí. Cộng sản đã vận dụng nguyên tắc này để quản lý tù cải tạo,
ngoài lý do thiếu kém lương thực thực phẩm cố hữu của ý thức hệ.
Nhu cầu đòi hỏi quá mạnh mà số cung thì chẳng có bao nhiêu nên
"Nó" phải tìm mọi cách để trám đầy dạ dày ngày đêm đòi hỏi, chớ
không lẽ thụ động chờ chết? Lúc bình thường còn sinh hoạt trong
đội cơ động, tiêu chuẩn ăn hàng tháng của "Nó" là 15 kí. Nay bệnh
hoạn và bị "bố trí" canh tác cải thiện ở vườn rau của đội, "Nó"
chỉ còn được hưởng tiêu chuẩn 13! Ðã đói lại càng đói thêm.
Thực tế ra chưa chắc con người "Nó" đã đói đến như vậy nhưng chính
cái tâm lý đói làm tăng thêm cảm giác đói trong "Nó". Thế là những
đám rau má hoang dại được "Nó" nhổ về hằng ngày để độn vào phần
cơm tiêu chuẩn, sau khi chia ra mỗi người chưa được một tô. Ngần
ấy cơm đem trộn lẫn với gần một thau rau má người ta chỉ thấy xanh
rau nhiều hơn trắng gạo, nhưng cũng tạm thời thỏa mãn cảm giác
thiếu đói.
Bữa ăn nào của "Nó" cũng là một "nghi lễ" trang trọng. "Nó" ngồi
ăn ngon lành, chậm rãi, lấy muỗng con lựa từng hột cơm một đưa vào
miệng riêng rẽ để thưởng thức tận cùng chất ngọt của hột cơm. Hơn
nữa cũng để kéo dài niềm "hạnh phúc" bé nhỏ hằng ngày. Ðến lượt
rau thì "Nó" dồn đầy mồm để tìm lấy cảm giác nhiều ăn, mạnh nuốt,
đánh bạt mặc cảm thiếu cơm! Ngay trong bữa ăn, "Nó" cũng phải đóng
kịch, tự dối mình, biết đâu chẳng là một cung cách sống của "con
người mới xã hội chủ nghĩa" mà chương trình cải tạo tư tưởng của
cộng sản muốn "Nó" tiếp nhận?
Có nhiều khi ngồi ăn "Nó" nhớ lại những ngày còn thơ ấu khi được
bà ngoại đút cơm. Bà thường nhủ rằng:"Mỗi hột cơm là một hột ngọc
Trời cho". Bây giờ "Nó" mới thấy rõ chân giá trị của lời nói mà
thuở ấy chỉ vào lỗ tai này để ra phía bên kia. Trong những lúc đầy
đủ ngày trước, cơm gạo chẳng là gì hết đối với Phong, cùng lắm
cũng là một chất để ăn cho phải lẽ, để đưa thức ăn vào bộ máy tiêu
hóa, phù hợp với nhu cầu người Việt Nam. Có cơm cũng được mà không
có thì cũng chẳng sao. Nay thì những gì bị khinh thường trước kia
lại trở nên nhu cầu sinh tử!
Thời buổi bây giờ đã khác, không những khác về ý thức hệ mà còn
khác về nỗi đầy vơi của cái bao tử. Cơm là một thức ăn vô cùng
quan trọng dù chỉ là cơm lạt không thôi. Suốt ngày trong trại, từ
khi mở mắt cho đến lúc đi ngủ, thậm chí ngay trong giấc mơ, "Nó"
chỉ nghĩ đến phần cơm tiêu chuẩn. Một tô cơm đã ăn rồi còn thấy
đói, vẫn thấy thòm thèm, nuốt khỏi cuống họng rồi vẫn thấy như
chưa ăn, nôn nóng chờ giờ cơm sắp tới!
"Nó" chợt hiểu ra rằng tại sao có những trường hợp người ta lại
chém giết nhau vì miếng ăn. Khi đói, tâm trí cùng quẫn, không thể
mà cũng không muốn nghĩ làm gì nữa đến những chuyện cao xa, đội đá
vá trời hay dời non lấp biển. Người đói mãi mãi bị tô cơm tiêu
chuẩn ngày đêm ám ảnh. Không ăn thực tế được thì người ta phải bàn
luận về miếng ăn.
Ðêm đêm chui vào mấy lớp mền nằm co quắp như tôm kho tàu trên ổ rạ
rơm để chống lại cái lạnh trời đông tháng giá của những ngày rét
ngọt có gió mùa đông bắc, bụng đói cào vì phần ăn ban chiều đã
tiêu tan, anh em tù kể cho nhau nghe những cuộc liên hoan nhậu
nhẹt dưới thời Sài Gòn cũ. Người ta ăn bằng hàm thụ, người ta chỉ
cho nhau, trong trễ muộn, tiệm nào có món vịt tìm ngon, quán nào
có món nhậu "hết xẩy", nhà hàng nào bán cơm Tây bình dân nhưng độc
đáo...
Có nhóm lại diễn trò "bà Quốc Việt" mở lớp dạy nấu ăn, người nói
nói, kẻ chép chép, ghi ghi đầy cả tập giấy chẳng biết để làm gì?
Tâm trạng người đói cũng là một hình thức mất trí. Ðừng nghĩ tới
cái đói thì sẽ đỡ đói hơn. Càng nghĩ đến, nó lại càng giày vò ta
quá lắm. Nếu không bị chế ngự, cái đói sẽ là một ma lực bất kham,
bướng bỉnh. Nó sẽ đưa đối tượng của nó đến những hành vi mà bình
thường được cho là hèn hạ, nhục nhã.
Vậy mà không hiểu tại sao khi bụng đói lý trí lại có những lực đẩy
kỳ quái như thế? Một hôm, trên đường từ suối lên buồng giam khi đi
ngang qua đống khoai mì nhà bếp bỏ ra để nuôi heo, mắt "Nó" bị một
củ khoai tương đối to tốt thu hút. "Một củ sắn như vầy mà bỏ cho
lợn ăn thì phí thật"! "Nó" nghĩ vậy và từ ý nghĩ đến hành động
không bao xa, khi bụng đói đang cồn cào và miếng ăn lại đang trước
mắt. Không một bóng người quanh đó, "Nó" lanh tay cho củ khoai vào
túi áo để mai sáng ra vườn nổi lửa nấu, cũng đỡ đói được một lần.
Việc làm của "Nó" bị phát giác. Trong buổi sinh hoạt đội tối hôm
sau, "Nó" bị đưa ra phê bình và bị bắt làm kiểm điểm. Kết quả "Nó"
bị kỷ luật, cắt một kỳ viết thơ cho gia đình và hạ tiêu chuẩn
lương thực còn 12 kí trong một tháng!
Ðã thiếu ăn lại còn bị cắt giảm tiêu chuẩn, tâm trạng "Nó" bị dồn
đến mức cùng. Ðem hiện tại đối chiếu dĩ vãng, "Nó" nhận ra một
nghịch lý không sao giải thích được mà lối thoát thì không thấy
đâu. Khi lao động cần cù và cật lực đến đổi thân tàn ma dại như
ngày nay để tạo ra không biết bao nhiêu của cải vật chất cho trại
thì không thấy ai lấy đó làm yếu tố để thẩm định mức độ học tập.
Nay chỉ vì một khúc khoai mì vứt đi cho lợn mà phải chấp nhận hình
phạt nhục cả người! "Nó" như đang đi trong đường hầm mà ánh sáng ở
đầu kia không bao giờ có được. Lẽ nào "Nó" lại đứng trước bờ vực
thẳm một cách rẻ tiền và phi lý đến như vậy sao?
Từ đó cả thể xác lẫn tinh thần của "Nó" bắt đầu sa sút và sa sút
như tảng đá tròn trên núi cao đã đứt lìa núi mẹ mà lăn theo triền
núi. Không ai có thể hình dung được một trung úy Phong ngày xưa,
biến dạng thành "Phong-Giặc-Nái" của trại tù cải tạo bây giờ, lại
là nguyên nhân để nửa đêm về sáng bạn bè anh phải khẩn khoản gọi
cán bộ trực trại đến đưa anh vào nằm bệnh xá trại. Một chiến sĩ đã
từng ngang mây, dọc gió mà giờ đây phải nằm liệt vì một tô cơm của
từng bữa ăn! Xé gió tung mây, không gian rộng lớn thu lại trong
lòng bàn tay để rồi giờ đây phải thuần phục tiêu chuẩn cơm hằng
ngày?
Kỷ luật khắc khe của trại tù không cho phép bạn bè đến thăm Phong
ở "trạm xá" nhưng theo dư luận thì không chắc gì anh qua khỏi con
trăng và hôm nay đã hạ huyền rồi. Ngọn đèn trước khi tắt đôi khi
bùng lên như tiếp được một luồng dưởng khí.
Theo kể lại thì chiều tối hôm đó Phong tươi tỉnh lên, vui vẻ với
những bạn tù trợ y trong trạm xá. Anh thỏ thẻ với "bác sĩ tù" được
trại chỉ định "trợ lý" cho cán bộ y tế :
- Thưa bác sĩ, chắc là tôi không còn bao nhiêu ngày nữa...
- Mày đừng nghĩ bậy Phong...
- Không bậy đâu bác sĩ. Tôi biết sức tôi mà. Xin bác sĩ giúp cho
tôi một điều rất nhỏ...
- Chuyện gì nữa đây, Phong?
- Từ trước đến nay trại hay dằn trên bụng người chết một chén cơm
và một quả trứng chẻ đôi...
- Rồi sao?
- Ngay bây giờ, xin bác sĩ đề nghị với trại cho tôi ăn phần đó,
khi tôi tắt thở thì không cần nữa.
- Mày lúc nào cũng tếu được hết sao Phong?
- Tôi không đùa đâu bác sĩ.
Nói thì nói vậy nhưng người "tù bác sĩ" kia lòng ngập buồn đau vì
ông biết rằng yêu cầu đó của Phong là chính đáng so với bệnh tình.
Nhưng, ông cũng thừa hiểu rằng trại không bao giờ thỏa mãn loại
đòi hỏi như vậy, nhất là của tù cải tạo gốc "ngụy quân" vì không
có cơ sở và không đúng quy định.
Ðúng là không thể có điều đó được dù cho bác sĩ có tha thiết trình
bày một cách khéo léo nguyện vọng của Phong với cán bộ y tế. Trái
lại, bác sĩ còn bị cán bộ y tế, quản giáo của ông, phán cho một
câu nghe đến nhức óc :
- Anh lại mất quan điểm, cứ cảm tình lăn nhăn. Con người y tế phải
nắm vững hành động của mình. "Lương y như từ mẫu" anh không nhớ à?
Nhưng phải như là một bà mẹ lô-gíc cơ! Ðể anh ấy khắc phục rồi đâu
sẽ vào đấy cho anh xem.
Một vấn đề cỏn con như vậy mà không làm cho bạn mình mãn nguyện
được ông bác sĩ thấy buồn vô hạn nhưng biết làm sao hơn. Ðêm đó,
gió mùa đông bắc tràn về khá mạnh. Nằm trong buồng đóng kín cửa mà
gió cứ vi vu, hất mạnh những giọt mưa phùn vào tường vôi nghe rào
rào. Người đói thì cơ thể chống cự với cái lạnh một cách rất yếu
ớt. Nằm dưới mấy lớp mền, mặc mấy lớp áo quần, người co quắp trong
ổ lá chuối rừng khô mà vẫn thấy lạnh như lúc cơn của bệnh rét rừng
chợt tới. Không sao ngủ được với cái lạnh len lén vào hồn đó,
những người tù cứ lăn qua rồi trở lại, đi tìm một chút ấm áp lảng
tránh chập chờn. Như chừng hăm he đe dọa mãi rồi cũng mệt mỏi, cơn
gió dữ dằn cũng lắng dịu đi.
Trong cái thanh vắng của nửa đêm về sáng, từ bệnh xá có tiếng búa
đóng đinh vào thùng cây vang đi vội lại qua vách núi. Mỗi tiếng
búa đập vào đầu đinh là một lần nhói động con tim của những người
tù cải tạo nằm ở các buồng cận kề bệnh xá. Mỗi tiếng búa đóng đinh
là mỗi bước đi vang vội của Tử Thần, hăm hở tiến vào trại để cướp
lấy một người tù học tập đã "cải tạo tốt" trước hạn kỳ! Không ai
bảo ai nhưng trong bóng tối ngục tù và trong tâm trí của mọi người
nghe được tiếng búa đóng đinh đêm đó đều thầm bảo rằng:"Thế là
‘Nó’ đã vĩnh viễn ra đi!"
Linh tính của tù quả không sai. Thuận lý với tác phong và tư cách
của một con người nặng kiếp không quân, "Phong Giặc Nái" muốn xin
được "hào hoa" lần cuối. Nhưng tiếc thay nỗi lòng chay đá của
những con người cộng sản đã không thông cảm được người sống thì
làm sao xót thương được người sắp về cõi hư vô? Một linh hồn đã ấm
ức về đầu kia mây gió, như một phi cơ gặp nguy kịch mà phi trường
lại không sẵn sàng tiếp nhận để nó phải âm thầm thẳng cánh bay xa
và xa mãi, khi chỉ còn là một chấm đen nhỏ ở cuối trời mênh mông!
Phan Quân
(Trích"Cõi Đời Vô Duyên")
|