Danh
tiếng và h́nh ảnh của ông tiến sĩ kinh tế, tôi đă biết đến trong
những ngày Sài G̣n đang buổi hưng thời, những ngày mà thành phố
này chưa bị người ta lập "thế v́ khai sanh" để đặt cho nó một tên
gọi mới chẳng ai buồn sử dụng, kể cả những người cộng sản. Thế
nhưng, vào những tháng đầu năm 1978, khi mối hiềm khích giữa hai
đảng cộng sản anh em làm cho t́nh h́nh biên giới phía Bắc Việt Nam
bắt đầu xao xuyến th́ chân dung của ông tiến sĩ đă trở nên bệ rạc
một cách quá đau thương trước mắt tôi, mặc dù danh tiếng xưa cũ
của ông vẫn c̣n được trân trọng trong thâm tâm tôi.
Sự
thay đổi thể xác của ông tiến sĩ đă xảy ra trong bối cảnh là Sài
G̣n đă bị người ta "bắt cóc" và công chức cùng quân nhân của Việt
Nam Cộng Ḥa, dưới nhản hiệu mới "ngụy quân, ngụy quyền", bị hốt
đưa ra miền Bắc để lấy môi trường mà người ta cho là "ngh́n lần
dân chủ", t́m cách thay óc đổi hồn, nôm na ra là cải tạo tư tưởng.
Là quân nhân nên trong buổi ban đầu tập trung cải tạo, tập thể
quân lực cũa chúng tôi thuộc quyền quản lư của bộ đội. Viên chức
chính phủ và dân cử nằm trong ṿng sanh sát của công an. Trại tù
do bộ đội phụ trách nằm giữa vùng rừng núi giáp giới Trung Quốc
hoặc Lào, c̣n trại công an nằm xa hơn về phía Nam của Bắc Việt.
Khi Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu hục hặc nhau th́ các trại tù do
bộ đội đảm trách được lệnh dời xa biên giới v́ Hà Nội sợ, trên
đường tiến quân, Bắc Kinh sẽ giải vây "ngụy quân, ngụy quyền" Sài
G̣n. Ở đồng bằng không thừa đất trống để dựng tiếp trại giam hay
xây thêm nhà tù như ở núi rừng miền cao nên người ta sáp nhập
"ngụy quân" với "ngụy quyền" đưa vào thế kềm kẹp của công an.
Kỹ
thuật quản lư tù của công an khắt khe hơn phương pháp của bộ đội
rất nhiều, mặc dù nguyên tắc chung th́ nơi nào cũng vậy. Một trong
những nguyên tắc đó là tù không được "liên hệ" với nhau, nếu không
có sự ưng thuận của cán bộ. Trại tù do bộ đội quản lư thường là
những quần thể các nhà tranh vách phên bao quanh bằng một hàng rào
tre kiểu ngăn chận gà vịt. Trại thường nằm giữa núi đồi rừng rậm ở
những nơi sơn cùng thủy tận, đèo heo hút gió th́ người ta không
cần đ̣i hỏi kỷ luật khắt khe làm ǵ. Cho nên tù "ngụy quân" liên
lạc nhau là chuyện thường, không những trong nội bộ một trại mà
c̣n giữa trại này với trại khác trong vùng, khi vào rừng t́m củi,
đốn cây. V́ vậy, khi đến trại Hà Tây, gặp lại bạn bè xưa cũ sau ba
năm xa cách, lại xa cách trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt
chẳng ai biết được tin ai tưởng chừng như không bao giờ gặp lại
nữa, tù cải tạo mừng rỡ hơn bắt được vàng. Thế nhưng, khi tù gật
gù chào hỏi nhau th́ người đối diện, vốn là tù Hà Tây, cứ dửng
dưng, phớt lờ như chẳng có chuyện ǵ xảy ra, ngoại trừ một vài cái
nheo mắt âm thầm, lén lút, ngầm đưa tín hiệu rằng có ghi nhận và
đáp lễ! Phía phát bèn nhớ lại rằng tù không được phép "liên hệ"
với nhau. Khắt khe đến như vậy sao, mặc dù quanh quẩn đâu đó không
có một bóng dáng công an "ḅ vàng" nào cả? Th́ ra ở trại công an,
tù cải tạo không những bị cán bộ kiểm soát mà c̣n phải qua sự kềm
kẹp trực tiếp và thường xuyên của tổ đội trưởng, những người tù do
trại đưa ra nhận trách nhiệm lănh đạo đó!
Trong bối cảnh như vậy, tôi gặp được ông tiến sĩ. Tôi nh́n ông
bằng một cái nh́n chào hỏi kính mến nhưng ông nh́n tôi với một đôi
mắt không thần sắc, như đang sống với một quá khứ của hồi gần đây
mà giờ đă xa vời vô hạn. Trong t́nh cảnh tù đày như thế mà muốn
sống được nhẹ nhàng th́ người tù cải tạo thường để tâm tư thoát
tục, không sống với hiện tại mà hiện hữu với dỉ văng hay với tương
lai ḿnh đang dự phóng. Ông tiến sĩ kinh tế, ngày xưa cân đai áo
măo giờ đây lưng trần trùi trụi bên dưới là chiếc quần đùi nhà tù,
mồ hôi nhễ nhại đang khệ nệ bưng những cái soon để lấy cơm cho cả
buồng giam từ 50 đến 70 người. Nhân tài xă hội chủ nghĩa chắc là
thừa mứa hoặc giả tŕnh độ tri thức của họ quá cao cho nên một ông
tiến sĩ kinh tế tốt nghiệp ở Anh nay bị họ đẩy xuống làm kinh tế
c̣ con, chia cơm cho tù! Ngày qua tháng lại, nh́n ông tiến sĩ lao
động mà ḷng quặn thắc, tôi chừng như quên khuấy đi mất thân phận
của chính ḿnh.
Năm
1983, khi có lịnh giải thể trại tù chính trị Hà Tây th́ một lần
nữa người ta "xóa bài làm lại", "ḥa hợp ḥa giải" tù cải tạo, pha
trộn đủ thứ, quân nhân, công chức, cấp bậc, chức vụ, đưa tất cả tù
cải tạo vào một trại duy nhứt ở Nam Hà. Một thời gian ngắn sau đó,
người ta lại đưa một số vào các trại trong Nam, chỉ giữ lại Nam Hà
một số ít, được tù gọi là "số lượng dằn chảo". Sau đợt đi Nam lần
đó, số tù cải tạo c̣n lại được trại "biên chế", tổ chức thành tổ
đội và phân chia buồng giam trở lại. Một lần xáo trộn may mắn cho
tôi được ở cùng buồng và sinh hoạt cùng đội với ông tiến sĩ kinh
tế. Tôi được dịp hiểu biết và cảm thông với ông tiến sĩ nhiều hơn.
Một con người đă ở đĩnh cao trí tuệ, từng chiếm lĩnh ngôi thứ ưu
tú trong xă hội và trên chính trường Sài G̣n nhưng lại rất b́nh dị
xuề x̣a. Không phải v́ gặp cảnh tù đày cải tạo v́ không thiếu ǵ
những anh tù cải tạo mà tật kiêu kỳ vẫn không chừa được. Vấn đề là
bản chất và cá tính của từng cá nhân. Người ta có thể đóng kịch ở
xă hội b́nh thường nhưng không ai làm tuồng được với bạn bè trong
tù. Vợ chồng chưa chắc ǵ hiểu tánh t́nh của nhau bằng những người
tù sống bên nhau mười mấy năm trong những t́nh huống thật "trần
truồng", nghĩa là tâm tư t́nh cảm cá nhân của mỗi người gần như
đem xếp ra ngoài cho bạn tù xem theo kiểu những lần trại khám tư
trang.
Vào
những năm 85 và 86, sức khỏe của ông tiến đă sĩ ngoại lục tuần,
vốn không mấy khả quan, bắt đầu sa sút đi nhiều theo tuổi đời
chồng chất, v́ lao động cải tạo, cộng thêm những nỗi phiền muộn về
gia đ́nh không tiện nói ra. Thế nhưng thể xác ông vẫn c̣n đẹp,
thường xuyên tập thể dục, tắm hằng ngày bằng nước lạnh lấy ở giếng
lên và ăn uống rất chừng mực và điều độ. Ông đứng trong thành phần
những người tù ít có thăm nuôi - tất cả gia đ́nh ông đều ở Pháp -
nhưng được tiếp tế điều ḥa, phần lớn là tiền và thuốc trị bịnh.
Thỉnh thoảng ông cũng được một vài người bạn cố tri, nhưng có chút
thế lực trong chế độ mới, nghĩ đến t́nh cũ nghĩa xưa ghé qua trại
thăm hỏi, nhân một chuyến công tác nào đó ở Hà Nội. Một số bạn bè
khoa bảng của ông ngày trước, đang sinh sống tại ngoại quốc, cũng
có can thiệp với thủ tướng Phạm Văn Đồng - khi ông này sang Úc qua
một chuyến công du - để xin cho ông tiến sĩ sớm được tự do. Tiếc
thay, những can thiệp đó cũng chỉ là một loại "nước đổ đầu vịt,
mưa xuống lá khoai"! Thậm chí c̣n thêm phần tác hại v́ đối với
cộng sản những người tù có can thiệp là những tội phạm cần được đề
cao cảnh giác, quan tâm đặc biệt. Nhưng không phải để tha mà để
giam giữ thật kỹ. Càng được can thiệp, càng bị nghi ngờ cho nên
ông tiến sĩ cứ phải "học tập" dài dài dưới "ánh sáng xă hội chủ
nghĩa".
Bịnh
căn bản của ông là bịnh tim, nhưng ông lại thích thể dục thể thao
với những động tác mạnh bạo mà theo ông là để cho máu bị bắt buộc
phải vận chuyển nhanh. Mỗi giờ thể dục buổi sáng của ông cán bộ
bên ngoài ṿng rào khu giam đều hay biết v́ ông có điệu thở ra hít
vào thật ồn ào nên ông có biệt danh là "tàu Thống Nhất vào ga Hàng
Cỏ".
Một
hôm, vào sáng sớm mùa đông, cả buồng giam đang trùm kín mền để chờ
kẻng thức th́ nghe tiếng người té trong pḥng vệ sinh và có tiếng
la:
-
Anh Xuân xỉu rồi anh em ơi!
Một
vài anh em chạy vào khiêng ông tiến sĩ ra, lăng xăng người xoa
bóp, kẻ cạo gió, anh khác la to:"Báo cáo cán bộ, buồng 2 xin cứu
cấp!" V́ cửa buồng c̣n khóa nên phải gọi cán bộ đến mở ưu tiên để
đưa ông tiến sĩ đi trạm xá. Mặt ông xanh như tàu lá chuối non, hơi
thở yếu ớt và ông không c̣n biết ǵ nữa. Một anh bạn lực lưỡng của
buồng t́nh nguyện cỏng ông đưa xuống trạm xá, cách buồng giam độ
500 thước, nhưng đường đi không bằng phẳng. Thường trực bịnh xá
trại là một ông bác sĩ của Sài G̣n cũ, cũng là tù cải tạo. Bác sĩ
tên Quưnh nhưng rất b́nh tỉnh v́ ngoài bản tính ra ông c̣n thêm
chứng mù mắt v́ bị cườm. Nhưng, v́ quá rành tŕnh độ kỹ thuật của
các đồng nghiệp cộng sản nên ông bác sĩ không đồng ư đi mổ mắt lấy
cườm ra v́ ông cho rằng:
- Để
chúng nó mỗ th́ cầm chắc là sẽ mù luôn!
Sáng
ngày ông tiến sĩ đă b́nh thường trở lại, nhưng bây giờ th́ ông
nh́n nhận là sức khỏe ông đă xuống nhiều. Hôm sau, ông trở về đội
sinh hoạt như thường. Nhưng vài tháng sau, cũng vào một buổi sáng,
đang đứng chờ cán bộ đến mở cửa để ra bên ngoài lao động và sinh
hoạt th́ ông lại xỉu lần nữa! Lần này nhẹ hơn, không cần gọi cứu
cấp, chỉ xoa bóp một hồi ông tỉnh lại. Từ đó trở đi sinh hoạt và
tinh thần ông suy giảm thấy rơ dù bề ngoài của ông lúc nào cũng
trầm tỉnh và thầm lặng.
Kế
tiếp là giai đoạn mới trong bịnh t́nh của ông tiến sĩ. Da mặt ông
bắt đầu bị dị ứng mà mọi thứ thuốc ông có trong hành trang đều
không đem lại hiệu quả ǵ hết. Ông áp dụng đủ mọi phương thức chữa
bịnh "dân tộc" rất thịnh hành và đầy tính chất thời thượng trong
xă hội Việt Nam do cộng sản thống trị cũng như trong nhà tù, nơi
mà âu dược của thế giới văn minh là một sản phẩm khó vươn tới. Ông
ngồi thiền, ông tập phương pháp dưỡng sinh, ông trị bịnh bằng nước
lạnh, ông ăn cơm cháy thay cơm thường... Rồi cũng vô hiệu! Bịnh xá
trại chịu thua, đưa ông đi bịnh viện Phủ Lư giám định. Từ khi đi
Phủ Lư về, vốn đă ít nói ông lại càng ít nói hơn nữa nhưng dung
nhan đượm nét ưu tư. Ông chỉ sống âm thầm như một cái bóng trong
đội, trong buồng. Tôn trọng nếp sống riêng tư của ông - một con
người mà anh em trong đội, trong buồng ai ai cũng kính mến - bạn
bè xung quanh theo dơi sinh hoạt của ông một cách tŕu mến mà
không ai dám xen vào. Thật ra th́ có xen vào cũng chẳng biết làm
ǵ hơn, ngoài một đôi lời an ủi xă giao. Có lúc ông lấy bleu de
méthylène thoa xanh cả mặt mày như muốn biểu lộ niềm phảng kháng
trong ḷng ông đối với cuộc đời đanh ác. Ông lấy công việc để quên
đi ngày tháng và thân phận.
Nhưng rồi căn bịnh của ông tiến sĩ lại bột phát theo một chiều
hướng khác và với một tiến độ đáng ngại vô cùng. Ở cổ ông một cục
bướu to bằng quả trứng xuất hiện ở bên phải và bụng ông lần hồi
căng thẳng như bị đầy hơi thường xuyên. Anh em trong đội khuyên
ông:
-
Hay là Anh Sáu xin trại đi nằm bịnh viện, chẳng lẽ để vậy chịu
sao?
Ông
mỉm cười, chẳng nói chẳng rằng, nhưng với một vài chỗ thân t́nh
th́ ông cho biết rằng bịnh của ông hiện nay không sao chữa trị
được, sống đành chịu, chết mang theo. Thế nhưng ông không tiết lộ
là bịnh ǵ. Mấy tuần sau th́ ông đành phải xuống bịnh xá của trại
để nằm, không phải để hy vọng chữa trị mà chỉ v́ không muốn để căn
bịnh của ông phiền hà anh em trong buồng. Lúc đầu ông c̣n đi về
giữa trạm xá và buồng giam. Mấy hôm sau th́ thôi, ông nằm luôn lại
trạm xá. Trại định đưa ông đi bịnh viện cấp cao hơn ở Phủ Lư,
nhưng hôm ông đi giám định ngoài đó, người ta đă cho ông biết rằng
Phủ Lư lẫn Hà Nội cũng không làm ǵ được, hơn nữa là cho một người
tù cải tạo! Ông xin được nằm ở trạm xá v́ ở đây c̣n có bạn bè chạy
tới chạy lui chăm nom săn sóc. Hơn nữa, nhân viên phục vụ ở trạm
xá cũng là anh em tù cải tạo, dễ thông cảm nhau. Dù sao giữa những
người bị coi là "ngụy quân, ngụy quyền" c̣n có t́nh cảm hơn là
phải nằm ở bịnh viện thị xă để chịu sự "chăm sóc" hằn học và đầy
căm thù của gă tù h́nh sự được "bố trí" ở bịnh viện để "nuôi bịnh"
cho tù.
Những ngày đầu, ông tiến sĩ c̣n ăn được chút cơm, chút cháo. Có
hôm ông ngỏ ư muốn ăn một miếng sườn nướng, nhưng anh em làm xong
đem đến th́ ông cũng chỉ nh́n nhiều hơn ăn. Vài tuần lễ sau, ông
tiến sĩ bắt đầu bước sang giai đoạn mơ mơ màng màng, lúc tỉnh lúc
mê. May mắn thay, trong thời gian này có cô em của người bạn đồng
hao với ông ra trại thăm anh cô và có xin thăm luôn ông tiến sĩ.
Nhân cơ hội, ông nhắn về thân nhân cho biết bịnh t́nh của ông.
Nhắn th́ nhắn, như một xảo thuật để tự an ủi ḿnh.
Với
cái vốn t́nh cảm mà ông đă tạo ra trong trại, ông được khá nhiều
người thương kẻ mến cho nên có một anh bạn tự nguyện xin trại cho
xuống bịnh xá để túc trực chăm sóc bên ông trong t́nh cảnh đó. Một
lời xin rất khó thỏa măn v́ như vậy đội lao động liên hệ sẽ mất đi
những "ngày công", điều mà chế độ coi như cấm kỵ v́ ngày công là
điểm thi đua. Nhưng, ở thời điểm bấy giờ sinh hoạt nhà tù cải tạo
đă nới lỏng rất nhiều nên sự tự nguyện của anh Trung đă có đáp ứng
thuận lợi. Thế là anh bèn ba lô và mền chiếu xuống trạm xá nằm
cùng buồng với ông tiến sĩ.
Nhưng, làm ǵ có thuốc nào chữa trị được căn bịnh của ông tiến sĩ,
một thứ bịnh mà bịnh xá trại nói riêng cho nhau biết là ung thư
gan! Thế là ông tiến sĩ đành can đảm nằm chờ v́ ông đă biết bịnh
ông từ ngày đi Phủ Lư về. Như là một hành động hy vọng cuối cùng,
ông nhờ "chui thơ" ra ngoài để gởi sang Pháp cho con gái ông xem
nền y khoa văn minh tiên tiến có phát minh cách chữa trị nào mới
trong những năm tháng gần đây để cứu vớt ông hay không? Không biết
thơ đó đi đâu nhưng thuốc men th́ không thấy đến mà hồi âm th́
cũng không. Chắc hẳn là ông tiến sĩ cũng thừa hiểu rằng làm ǵ có
thuốc chữa được bịnh của ông trong giai đoạn nguy kịch đó. Điều
mong muốn nhiều nhứt của ông là đọc được những tiếng nói của vợ
con cùng ông chia sẻ nỗi đau trong giây phút cuối cùng đời ông!
Đau ḷng trước cảnh quằn quại của ông để chiến đấu với cơn đau,
anh em bảo nhau là nên cho ông ngậm sâm để có sức chống chơi lại
mức độ hành hạ của căn bịnh và cũng để hy vọng ông tiếp nhận được
tiếng nói của nửa ṿng trái đất bên kia. Hy vọng khá hăo huyền
nhưng cũng là hy vọng, nhứt là đối với một con người đang chuẩn bị
trở về cùng cát bụi. Những lúc ngắn ngủi chiến thắng được cơn đau,
ông cố gắng tâm sự:"Ở đời đă khó, ở tù lại càng khó hơn!" Ông
không bao giờ đề cập đến khúc ngoặt sắp tới của cuộc đời ông mà
anh em tù cải tạo nghĩ rằng ông đă thấy, v́ trong khoảng thời gian
trước lúc ngă bịnh khoảng vài ba năm, ông rất say mê Phật giáo.
Ông có rất nhiều sinh hoạt chuyên đề với những thượng tọa, đại đức
tuyên úy Phật giáo cùng chung cảnh tù đày. Trung thực với bản tính
của chính ḿnh, ông tiến sĩ can đảm chịu đựng một cách thầm lặng
niềm đau nỗi khổ của thân tù tội, của t́nh cảm hời hợt cũng như
của căn bịnh ngặt nghèo.
Sáng
sớm hôm đó, như mọi sáng trong những ngày ông tiến sĩ nằm trạm xá,
sau khi "cửa chuồng" vừa mở, một số anh em trong đội vừa chạy thể
dục vừa ghé qua bịnh xá để thăm ông, qua một đêm chuyển biến bịnh
t́nh. Vừa đến nơi th́ anh em đă nghe tiếng khóc tiếc thương của
anh Trung, một tiếng khóc hiếm có của người tù cải tạo sau hơn
mười năm cay đắng mùi đời, đă gây niềm xúc động mạnh mẽ trong ḷng
người tiếp nhận và đă thê thảm nói lên lời ai tín đau buồn chưa
từng có bao giờ! Đứng trước giường người đă ra đi t́m cơi "tự do"
trong lao tù, anh em tù cải tạo đâm ra hụt hẫng, ngỡ ngàng và ngơ
ngác dù rằng sự vĩnh viễn ra đi là điều đă được tiên liệu. Từ lúc
nào, có lẽ từ khi ông tiến sĩ trút hơi thở cuối cùng hồi đêm, anh
Trung đă chít trên đầu chiếc khăn tang làm bằng miếng văi trắng xé
ở chiếc áo của ông tiến sĩ mà phần c̣n lại anh đă mặc vào cho ông
để làm y phục về nơi vĩnh cữu. Chân t́nh và thân ái là ở những cử
chỉ, những hành động bất thần như vậy! T́nh cảm xuất hiện trong
ṿng vách đá, tường vôi của chốn lao tù thật thiêng liêng, tuyệt
vời và trường cữu, dù chỉ là một cách đơn sơ, không màu mè! Ông
tiến sĩ đă vĩnh viễn ra đi khi trời hừng sáng, vào hiệp gà gáy
cuối cùng trong thời vũ trụ đang chuyển ḿnh vào đông.
Trong nháy mắt, tin ông tiến sĩ từ trần đă loan đi khắp trại. Quư
thầy tuyên úy Phật giáo đến đông đủ trước khi xuất trại đi lao
động, bên ngoài với tư cách bạn bè thăm nhau lần cuối khi có người
nhắm mắt xuôi tay, nhưng bên trong là để đọc kinh cầu nguyện cho
ông tiến sĩ. Thế rồi, đúng theo thủ tục của trại tù, cứ "bốn dài,
hai ngắn" (bốn tấm ván dài, hai tấm ván ngắn làm ḥm), thân xác bỏ
vào cùng với một ít quần áo tượng trưng. Thân ông hơi to, dù sau
hai tháng tàn phá của căn bịnh, khó lọt vào bề ngang của chiếc
"ḥm" nên hai tay ông bị dồn lên phía trên thân ḿnh. Trại gọi thợ
ảnh đến chụp h́nh ông tiến sĩ để đưa vào hồ sơ chứng minh với Bộ
Nội Vụ Hà Nội. Tấm ván làm "nấp áo quan" đậy lại, năm ba cây đinh
đóng vào thế là âm dương cách biệt! Tiếng búa đóng đinh sáng hôm
đó vang dội vào vách đá núi rừng san sát bên trại như c̣n măi măi
khuấy động tâm tư của anh em tù cải tạo trại Ba Sao!
|
"Chiếc xe tang" đưa ông tiến sĩ đến nơi yên nghỉ cuối cùng
hôm đó là hai gă tù h́nh sự và một cây đ̣n tre dài...
H́nh : Tác giả
tự minh họa. |
|
"Chiếc xe tang" đưa ông tiến sĩ đến nơi yên nghỉ cuối cùng hôm đó
là hai gă tù h́nh sự và một cây đ̣n tre dài. Hai nuộc dây hai đầu
ḥm, đ̣n tre xỏ vào, thế là hai anh tù trẻ lực lưỡng bon bon chạy
như bay lên đồi bên hông trại để rồi biến mất bên kia dốc núi. Cứ
như vậy mà tù cải tạo đi vào cơi thiên thu! Anh em tù cải tạo dù
cùng đội với ông tiến sĩ cũng không được phép đi theo "xe tang"
nên chỉ đứng bên trong ṿng rào khu giam bùi ngùi nh́n theo trong
khi mưa phùn cứ lất phất bay. "Chiếc xe tang hai ngựa" chở ông
tiến sĩ đă khuất dạng từ lâu, anh em tù cải tạo cứ măi thẩn thờ
đứng đó trong sân trại nh́n lên đỉnh đồi, đôi mắt đẫm ướt dơi theo
bóng h́nh của một con người đă về với "tự do" trước ḿnh. Ướt v́
hạt mưa phùn hay v́ nước mắt trong t́nh tử biệt sanh ly, trong
cảnh kẻ ở người đi? Ḷng tự hỏi ḷng ai đáng buồn mà ai đáng
thương đây? Một người đă nhẹ nhàng lơ lững như mây trắng lăng đăng
trời xanh về cơi vô biên và những người c̣n lại trong cảnh lao tù
chưa thấy đâu là lối thoát! Một làn mây trắng như chiếc khăn tang
vừa bao lấy đỉnh đồi đang nh́n xuống nấm mộ rồi đây sẽ trở thành
vô danh của ông tiến sĩ đă một thời oanh liệt chẳng may sụp lỗ
chân trâu!
Theo
ḷng tin của đông đảo quần chúng th́ ông tiến sĩ chết đi nhưng khá
linh thiêng. Khoảng một tháng sau ngày chôn cất, người nữ cán bộ y
tế của trại - tuy là cộng sản nhưng hiếm hoi c̣n giữ được tính
người đă thỉnh thoảng chăm sóc ông tiến sĩ trong những ngày ông
tạm trú ở trạm xá - thuật lại cho anh em tù cải tạo trong đội giấc
mơ kỳ lạ của bà. Bà thấy ông tiến sĩ đến thăm bà cùng với một đứa
bé đầu đội mâm xôi, tay xách con gà. Anh em tù giải thích giấc mơ
cho rằng ông tiến sĩ, với bản năng tốt đẹp của con người tư bản tự
do, biểu lộ ḷng biết ơn với một con người đă lo lắng cho ông và
khuyên bà cán bộ kia nên cúng vái ông tiến sĩ. Người nữ cán bộ tỏ
vẻ băn khoăn nhưng có yêu cầu:
-
Các anh làm giúp đi, tôi không quen thủ tục đó.
Chấp
nhận là dấu hiệu của giao động suy nghĩ. Một chuyển biến trong tâm
tư con người cộng sản sau một thời gian dài chung đụng với đám
"ngụy quân, ngụy quyền ác ôn côn đồ, ăn thịt người" chăng? "Gần
mực th́ đen, gần đèn th́ sáng", tù cải tạo không đen nhưng ánh
sáng của chân, thiện, mỹ lúc nào cũng dễ cảm hóa con người hơn, dù
là con người cộng sản.
Một
biểu hiện linh thiêng khác nữa của ông tiến sĩ là qua một người
bạn của ông ở ngoài đời thường. Người này rất ngoan đạo, đi chùa
thờ Phật hàng ngày. Một hôm bà mơ thấy ông tiến sĩ đến ngồi ở sân
chùa tỏ ư muốn có một bữa cơm sườn, mặc dù bà không hay biết
chuyện ông ấy có ước muốn đó trong trại qua những ngày đau ốm. Thế
là vào dịp "lễ trăm ngày" của ông, bà đă tổ chức một chiều tụng
niệm cầu xin ơn trên cứu rỗi cho linh hồn ông sớm siêu thoát.
Nửa
đường chiến đấu ngày xưa, bạn bè đă từng nằm xuống! Nửa đường tù
tội hôm nay bạn bè cũng nằm lại khá đông giữa núi rừng hoang du!
Cũng mồ, cũng mả đó nhưng rồi ngày mai, ngày kia, đố ai t́m ra
được? Quan niệm đơn giản của những con người sống trong thế giới
mà chúng ta hằng tha thiết là "sống cái nhà, chết cái mồ". Nhưng
mồ mả cho tù th́ ai đâu bỏ công để đào sâu chôn kỷ? Mồ mả của
những con người cộng sản c̣n bị coi chẳng ra ǵ nữa là mồ mả của
tù? Từ lúc ông tiến sĩ vĩnh viễn ra đi đến lúc giải thể trại Ba
Sao Nam Hà (1988), anh em tù cải tạo mong sao những ngôi mộ vùng
đó sớm được gia đ́nh bốc đi để khỏi tan biến sau này. Cho đến hôm
nay không biết thân xác của ông tiến sĩ cũng như của một số bạn bè
khác nữa đă như thế nào rồi?!
Thân
cát bụi th́ trở về cùng cát bụi, nhưng ư nghĩa cuộc đời đâu chỉ
giản dị như thế thôi. Anh Sáu Tiến Sĩ đă nằm lại Ba Sao nhưng đâu
phải lẽ bóng cô đơn v́ c̣n biết bao nhiêu con người khác nữa chưa
được ai kể lại. Thân phận những người nằm lại giữa đường lao lư đó
nhắc nhở cho những người c̣n lại hôm nay, ở quê nhà hay ở bốn biển
chân trời hải ngoại, nhớ rằng bằng mọi cách và với mọi giá phải
đưa vùng đất họ đang nằm trở về với Việt Nam tự do và nhân ái. Hài
cốt Mỹ về Mỹ th́ hài cốt của chiến sĩ tự do đầy nhân tính phải làm
cho đất nước được tự do và ấm t́nh người. Miền đất nơi đó các Anh,
những người tù cải tạo "bơ vơ", đang tạm thời gởi nắm xương tàn và
thân xác rồi đây sẽ là những thảo nguyên trăm hồng ngh́n tía đón
chờ tượng đài kỷ niệm mang tên rạng rỡ của các Anh. Đâu phải chỉ
có anh hùng và danh nhân mới làm nên lịch sử. Họ chỉ là những cái
tựa con, chính các Anh mới là nội dung đích thực của Lịch Sử dân
tộc.