Đời đời thắc mắc ...
Tại Sao và Tại Sao?
Le 30 Avril
1975, 8h30 du matin les parachutistes basés à l'aéroport de
Tan-so-nut opposent une résistance farouche aux regiments de
chars communiste. Ce fut le dernier combat de la guerre du
viet-nam.
H:
http://philippe.buffon.free.fr/indexvietnam.html
|
Miền đất tạm dung, một ngày đẹp trời, đất nước vào xuân, muôn hoa
đua nở, chim hót trên cành và dế mèn ca hát dưới thảm cỏ xanh. Ông
cháu nhà nọ đang dạo chơi trong công viên thì bỗng dưng người cháu
hỏi ông tại sao thế này, tại sao thế nọ, tại sao thế kia, tại sao
và tại sao, vô vàn tại sao. Tính hiếu kỳ của tuổi trẻ - con cháu
người tạm dung gốc Việt - cho thấy thế hệ kế thừa có nhiều thắc
mắc về thân phận của chính mình, của cha mẹ và của ông bà.
Tại sao ta có đất nước mà phải lang thang?
Tại sao đất nước này chẳng phải là quê hương ta?
Tại sao ta là người Việt mà chẳng phải dân Việt?
Tại sao ta không nên đem tài năng và trí tuệ về giúp ích đất nước
và đồng bào còn chậm tiến?
Tại sao... và còn nhiều tại sao hệ lụy khác nữa. Những tại sao
muốn đáp ứng được cũng khá gay go vì nguyên do của những thắc mắc
đó bắt nguồn từ những ngõ ngách chính trị, ngoại giao, quân sự và
xã hội rất là quanh co khúc khuỷu.
* * *
Có thể nói cái tại sao nguyên ủy của tất cả những cái tại sao tiếp
nối kế đó phải là Hiệp Định Ba-Lê, được ký kết ngày 27 tháng Giêng
1973, với tục danh dài dòng là: "Hiệp định chấm dứt chiến tranh và
tái lập hòa bình ở Việt Nam". Ngày nay, đọc lại một vài điều khoản
của hiệp định người ta sẽ phát hiện ra nhiều chuyện buồn cười đến
ngây ngô!
Chỗ khôi hài đầu tiên và đầy tính nguyên tắc là Sài Gòn không chịu
đặt chữ ký của mình bên cạnh chữ ký của chính phủ lâm thời cộng
hòa miền Nam, để nói với thiên hạ là, trước sao sau vậy, Sài Gòn
nhất định không công nhận chính phủ lâm thời cộng hòa miền Nam.
Thế nhưng, hình thức đâu có phủ nhận được nội dung!
Ngay điều khoản đầu tiên cũng đã ghi nhận rằng:
"Hoa Kỳ và tất cả những nước khác tôn trọng nền độc lập, thế chủ
quyền, sự thống nhất và tính nguyên vẹn lãnh thổ của Việt Nam, như
đã được Hiệp Định Genève 1954 về Việt Nam công nhận."
Thế nhưng, trên thực tế ai cũng biết rằng Hiệp Định Genève 1954
quy định có hai Việt Nam, bị ngăn đôi ở vỹ tuyến 17. Và còn nhiều
điều khoản nữa trong đó bốn phía hòa đàm đã long trọng cam kết đủ
thứ nhưng khi có vi phạm thì cũng cười trừ. Chỉ có nhân dân miền
Nam Việt Nam phải âm thầm lãnh đủ với vô vàn đau thương!
Một hiệp định như thế, đầy rẫy những từ lấp lửng nước đôi, mà cộng
sản muốn khai thác có lợi cho họ lúc nào cũng được, thế nhưng
người ta đã long trọng đặt bút ký vào! Thậm chí hai người chủ chốt
của hiệp định còn được tặng giải Nobel hòa bình?! Bởi vậy cho nên,
khi Mỹ bắt ép Sài Gòn ký tên vào, tổng thống Thiệu không chịu cũng
phải. Thế nhưng không chịu không có nghĩa là không ký, vì nhược
tiểu chịu ơn thì ngang ngạnh mà được à? Vã lại, còn bị áp lực nữa.
Khi tổng thống Nam Việt Nam không chịu ký văn bản đầu tiên hiệp
định Ba-Lê thì tổng thống Nixon lên cơn "Tarzan nổi giận" nói với
Kissinger:" Bắt ép cũng vô ích.
Để rồi xem
thằng cha ấy
(this son of a bitch) có chịu ký không." Thế rồi chuyện gì xảy ra,
ai ai cũng biết.
Sở dĩ
tổng thống
Thiệu chịu ký cái hiệp định trời đánh, thánh đâm - mà ông thường
khuyên báo chí
Sài Gòn
nên lớn tiếng tố cáo và mạnh tay viết trắng ra rằng đó là một văn
bản phản bội, một giao kèo của bọn ma mãnh lừa bịp, một bản án tử
hình, một sự đầu hàng - là vì có sự cam kết bí mật của Nixon, được
minh thị viết ra trên hai mươi bảy bức thư, vừa là bản chính, vừa
là điện thư do những nhà ngoại giao Mỹ trao lại. Đây là một hồ sơ
tối mật, một thứ vũ khí phòng thân được
tổng thống
Thiệu khư khư giữ kín và giữ kỹ trong phòng ngủ của
ông.
Ông Thiệu cho rằng những lời lẽ trong thư cũng như những lời tuyên
bố của Nixon còn nghiêm chỉnh và đáng tin tưởng hơn các điều khoản
trong hiệp định Ba-Lê. Khư khư như từ giữ oản, ông giữ riêng cho
ông, thậm chí những người thân cận nhất của ông cũng không được
biết trọn vẹn nội dung những thư đó. Ông cứ lấp la lấp lửng cho họ
biết rằng ông có bữu bối, đã được tổng thống Nixon cam kết, cứng
như đá, vững như đồng. Ông Thiệu thường đọc đi đọc lại những tờ
thư riêng tư mật kín đó và cứ yên tâm là Mỹ sẽ phản ứng mạnh và
thật tình nếu cộng sản Bắc Việt tấn công miền Nam trở lại. Thế
nhưng, sau biến cố Watergate, Nixon giả từ tòa Bạch Ốc rồi thì
những lời cam kết sắt đá kia bỗng trở thành những lời nói suông,
có giá trị lịch sử mà chẳng có quyền năng của mệnh lệnh! Vì tổng
thống Ford, người lâm thời kế nhiệm Nixon, đâu có cam kết gì. Nên
chi, chuyện đất trời Nam Việt Nam đảo lộn, sau khi đã lở lói ở Ban
Mê Thuột, để rồi biến thành cơn đại hồng thủy ba mươi tháng Tư sau
đó cũng là chuyện đương nhiên.
Ở đây có cái tại sao hơi khó hiểu là dù cho, vào năm 1975, khi
cộng sản vi phạm hiệp định một cách trắng trợn - tấn công Phước
Long, tiến chiếm Ban Mê Thuột và nhiều tỉnh miền Nam - và thậm chí
khi lên truyền hình chỉ trích Mỹ thậm tệ để từ chức, rồi tháo
chạy, tổng thống Thiệu cũng không chịu công khai hóa những bức thư
then chốt và cần thiết đó.
Vì sợ tiết lộ bí mật giữa hai người hay vì tư cách của một nguyên
thủ quốc gia hoặc vì không muốn đưa ra công khai những điều được
xem như là cần giữ kín chăng? Hay vì muốn bảo vệ sinh mạng cá
nhân, muốn tránh vết xe cũ của hai anh em tổng thống Diệm, vì e
rằng làm thế Mỹ không cho phương tiện để đưa ông ra khỏi nước Việt
Nam đang chìm xuống, vì sợ Hoa Kỳ sẽ không cho tạm cư chăng?
Cái tại sao này lôi theo cái tại sao khác. Bảy giờ sáng ngày đầu
năm dương lịch 1975, cộng quân lùa khoảng bốn mươi chiến xa T54 để
tấn công Phước Long. Ai ai cũng biết rằng quân Mặt Trận Giải Phóng
thì làm gì có tăng. Với một lực lượng xâm nhập như thế của Bắc
Việt, quân trú phòng làm sau mà chịu nổi nên Tướng Dư Quốc Đống,
tư lệnh QĐIII xin trung ương tăng viện nhưng không biết vì sao
tổng thống Thiệu bác đơn xin đổ quân thêm cho Phước Long.
Tướng Đống đâm đơn từ chức thì tổng thống Thiệu không chấp nhận.
Đây là một trường hợp vi phạm trầm trọng và trắng trợn hiệp định
Ba-Lê của phía cộng sản. Một vố đau về chính trị cho Nam Việt Nam
vì gần hai năm sau ngày ký hiệp định, đây là lần đầu tiên cộng sản
dám có hành động quân sự táo bạo, tiến chiếm một tỉnh, coi thường
dư luận quốc tế, hay ít ra cũng khinh thường những quốc gia có
liên hệ đến hiệp định. Với một vi phạm như thế mà mọi phe phía đều
bình chân như vại!
Sài Gòn thì lần lữa đắn đo, không quyết tâm tái chiếm, như đã từng
làm trước kia, mà chỉ có những biện pháp tiêu cực, nặng tính trình
diễn như: ra lệnh treo cờ rũ ba ngày, đóng cửa hộp đêm, vũ trường,
rạp hát, rạp chiếu bóng, cấm đá banh, cấm đua ngựa,... kể như là
cảm thông nỗi niềm đau khổ. Rồi hô hào biểu tình phản đối trước
trụ sở Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến (ICCS), một ủy ban bày
hàng, có cũng như không, đã tỏ ra bất lực một cách "dễ thương",
thậm chí không dàn xếp nổi một cuộc ngừng bắn để tải thương thường
dân! Một ủy ban thời bấy giờ dư luận cho rằng chẳng kiểm soát được
cái quái gì cả và cũng không canh chừng được ai. Thảo nào mà thời
đó, người Gia Nả Đại chơi chữ cho mấy mẫu tự ICCS có nghĩa là "I
can't
control
shit"
(tôi không kiểm soát được cái đếch gì hết). Còn dân chúng Việt Nam
thì cũng chơi chữ cho rằng "Im
chờ
coi
sao",
nghĩa là "đòi nứng, đỏi kê", đừng nói để coi.
Hoa Thịnh Đốn thì sống chết mặc bây, tiền thày bỏ túi. Kissinger -
"nhà ngoại giao đi đêm", "vua ngụy trang", "đồ đạo đức giả", một
con người đã được tổng thống Thiệu tặng cho bí danh là "thằng chó
đẻ" nhưng lại là một Nobel Hòa Bình nhờ chiến cuộc Việt Nam - họp
Nhóm Hành Động Đặc Biệt (Washington Special Action Group - WSAG)
để đấu láo chơi rồi "bỏ qua đi Tám"!
Năm 1975, trên phương diện tâm lý và một cách thực tiễn, Kissinger
đã xa rời với "thực tế Việt Nam" mấy nghìn năm ánh sáng. Sau khi
được tổng thống Thiệu tặng cho "danh hiệu" nặng nghìn cân đó,
Kissinger tuyên bố:"Thiên hạ chửi rủa tôi quá nặng, tôi sẽ không
bao giờ trở lại Sài Gòn nữa". Và ông đã thực sự xa lạ với Việt Nam
sau khi hiệp định Ba-Lê đã được ký kết! Còn tổng thống Ford, người
lâm thời kế tục Nixon, đâu muốn dính dáng gì nữa đến Việt Nam để
may ra hốt phiếu trong kỳ bầu cử tổng thống Hoa Kỳ sắp sửa diễn ra
trong năm đó.
Cứ theo cung cách như thế mà hiệp định Ba-Lê lần hồi trở thành
mảnh giấy lộn, miền Nam Việt Nam bị bắt nạt không thôi trong khi
cộng sản Bắc Việt thì chơi ngông, giành dân lấn đất, vừa ăn cướp
vừa la làng. Nên chi, cái tại sao đó không ai chịu trách nhiệm trả
lời, âm thầm đùn qua đẩy lại quá lâu để cho "cứt trâu hóa bùn"!
Sau trận đánh Phước Long để dọ đường, thăm dò và nhờ chó dắt nên
đạt được thắng lợi, lại không gặp phản ứng gì của Mỹ và của cả
những nước liên hệ đến hiệp định, cộng sản bèn có ý định thừa
thắng xông lên. Sau một phiên họp lâu dài từ ngày 18 tháng Chạp
1974 đến ngày 8 tháng Giêng 1975 - và được kéo dài hơn nữa sau khi
Phước Long thất thủ - bộ chính trị Hà Nội dựng lên một phương án
hành động chiến lược cho hai năm 1975 và 1976, nhằm vào Nam Việt
Nam qua chiến thuật "ba mũi giáp công", chính trị, ngoại giao và
quân sự. Qua một thời gian giằn co giữa hai quan niệm chiến thuật
của Văn Tiến Dũng và Trần Văn Trà, mãi đến hạ tuần tháng Giêng
1975, Lê Duẫn mới dứt khoát chấp thuận đề nghị của Trà và Phạm
Hùng, cho mở mặt trận Ban Mê Thuột với sự giám sát chính trị tối
cao của Lê Đức Thọ. Một con người chia đôi giải Nobel Hòa Bình với
Kissinger mà không chịu nhận, phải chăng vì có chủ tâm sẽ kéo dài
chiến tranh Việt Nam cho đến chiến thắng sau cùng?
Chuyện Ban Mê Thuột ai cũng biết không cần nói ra đây nữa. Nhưng
hậu quả của Ban Mê Thuột mới là đáng kể. Một địa điểm mất đi, dĩ
nhiên là trung ương Sài Gòn ra lệnh tái chiếm và tổng thống Thiệu
cũng không làm gì khác hơn. Muốn tái chiếm thì phải đổ thêm quân
nhưng tướng Phú đâu có được phương tiện mà cũng không có số quân
mong muốn nên Ban Mê Thuột chiến đấu không tới một ngày thì lọt
vào tay đối phương lúc 17g30 ngày 10 tháng Ba 1975. Ngày hôm sau,
tổng thống Thiệu mời đại tướng-thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đại
tướng-tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên, và trung tướng-cố vấn an
ninh của tổng thống Nguyễn Văn Quang, ăn sáng bàn chuyện đại sự,
"tái phối trí lực lượng" theo kiểu liệu cơm gắp mắm. Ông suy luận
theo kiểu toán học rằng trước kia Mỹ viện trợ một tỷ rưởi đô la
thì ta giữ được bốn vùng chiến thuật, nay còn bảy trăm triệu thì
ta chỉ giữ được vùng III và vùng IV thôi. Một lối lập luận theo
kiểu các bà nội trợ của những thầy thông ông phán ba cọc ba đồng.
Ông chủ trương là nên bảo vệ và tăng cường một nước "Việt Nam hữu
ích". Người ta cho rằng bỏ rơi lãnh thổ quốc gia như thế, tổng
thống Thiệu hy vọng gây được hai tác động tâm lý. Một là, làm cho
lập pháp Mỹ hoảng hốt, phải chuẩn chi tài khoản phụ trội để hành
pháp viện trợ cho Việt Nam. Hai là, quần chúng Nam Việt Nam sẽ
thức tĩnh mà chiến đấu hăng hơn. Còn điều lợi thứ ba, không nói
ra, là như vậy quân thiện chiến sẽ ở trong tầm tay của tổng thống,
ngăn ngừa được chuyện đảo chính, lúc bấy giờ đang được bàn tính
xôn xao.
Một vấn đề quan trọng như thế tại sao chỉ được thảo luận giữa bốn
người, trong đó có ba người mà cả Sài Gòn ai cũng biết là thuộc
loại con gật-hình nộm, có mặt để tán thành ý kiến của tổng thống.
Một thủ tướng ngậm miệng ăn tiền, một tổng tham mưu trưởng chuyên
ngồi thiền và "che dù" và một cố vấn an ninh theo đóm ăn tàn.
Ngoài ra, quyết định hy sinh một phần lãnh thổ đó, lãnh đạo Việt
Nam cũng không thèm cho Hoa Kỳ hay biết gì hết. Mỹ chỉ hay biết
khi sự việc đã xảy ra và qua phương tiện truyền thông. Lý do bảo
mật chiến lược chăng? Hay muốn tỏ rằng ta thật sự có chủ quyền?
Một quyết định xuất phát từ một cơn hờn dỗi và giận lẫy tất sẽ đem
lại kết quả tai hại vô cùng. Và, buồn cười thay, thậm chí nội các
chính phủ cũng chỉ biết quyết định quan trọng kia của bốn ông
tướng làm chính trị, theo cung cách của người dân ngoài đường phố,
nghĩa là qua đài phát thanh VOA và BBC.
Sáng ngày 14, cũng bốn nhân vật đó bay ra Cam Ranh để gặp mỗi một
mình tướng Phú. Ông Thiệu đưa ra chiến lược mới của ông, chiến
lược "đầu teo, đít to", nghĩa là nhẹ ở phía Bắc và nặng ở phía Nam
về quân sự. Quyết định tối hậu của "mật đàm Cam Ranh" là hy sinh
Pleiku và Kontum để cứu vãn Ban Mê Thuột, theo ý tổng thống Thiệu.
Nhưng theo ý tướng Phú thì mất Pleiku để cho tổng hành dinh của
ông tồn tại! Một quyết định xuất phát từ chỗ mỗi thành phần
"thượng đỉnh" hiểu theo ước muốn của mình. Ông Thiệu nghĩ rằng nếu
tái chiếm được Ban Mê Thuột thì Quân Đoàn II có thể trở về Pleiku
và Kontum, sau khi đã tạm thời "di tản chiến thuật". Một cuộc thảo
luận loạn xà ngầu và từ đó mỗi người lấy ý kiến của mình làm quyết
định. Ông Thiệu nghĩ rằng ông đã cho lệnh tướng Phú tái chiếm Ban
Mê Thuột, còn tướng Phú thì hiểu rằng đã có lệnh rời Pleiku và
Kontum. Nhưng có cứu được Ban Mê Thuột hay không, mọi người đều
biết và đã chịu đựng quá nhiều hậu quả.
Di tản một tỉnh và một quận đâu phải là chuyện dễ dàng như chuyện
dời quân của một đơn vị nhà binh vì ngoài công nhân viên chức còn
gia đình và đồ tế nhuyễn của riêng tư của họ nữa. Cho nên, để động
viên người phụ trách, tướng Phú lợi dụng tình thế, bắt chẹt tổng
thống thăng cấp sĩ quan phụ tá của ông, đại tá Tất, một sĩ quan
chưa từng chứng minh khả năng chỉ huy của mình, lên chuẩn tướng.
Đại tướng Viên không biết rành sĩ quan này, còn tổng thống Thiệu
thì do dự. Nhưng, vì tướng Phú là con gà của thủ tướng, còn ông tá
Tất là đàn em thân tín của tướng Phú và vì tình thế đòi hỏi nên
tổng thống Thiệu đành "thí một cặp sao bạc" vậy.
Tại sao phải thăng cấp trước khi hoàn thành nhiệm vụ giao phó? Để
cho đương sự hăng hái hơn chăng? Thì ra vì tướng Phú muốn có người
đứng ra làm cái bung xung khi ông biết cái khó khăn của việc di
tản cả Vùng II. Y như rằng tướng Tất chẳng làm được gì khi đã có
quyết định di tản trên con đường 7B, một con đường không được sử
dụng từ thời chiến tranh Đông Dương kỳ I. Chuyện di tản trên đường
7B vô cùng thê thảm và bi thương cho cánh quân đội và quần chúng
bị lùa vào đó, nhưng không ai nghe nói tướng Tất có quyết định gì!
Phải chăng vì "lạnh cẳng", cần bảo vệ hai sao bạc mới toanh hay
bận lo di tản gia đình?
Mà tại sao lại chọn đường 7B để di tản dân quân Vùng II một cách ồ
ạt như vậy chớ? Ngõ di tản tốt nhất là đường 9, nối liền
Pleiku-Qui Nhơn, nhưng tiếc thay đã bị cộng sản khống chế bằng mọi
phương tiện chiến tranh. Cho nên tướng Phú, viện cớ là cộng sản
không quan tâm tới con đường liên tỉnh 7B nối liền Pleiku-Tuy Hòa,
đã chọn con đường này. Cũng là một điều bất ngờ cho cộng quân,
nhưng được bao lâu? Thế nhưng, trước khi đưa người và chiến cụ vào
con đường loang lỗ đầy "ổ voi" và lầy lội bất khả dụng này, bộ chỉ
huy lại không cho thám sát đầy đủ. Đường hư hỏng bê bết, cầu sập
nhiều nơi nên chiến xa không tiến được và công binh phải mất nhiều
thời gian để sửa chữa.
Trong chiến tranh và trong chỉ huy, tiên liệu là chuyện phải nghĩ
đến. Cứ tin chắc rằng cộng sản không biết quân ta sử dụng đường 7B
nên đoàn quân, cán, chính và thường dân Vùng II cứ phom phom đường
ta, ta cứ đi. Cứ nghĩ rằng địch cũng quan niệm như ta cho nên Văn
Tiến Dũng quả thật đã bị bất ngờ sau khi các quốc lộ 19, 14 và 21
đã bị cộng sản cắt đứt.
hế nhưng 48 giờ sau thì Dũng hay tin QĐ II đã di tản trên đường
7B. Đùng đùng nổi giận, Dũng quát tháo tướng Kim Tuấn, tư lệnh sư
đoàn 320 và quy trách nhiệm cho ông này nếu như QĐ II vuột thoát.
Để sửa sai, Dũng ra lệnh cho sư đoàn 320 và 968 tiến nhanh về
hướng đường 7B để chận đánh đoàn di tản. Một cuộc triệt thoái thảm
khốc chưa từng thấy, được Polgar, trưởng lưới CIA Mỹ tại Sài Gòn,
cho là "như cuộc trình diễn của một đoàn xiệc đang lên cơn điên.
Đàn voi đi đầu còn các con thú khác thì theo sau và dẩm chân lên
phân voi", sau khi nghiên cứu không ảnh do phi cơ của Air America
chụp. Tại sao người ta lại khinh thường khả năng vận động chiến
của địch đến đổi không tiên liệu việc phòng vệ đoàn di tản và
những trận đánh trả các cuộc tấn công của cộng sản muốn ngăn chận
triệt thoái? Một lần triệt thoái với tổn thất nặng nề mà bộ Tổng
Tham Mưu cho biết là mất đi một thiết đoàn và bảy trung đoàn. Tổng
thống Thiệu đổ lỗi cho tướng Phú nói rằng ông không có cho lệnh
triệt thoái để rồi sau đó sửa sai là lẽ ra tư lệnh Vùng II phải
chuẩn bị di tản một cách chu đáo hơn. Cứ thày đổ bóng, bóng đổ
thày như thế nên những cái thắc mắc về sau không có câu giải đáp!
Clausewitz có viết:"Thua trận là nhân tố dẫn đến suy yếu và tan
rã. Nhu cầu cấp bách nhất là phải tập trung tư tưởng một cách có
trật tự, cũng như phải can đảm và tin tưởng trở lại". Tại sao các
tướng lãnh Nam Việt Nam, đội lớp chính trị, lại quên đi điều đó,
để cho đất nước phải chịu một ảnh hưởng dây chuyền tai hại về sau?
Vì không làm được như vậy nên các tỉnh lỵ và tỉnh duyên hải đua
nhau rơi rụng như lá vàng mùa thu gặp gió heo may! Trong đợt duyên
hải thất thủ dây chuyền đó không biết bao nhiêu cái tại sao không
đáp số để lại cho thế hệ kế thừa:
--
Tại sao trong khi QĐ I đang bị áp lực nặng nề của các sư đoàn
thiện chiến 325C, 324B, 304, 711, 2 và 341 - chưa kể những đơn vị
hỗn hợp chính quy và du kích - mà tổng thống Thiệu lại ra lệnh cho
tướng Trưởng phải trả nhảy dù và thủy quân lục chiến về vùng Sài
Gòn? Thế rồi lệnh lạc mâu thuẫn nhau, cái sau chưởi cha cái trước,
lệnh đi rồi lệnh về ngược lại, loạn xà ngầu giữa tổng thống, tổng
tham mưu trưởng và bộ tư lệnh QĐ I để cho cố đô Huế rơi vào vòng
tay cộng sản gọn ơ! Trong quyển sách "Tháng Tư Hung Bạo" (Cruel
Avril), Olivier Todd có viết:"Chưa có dữ liệu để đoan chắc là tổng
thống Thiệu chịu trách nhiệm trong các vụ mất Phước Long, Ban Mê
Thuột, kể cả cuộc triệt thoái thảm khốc Kontum và Pleiku. Nhưng,
nhất định là ông có tội trong việc mất Huế" (trang 186).
--
Huế mất rồi, Đà Nẳng, thị trấn to lớn nhất của duyên hải và nơi mà
QĐ I đóng tổng hành dinh, bắt đầu lung lai để rồi sau cùng cũng
lọt vào tay cộng sản. Là một danh tướng của quân lực Việt Nam Cộng
Hòa, tại sao ông Ngô Quang Trưởng không làm gì khá hơn tướng Phú,
thậm chí tình hình còn tồi tệ gắp bội? Không được di tản bằng trực
thăng như tướng Phú, ông phải bơi từ Đà Nẳng ra ca-nô mới được đưa
ra tàu lớn để "chạy" về Sài Gòn.
--
Đầu tháng Tư 1975, thành phố Nha Trang đang sống yên tĩnh trong
khi cơn bão quân sự đang hoành hành ở phía Bắc, bỗng dưng vào một
buổi sáng ông tỉnh trưởng ra lệnh cho tòa tỉnh đóng cửa nghỉ việc
mà không báo cho tướng Phú lẫn người Mỹ hay biết gì hết. Vào quá
ngọ, phát hiện ra hành động bỏ ngõ như vậy, tướng Phú gọi phi công
trực thăng riêng của ông và ra lệnh cất cánh. Thế là, một đồn mười
trong khi tinh thần đang căng thẳng và mang một ấn tượng "bỏ của,
chạy lấy người" đã đậm dấu ấn sau Pleiku, Kontum, Huế và Đà Nẳng,
thiên hạ ùn ùn tháo chạy dù chưa thấy bóng dáng một tên lính cộng
sản nào, vì bộ chỉ huy chiến dịch Bắc Việt quyết định tránh Nha
Trang, ra lệnh cho hai sư đoàn 316 và 320 tiến thẳng vào Cam Ranh.
Tại sao có sự khiếp sợ gì mà tai hại đến thế?
--
Trong một bữa dạ tiệc để "cám ơn" thủ tướng Khiêm - đã từ chức
theo ý muốn của tổng thống Thiệu - tại sao tổng thống lại có ý
nghĩ kỳ lạ khi chỉ ba sọc đỏ của quốc kỳ mà nói rằng:"Các ông thấy
không, tất cả đều do tiền định. Tôi không hiểu ai đã có sáng kiến
vẻ ba sọc đỏ trên cây cờ. Rồi đây sẽ có ba nước Việt Nam". Thế
nhưng, ý nghĩ đi trước có vẻ phản ảnh ước muốn cuối cùng của tổng
thống Thiệu - để may ra ông còn cai trị được một phần ba đất nước
- buồn thay, lại không thành hiện thực. Thay vì ba nước Việt Nam
thì, sau khi "trời đất nổi cơn gió bụi", chỉ còn có mỗi một Việt
Nam cộng sản mà thôi!
--
Tại sao, trong khi cộng sản vi phạm hiệp định một cách trắng trợn
như thế mà Hoa Kỳ vẫn cứ một mực tôn trọng những gì đã công khai
cam kết và phản đối với đầy đủ nghi thức ngoại giao và lễ nghĩa?
Phản ứng lại hành động côn đồ một cách lễ độ và xã giao thì chẳng
khác nào chấp nhận chuyện đã rồi. Đã thế mà phe gọi là thế giới tự
do còn o ép Việt Nam Cộng Hòa chiều theo những đòi hỏi của cộng
sản mà không có được bảo đảm là họ sẽ hài lòng. Buộc ông Thiệu từ
chức, giao lại cho ông Hương, rồi ép ông Hương trao "chiếc khăn
tay" lại cho đại tướng Dương Văn Minh để cuối cùng cộng sản hốt
trọn gói!
* * *
Đó là những cái "tại sao" trong vô vàn cái "tại sao" mà thế hệ di
tản buồn cũng như thế hệ sinh sống trên miền đất tạm dung - qua
hình thức này hay hình thức khác - không tài nào giải đáp được.
Những người may ra cung cấp được đáp số thì, buồn thay, cứ giữ mãi
trong đầu, sống để đó, chết mang theo, nay đã lần hồi khuất dạng
bên kia núi đồi và rừng cây bụi cỏ. Năm này, tháng nọ, ngày cũng
như đêm, canh cánh trong tâm tư những thắc mắc miên viễn như thế
nên người Việt nơi miền tạm dung cứ phải sống qua ngày đoạn tháng
một cuộc đời khắc khoải, trầm ngâm và mang một dáng đứng không
được trọn vẹn tự nhiên, không nhiều hứng khởi và không thấy ánh
sáng của bình minh trước mặt. Một kiếp sống với một hoài bảo tạm
bợ, với một viễn ảnh ảo và với một định hướng không tên!
Thì ra, cái gọi là "hiệp định chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa
bình ở Việt Nam" không chấm dứt được chiến tranh lại đưa nó lên
cao thêm một mức để thiết lập một "hòa bình kiểu cộng sản", trong
khi Hoa Kỳ bị hiệp định đó trói tay. Giá như hiệp định đó chỉ ràng
buộc Bắc Việt với Hoa Kỳ không thôi và trực tiếp đến những lợi ích
thiết thân của Hiệp Chúng Quốc, liệu Mỹ có chịu để yên cho cộng
sản lộng hành như thế không? Người ta - toàn là những bộ óc siêu
việt - đã bị thằng lưu manh lừa đảo chơi khăm mà chỉ được phản đối
qua loa lấy lệ. Chỉ có nhân dân miền Nam bị bắt buộc phải ngậm
đắng, nuốt cay mà gánh chịu thôi! Từ "tại sao" này liên miên đến
"tại sao" kia, Việt Nam Cộng Hòa đã bị bắt ép phải vĩnh viễn ra
đi, không một lời trăn trối. Hình dáng nhược tiểu ai nắn thế nào
mà chả được và đã tạo ra được thì, khi thấy không còn cần thiết
nữa, tiện tay vứt đi đâu khó khăn gì. Chỉ đáng buồn là thân phận
nhược tiểu đó lại lót đường làm hoen ố một thần tượng của Thế Giới
Tự Do!
Và, rồi đây, mai kia, mốt nọ, những thế hệ kế thừa của Iraq lại
tiếp tục có những câu hỏi "Tại sao" mà chẳng ai thèm trả lời! Buồn
thay cho thân phận của những con chốt trên bàn cờ quốc tế! Biết
được tại sao thì những cá nhân đã ra người thiên cổ.
Phan Quân |