Chiều nào
cũng vậy, cứ cơm nước xong là nó
vượt tường, nhảy sang khu A của tù cải
tạo, hết buồng này đến buồng nọ cho
tới lúc kẻng "vô chuồng" mới chịu trèo
trở về khu B của tù hình sự. Trước kia, khu
A và khu B trại Hà Tây cách nhau một khoảng sân rộng mà
đằng đầu là phòng trực trại có cửa
sổ nhìn ra sân. Dưới cái nhìn giám sát gần như
thường xuyên của cán bộ trực trại, tù
loại nào ở khu nấy không làm sao qua lại "liên
hệ linh tinh" được.
Từ lúc hai khu nằm lẫ
lộn trong thế "da beo" - vì khi Trung Quốc
tấn công biên giới phía Bắc, tù cải tạo bị đưa
về quá đông - nó bắt đầu leo tường sang
tiếp xúc với tù cải tạo, chủ yếu là
để mua bán đổi chác, một sinh hoạt mà
trại tuyệt đối không chấp nhận. Thế
nhưng, thói thường những gì bị cấm kỵ
rất được người ta phạm phải, nhất
là trong cõi tù đày. Như sức hấp dẫn của Trái
Cấm đối với "Người con gái đầu
tiên" trong vườn Địa Đàng vào buổi Sáng
Thế.
Cùng đi lao động bên ngoài
nhưng tù cải tạo luôn bị cảnh vệ canh
chừng gắt gao không thể liên lạc với dân chúng
quanh trại như tù hình sự được. Những
sự giao dịch như vậy rất cần thiết vì
nhờ đó thỉnh thoảng có thể mua thứ này,
vật nọ để cải tiến bữa ăn
với số tiền mặt chui giấu qua tiếp xúc
với gia đình đến thăm nuôi. Nhưng,
đối với tù hình sự thì những liên lạc
kiểu đó không bị cấm đoán. Do đó mà nó
mới có thể đóng một vai trò gạch nối
thiết yếu, dĩ nhiên là có lợi, giữa kẻ bán
và người mua.
Là một người tù
nhiều thâm niên lao lý - do đó quá quen thuộc với
trại - nó được bố trí vào công tác thu gom và tích
lũy phân Bắc, chất thảy của tù sau khi tiêu hóa.
Nhiệm vụ này của nó quan trọng, hàng thứ nhì trong
tiến trình trồng tỉa rau xanh của trại, vì cứ
theo câu thiệu của ngành canh tác, rất phổ biến
ở xã hội cộng sản là:"nhất nước,
nhì phân, tam cần, tứ giống".
Mỗi sáng, sau kẻng thức,
trực trại ưu tiên mở cửa buồng giam cho nó
ra lấy chiếc "xe cải tiến" đặc biệt
dành riêng, chở hai thùng thiếc to đi từng buồng
góp nhặt sản phẩm của các nhà vệ sinh. Sau
đó đem đổ vào một hố phân thiết
lập tại một khu vực đã bảo đảm
của trại, bên ngoài vòng rào và nằm giữa địa
bàn canh tác. Phải đặt hố phân đó vào một
nơi an toàn vì nếu không thì có thể bị mất
cắp!
Toàn trại có mười sáu
buồng giam, chưa kể những "biệt thự"
giam tù cấp tướng và loại tù phải canh giữ
đặc biệt, mỗi "biệt thự" năm
ba người. Do đó mỗi sáng nó phải đi ít
lắm từ bốn đến năm chuyến.
Ðược coi như là một loại tù không thể mà
cũng không cần trốn trại, nó làm công việc đó
một mình và từ sáng tinh mơ, trước khi các tổ
đội tù xuất trại đi lao động.
Lợi dụng tình hình, nó phát hiện
ra cung cách kinh tài theo kiểu những người đi buôn
đường dài, chuyến đi chuyến về
đều có hàng. Chở phân ra, nó đổ một
phần xuống hố, phần còn lại đổ vào "hộp
thơ chết" cho một nhà trồng rau xanh bí mật
đã thỏa hiệp trước. Hàng đi đổi
lấy hàng về, hôm trước nó đưa nhu cầu -
tổng hợp những mặt hàng của tù cải
tạo - ngày sau khách hàng, kiêm nhà buôn bí mật kia, sẽ giao
ở điểm hẹn nói trên, dĩ nhiên là thầm lén.
Giao phân xong, nó lấy hàng đã đặt đem vào bán
lại cho tù cải tạo.
Ðể có thể lọt qua
mắt kiểm soát của trực trại khi vào cổng,
nó đặt hàng hóa lượt vào bên trong những thùng
chứa phân, bên dưới lớp mạt cưa đem vào
trại phân phát cho các buồng lót thùng hứng phân ở
hố tiêu.
* * *
Từ công tác đó, nó mang bí danh
là "thằng Quang Phân", gọi tắt cho lịch sự
là "thằng Cu Pê», kết hợp danh tánh và chức
vụ của nó. Theo lời kể của "thằng Cu
Pê" - tin được hay không là chuyện khác - thì nó là
một bộ đội bị "lột áo" đi tù,
vì những tội từ "ăn cắp tài sản xã
hội chủ nghĩa" đến "giết
người để trấn lột", kể cả "hãm
hiếp phụ nữ trong các chiến dịch".
Nếu kiên trì thi hành cho bằng
được những bản án tổng hợp chồng
chất thì - nếu may ra còn sống sót - khi ra khỏi
trại tù nó sẽ khòm lưng chỏi gậy về quê,
để phũ phàng nhận thấy rằng nơi chôn
nhau cắt rốn của nó đã hoàn toàn xa lạ. Như
Từ Thức về trần sau thời gian du ngoạn cõi
Thiên Thai!
Trong bối cảnh như
vậy, nó đành coi nhà tù là môi trường sinh sống cho
cuộc đời. Gia đình nó không còn đủ kiên
nhẫn để chờ đợi mà cũng không có
khả năng để tiếp tế cho nó. Vì vậy
ngoài việc bám vào cơm trại, rau tù và nước
uống nhà lao, nó phải tự lực cánh sinh kiếm chút
tiền còm để đài thọ những nhu cầu
lẻ tẻ.
Như một hệ thống
tiếp liệu hữu ích và cần thiết đối
với tù cải tạo, có tiền túi lại cần dinh
dưỡng mà không thể mua bán với dân thường
ngoài trại, nó được khá nhiều người tù
cải tạo chiều chuộng và săn đón để
đặt hàng. Thậm chí một vài tù cải tạo còn
đẩy mạnh mức độ mua chuộc
đối tượng bằng cách nhận nó làm "nghĩa
tử", với hy vọng là "thằng con nuôi" kia
sẽ chiếu cố, dành ưu tiên cho hàng của mình, dù
rằng lúc nào cũng bị nó "chém đẹp"! Như
vậy là các "quan ta" vẫn chưa bỏ thói hư
tật xấu thời xa xưa, vì lề thói đó chẳng
khác nào một thứ lo lót hay hối lộ.
Một đứa con nuôi như
vậy, ở đời thường, chắc là các "quan
ngụy" ngày trước không thể và cũng không thèm
chấp nhận. Nhưng, trong cảnh tù đày, bị
miếng ăn khống chế, "các ngài" rất
bạo gan và cũng nổi máu liều quyết
định.
Tính khôn lỏi của con
người trật đời "bán trời không mời
Thiên Lôi" ở "thằng Cu Pê" đã dạy cho nó
xử sự như một kẻ hiền từ dễ
thương, lúc nào cũng xưng hô "ba, ba, con, con" rất
là dịu ngọt. Nó rất tâm lý trong cách chuyện trò, đối
đáp, biết được từ nào thông dụng
của tù cải tạo từ miền Nam ra là nó sử
dụng không chút đắn đo.
Trong giao dịch buôn bán này, nó còn
thêm được một cái lợi khác. Từ khi
được gia đình tiếp tế đầy
đủ, kể cả gạo ngon, một số tù cải
tạo chê phần cơm gạo mốc, tiêu chuẩn
của trại và đem tặng luôn cho nó. Nhiều hôm,
một mình nó mà nhận ba bốn phần cơm dư
thừa. "Thằng Cu Pê" bèn nảy sanh sáng kiến
làm ăn mới để kiếm phụ thu. Cơm mang
về, phần nó ăn, phần nó chia cho bọn "đầu
gấu" buồng giam của nó và phần còn lại thì
trao đổi với những tù hình sự thiếu đói
và háo ăn khác, lấy thuốc lào, lấy quần áo hay
những mặt hàng khác mà nó có thể đem đi bán
lại lấy tiền. Một loại "tư sản
mại bản" trong cõi tù đày!
Tuy nhiên theo đà thời gian,
hành tung của nó bị cán bộ trực trại bắt
được và muốn yên ổn làm ăn thì phải thu
xếp. Thay vì bị trừng phạt, tội lỗi
của nó được vun vén trong phạm vi hai
người. Người cán bộ cộng sản coi tù -
cũng đói rách không kém, nếu không muốn nói là tệ hơn
tù cải tạo - nên ông ta cũng học thói làm ăn
của "thằng Cu Pê".
* * *
Từ đó về sau, nó
phải tiếp nhận hàng của cán bộ trực
trại vào hệ thống "hậu cần" của
nó, dù đôi khi hàng của cán bộ cao giá hơn. Do đó,
giá thành của hàng nhập trại cao hơn trước
kia, khi hàng được thu thẳng từ người
dân. Nhưng, đó đâu phải là vấn đề
của nó vì chung cuộc thì người tiêu thụ ở
cuối đường dây, là tù cải tạo, phải
gánh chịu hết.
Công cuộc buôn bán làm ăn
như vậy tưởng đâu là êm xuôi, tốt
đẹp. Nhưng, trâu buộc ghét trâu ăn, bạn bè
cùng buồng theo dõi kín đáo, báo cáo lên cán bộ giáo dục
của trại. Một lần nữa nó áp dụng
phương pháp lót tay, thoa mỡ, nhưng không ăn thua gì.
Hơn nữa, dù được nó cầu cứu, lão cán
bộ trực trại cũng không dám can thiệp cho nó còn
đe dọa để cho nó không khai việc lão ta có dính
phần. Con người cộng sản là như thế cả.
Làm ăn thông suốt thì anh anh, em em, ngọt như đường
cát, mát như đường phèn. Trục trặc nghẽn
lối, chuyện ai người ấy lo. Ai chết mặc
ai, bốn mắt nhìn nhau, mặt lạnh như đồng.
Lần này "thằng Cu Pê"
đụng đầu vào vách đá, vì cán bộ giáo dục
lại kiêm bí thư chi bộ, thuộc loại trung kiên, vừa
hồng vừa chuyên, nên không sao chạy chọt
được. Thế là lần này nó đành chịu
lọt hầm sâu, cỡ hố bom B-52! Kết quả là nó
bị hạ tầng công tác, trở về tổ
đội đi lao động như những tù hình
sự khác.
Nhìn qua người thay thế "thằng
Cu Pê", dư luận trong trại tìm ra được
chẳng mấy khó khăn đáp số của tai biến
xảy đến cho nó. Kẻ thay thế nó không ai khác
hơn là tên hình sự vừa chuyển buồng sang mấy
hôm, bị những người trong buồng nghi là "ăng-ten"
cho trại. Tù hình sự trong buồng chưa có đủ
yếu tố xác quyết nên chưa tìm cách trừng trị
tội "chó săn" của nó thì công ăn việc làm
của "thằng Cu Pê" bị đổ bể.
Hơn nữa, theo gã "đầu gấu" của
buồng cho biết thì hắn ta là người cùng quê
với lão cán bộ giáo dục.
Ăn quen, nhịn không quen, "thằng
Cu Pê" thấy bức rức khó chịu lúc nào cũng
mưu đồ kiếm tiền hoặc tìm phương
tiện mua bán đổi chác. Nó vẫn quen thói vượt
tường sang các buồng khu A như trước
nhưng dĩ nhiên là nó chạm phải những thực
tế phũ phàng. Không còn công dụng nữa, quan hệ "nghĩa
tử/bố nuôi" lần hồi lợt phai rồi đứt
đoạn.
Năm thì mười họa nó
mới nhận được nắm cơm thừa
của "bố nuôi" và thỉnh thoảng lắm
mới xin được bi thuốc lào của những
khách hàng xưa cũ. Thấy bóng dáng nó ai cũng tìm cách
lảng tránh và nếu không né được thì phải
thận trọng canh chừng tài sản riêng tư của
mình vì tù hình sự nào cũng nhám tay, chủ yếu là chôm chĩa.
Không như trước kia chỉ
trèo tường vào lúc chiều để nhận
đặt hàng, nó bắt đầu sang khu A cả
những lúc nghỉ trưa kéo dài vào những ngày hè. Không có
mục đích gì rõ rệt, chỉ la cà, lang thang, tiếp
cận với những thái độ thờ ơ lạnh
lùng, nặng tính nghi ngờ, dè chừng vì, ở trại nào
cũng vậy, tù hình sự là một nguy cơ mà tù cải
tạo rất ngại, cần phải tránh xa.
Thuộc diện "cháu không
ngoan của Bác", bọn hình sự là những kẻ
đầu trộm đuôi cướp ngoài xã hội,
bị bắt nên phải vào "nằm ấp". Họ
thường choáng ngộp trước những của
cải vật chất, thực ra chẳng là gì hết,
của tù cải tạo khi họ đã quen với nếp
sống trơ trọi và cằn cỗi của xã hội xã
hội chủ nghĩa, mà tính "ưu việt" là
đêm ngủ không cần cày cửa, vì chẳng có gì
để bị mất cắp.
Tù hình sự thường quan
niệm rằng:"Của tôi là của tôi, của các anh
cũng là của tôi." Một quan niệm khi đã
được kết hợp với mối hận thù giai
cấp nữa thì họ chôm chĩa tài sản của tù
cải tạo một cách không nương tay!
* * *
Vào một ngày nắng ấm
giữa đông, nhân cơ hột tốt của một ngày
rực ánh mặt trời, những chiếc áo len nặng
mùi được tuông ra phơi để tẩy trùng theo
kiểu "giặt khô", chờ đến hết
đông mới có thể đem giặt giũ. Chỉ
một phút lơ đểnh thôi mà chiếc áo ấm
đẹp nhất trên sào phơi không cánh lại bay đi
đâu mất dù trời không gió! May mắn thay, khổ
chủ phát hiện được sự vắng mặt
của chiếc áo không bao lâu sau đó và báo ngay với
trực trại.
Người cán bộ, từng
có đi có lại sâu đậm với khổ chủ, khi
mấy thìa cà-phê, lúc dăm ba lạng trà móc câu Bắc Thái và
vài điếu thuốc có cán, đeo nhẫn hay vài con cá sặt
khô... nên rất sốt sắng phát lệnh truy tìm. Cán
bộ trực trại hiểu rất rõ những
đối tượng hình sự nhiều thành tích vì
mỗi lần trong trại có chuyện thì cũng chỉ ngần
ấy mặt thôi. Giống như cảnh sát ngoài đời
thường hay dung dưỡng bụi đời
để, khi cần, lập thành tích trổ tài bắt
kẻ cắp trong khu vực hành sự của mình, khi có
lịnh triệt để của thượng cấp.
Trước kẻng thức sau
giờ nghỉ trưa, lịnh cấm trại trăm
phần trăm khu B được ban hành. Buồng nào
ở buồng nấy, mọi đi lại đều
nghiêm ngặt cấm chỉ. Cán bộ trực trại và anh
tù cải tạo được chỉ định làm
nhiệm vụ trật tự khu A đi lùng sục
những chỗ khả nghi.
Vừa bước vào buồng
bị nghi ngờ, họ đã được ăng-ten
cơ sở ra hiệu cho biết chiếc áo len đang
nằm đâu và thủ phạm là ai. Họ đi ngay
đến chỗ nằm của một anh tù hình sự khai
bịnh nằm nhà, lật chiếu lên lôi chiếc áo ra và
người bịnh đành phải khai thật ai đã
đem giấu ở đó.
Thế là "thằng Cu Pê" phải
vào phòng kỷ luật và một thời gian sau bị
chuyển đi trại khác, nhân một cuộc "điều
quân" của tù hình sự để lấy chỗ
trống chứa tù cải tạo từ các trại
miền Thượng Du chuyển xuống phía Nam, khi "quân
bành trướng bá quyền Trung Quốc tiến công
miền biên giới phía Bắc nước ta", để
cho đàn em một bài học.
* * *
Vài năm sau, tù cải tạo Hà
Tây bị chuyển về Nam Hà trong đợt "chuyển
trại gom bi" đưa toàn thể tù cải tạo
về một trại duy nhất ở miền Bắc,
trại Ba Sao. Khoảng một tháng sau - không hiểu theo
tiêu chuẩn nào - một số đông đảo tù cải
tạo "được chọn" đưa về
các trại trong Nam.
Sau gần mười năm
hốt "ngụy quân ngụy quyền" đưa ra
cái nôi "dân chủ cộng hòa", rắp tâm tẩy não,
rửa hồn để gọi là dạy dỗ nên
người "lương thiện", theo ý muốn
của Hà Nội, và đồng thời khai thác sức lao
động rẻ mạt. Nhưng, buồn thay, cuối
cùng tính lại thu chẳng bù chi mà gánh nặng nuôi ăn thêm
chồng chất.
Mưu đồ lợi dụng
lực lượng "ngụy quân, ngụy quyền"
thế là đổ vỡ. Làm ăn thua lỗ, Hà Nội
đành phải trả "lũ ăn hại" về
nơi xuất xứ, giữ lại một số làm
tẩy để mặc cả với Hoa Kỳ, trong
đó thành phần chính là sĩ quan cấp tướng quân
lực Việt Nam Cộng Hòa.
Về trại Ba Sao
được mấy hôm thì người ta lại thấy
"thằng Cu Pê" lò dò sang khu tù cải tạo vì nó
biết được tù Hà Tây chuyển về nên xâm
nhập khu A để tìm "bố nuôi" của nó. Vào
thời điểm này công tác tẩy não "ngụy quân,
ngụy quyền" thấm mệt thấy rõ. Chớ
không như những năm đầu khi mà các cán bộ
giảng viên cứ thao thao bất tuyệt, lên mặt phát
ngôn:"Cải tạo các anh có được không?
Ðược lắm chứ! Ðảng đã làm là phải
được...".
Hơn nữa, kinh tế khó
khăn, chế độ cung cấp đã giảm đi
nên cán bộ quản lý tù bắt đầu kiếm sống,
lơ là nới rộng vòng tay kềm kẹp trong tinh
thần "dễ người, dễ ta" để móc
ngoặc kiếm chác với tù cải tạo, thậm chí cả
với tù hình sự. Do đó, kỷ luật trại Ba Sao
cũng lỏng lẻo, nhứt là đối với tù
cải tạo vì trại không sợ họ trốn nữa.
Thế nhưng, huy chương
nào cũng có mặt trái của nó, do chỗ bỏ ngỏ
các khu nên tù hình sự lan tràn tạo thêm nhiều nguy cơ
trộm cắp đáng ngại. Vì vậy sự giao
dịch giữa hai loại tù A và B không còn khăn khít
như thời trại Hà Tây vì lúc nào cũng phải
cảnh giác cao độ, đề phòng các "cháu ngoan
của Bác" chôm chĩa rất tài tình. Hơn nữa,
ở trại mới này việc tự túc cải tiến
chế độ ăn uống đã công khai
được trại chấp nhận vì trại cũng
mở quày hàng bán cho tù và cho phép tù dựng bếp cá nhân.
Trong tình hình đó, sự hiện diện không mong muốn
của tù hình sự là điều đáng ngại và khu A
tự ý ngăn cấm hình sự vào khu của mình.
* * *
Trại tù Ba Sao nằm trong lòng
một vùng đồi núi và rừng cây giữa Phủ Lý và
Thái Bình trong nội địa, trên đỉnh vòng cung
Vịnh Bắc Việt nên sẵn sàng hứng lấy
phần lớn những cơn bão từ số 1
đến số cuối cùng trong năm. Núi ở đây
thuộc loại núi đá vôi, độ đá không
đủ cứng, dễ bị xói mòn nên đa số
bị xẻ dọc xẻ ngang thành nhiều phiến
đá tai mèo dễ gãy đổ. Núi không được
nhiều đất bao phủ, cây cối chỉ xơ
rơ như mái đầu hói nhẵn thín, còn lại dăm
ba sợi tóc lưa thưa. Lao động chính của tù
ở trại là khai thác đá tu bổ các con
đường trong trại và cung cấp cho nhà máy sản
xuất vôi ở đầu dốc phía dưới, từ
thị xã Phủ Lý đi vào.
Vào mùa giông bão cuối hè sang thu
năm đó, trong một ngày đẹp nắng, cả
trại đang nỗ lực lấy đá tối đa
trong đợt thi đua chào mừng hai ngày lễ lớn,
Cách mạng tháng 8 và 2 tháng 9. Tưởng đã hết mùa
bão vì bấy giờ tên gọi cho bão đã lên đến
số 11, thế nhưng vào khoảng xế chiều,
một đám mây đen nghình nghịt nặng nề từ
hướng Ðông bay vào. Thế là giông to, gió giựt ào ào kéo
đến như một đoàn quân đang hăng hái xung
phong mà mục tiêu là trại Ba Sao. Không mấy lúc mà mưa
nặng hột đã ập xuống, đoàn tù lao
động mạnh ai nấy chạy tìm chỗ tránh
mưa.
Cơn mưa cứ thế tung
hoành, hòa nhịp cùng với từng cơn gió to hết
đợt này đến đợt khác. Một vài mái nhà
tranh ở dưới nương phía xa bị cơn
lốc cuốn đi lăn lóc trên cánh đồng như
những chiếc lá vàng bay sang tận bên này vùng lau sậy,
qua trên hai cây số khoảng cách. Gần nửa giờ
mưa giông mà nước trên trời cứ ầm ầm
trúc xuống lại còn có chiều hướng kéo dài.
Ðoàn tù nóng lòng, xôn xao vì căn
cứ theo "đồng hồ bụng" thì đã quá
tầm lao động buổi chiều. Họ đang ngó
quanh ngó quẩn tìm cảnh vệ xin phép rời hiện
trường lao động đội mưa kéo về
trại thì ầm một tiếng như bom nổ xa xa, hay
tiếng gầm bên kia núi. Nhưng không, vì toán tù hình sự
núp mưa dưới hốc đá, nơi phát ra tiếng
động, đổ xô chạy túa ra như đàn
kiến bị động. Phiến đá tai mèo làm mái che
mưa đã sập. Công an cảnh vệ vội vàng
chạy lại xem tình hình và ngay sau đó là lịnh tập
hợp tù "khẩn trương" để về
trại. Ðoàn tù vừa vào trại, cơn mưa bắt
đầu yếu lần để rồi tạnh hẳn
khi bóng tối đã phủ lên vùng lòng chảo Ba Sao.
* * *
Dư luận phối hợp
trong ngày hôm sau cho biết là vụ đá lở chiều qua
làm bị thương gần chục tù hình sự trong
đó có một người gánh nặng nhứt đang
nằm bịnh viện Phủ Lý. Tin tức nói rằng
nạn nhân chạy không thoát bị đá đè giữ
lại một cánh tay. Tảng đá khá to, sức
người dù đông mấy cũng không làm sao nâng lên
nổi, ngoại trừ vận dụng đến cần
trục cỡ lớn. Lấy đâu ra dụng cụ
loại đó ở giữa vùng núi rừng của
địa phương nặng về nông nghiệp này?
Trạm xá trại lấy xe
chạy cầu cứu bịnh viện Phủ Lý, một
bịnh viện thị xã nghèo nàn về phương
tiện lẫn nhân sự. Giải pháp tối ưu
cuối cùng là đành "bỏ của chạy lấy
người". Thiên hạ lăng xăng chạy đi
chạy lại mất hơn tiếng đồng hồ
trong khi nạn nhân, người ướt như gà bị
trấn nước, nằm dưới đá và
dưới mưa lạnh, rên la thảm thiết, trong tinh
thần "khắc phục"! Nạn nhân ngất
xỉu khi đoàn quân áo trắng ngã màu cháo lòng của
Phủ Lý đến nơi. Bịnh viện cũng không có
dụng cụ y khoa thích hợp nên đành vận dụng
cưa thợ mộc giải quyết khó khăn nghề
nghiệp! Tác dụng của thuốc gây tê mê không
đủ, nạn nhân đột nhiên bừng tỉnh vì
cơn đau, kêu la chói lói vang dội núi rừng!
Trời! Người ta đã
cưa cánh tay tụ máu sưng vù kia bỏ đi, như
cưa một cành cây! Thà bỏ cánh tay vô duyên kia mà cứu
được con người, "vốn quý của xã
hội xã hội chủ nghĩa"! Thật tuyệt
vời, phương pháp y khoa của một chế
độ anh hùng từng kháng Tây, dẹp Nhựt, chống
Mỹ và chận Tàu!!!
Hơn một tháng sau, nạn
nhân cũng sống còn và được trả về
trại Ba Sao. "Thằng Cu Pê" giờ đã trở
thành "Quang Cụt". Thiên hạ suy ra luận vào cho
đó là quả báo nhãn tiền, cánh tay ăn cắp sớm
muộn gì cũng phải bị chặt đi. Tin hoặc
không tin chớ không sao giải thích được điều
huyền bí đó.
Phan Quân
(Trích
"Cõi
Đời Vô Duyên")