Trước
khi vào chuyện.-
Qua một cuộc khủng hoảng nội các - vì một số ủy viên người miền
Nam từ chức để phản đối nạn kỳ thị Nam-Bắc - từ Ủy Viên Phủ Chủ
Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, ông Phong được bổ nhiệm làm Ủy
Viên Xã Hội. Vào giữa năm 1968, ông Phong từ chức Bộ Trưởng Xã Hội
(thay đổi danh xưng chức vụ vì thay đổi nội các), trong chánh phủ
Trần Văn Hương, và sẵn sàng chấp nhận hậu quả của quyết định đó.
Ông đang chờ lệnh gọi nhập ngũ thì một cơ hội mới lại đến với ông.
¤ ¤ ¤
Tôi chưa
kịp hình dung được sẽ bị động viên như thế nào thì, một lần nữa,
số mệnh lại giúp đỡ tôi, kỳ này qua Ðại Sứ Phạm Ðăng Lâm, một
người thân lâu đời của gia đình. Ông đến gặp tôi để bàn về một
diễn biến ngoại giao đang hình thành, mà lịch sử sau này gọi là
hòa đàm Ba Lê. Không giống như các nhân vật cấp cao khác trong
ngành công vụ của Sài Gòn đã đỡ đầu cho tôi, ông Lâm và tôi gần
như cùng một thế hệ và lúc nào ông cũng coi tôi như anh em ruột
thịt.
Ông
là công chức nổi tiếng và cột trụ của chế độ Sài Gòn, được huấn
luyện đầy đủ dưới chế độ thực dân Pháp, cũng giống như cha tôi.
Khôn ngoan và có kỷ luật, ông là người có danh tiếng trong lãnh
vực ngoại giao. Thực vậy, ông là tinh hoa của ngành ngoại giao, đã
từng phục vụ ở nhiều đẳng cấp trong Bộ Ngoại Giao Sài Gòn, là nơi
mà ông đã giữ chức vụ tổng thư ký trong nhiều năm. Ông cũng đã hơn
một lần giữ chức vụ bộ trưởng ngoại giao trong những cái gọi là
chính phủ dân sự Sài Gòn. Lần vừa qua tôi gặp ông là ở Thượng Ðỉnh
Manila 1966, khi ông làm Ðại Sứ cho Sài Gòn tại Phi Luật Tân.
Như mọi
người đều biết, hội đàm đã diễn ra giữa Hoa Thịnh Ðốn và Hà Nội
tại Ba Lê, nhưng ông Lâm cho tôi hay là sự việc diễn tiến rất
nhanh chóng, rồi đây Sài Gòn sẽ phải tham dự. Tổng Thống Thiệu yêu
cầu ông Lâm cầm đầu phái đoàn Sài Gòn trong giai đoạn chuẩn bị và
đồng thời đảm nhiệm chức vụ Tổng Lãnh Sự của Sài Gòn tại Ba Lê.
Qua các cuộc thảo luận ở cấp cao trong chính phủ, tên tuổi tôi đã
được đề nghị trong chức vụ phụ tá cho trưởng phái đoàn. Liệu tôi
có chịu nhận nhiệm vụ để giúp đỡ ông ấy một tay hay không?
Trái với
một bề ngoài nghiêm nghị, có một thân hình mảnh khảnh, cao ráo và
ăn diện sang trọng, Ðại Sứ Lâm lúc nào cũng có cách xử sự trầm
tĩnh nhưng lại có óc khôi hài phi thường. Ở chỗ riêng tư cùng với
bạn bè, ông có thể vui đùa thoải mái. Ông và tôi thường đùa cợt
thỏa thích. Thậm chí ông cũng có cách để cười đùa được trong khi
bàn về hòa đàm sắp tới ở Ba Lê, dù cho sự kiện lịch sử đó mang một
bản sắc nghiêm trang.
Ông Lâm
nói tiếng Pháp lưu loát, với một phong cách tao nhã và khi mở đầu
câu chuyện ông cho tôi biết rằng công việc chủ yếu là một vụ đối
thoại của những người điếc. Liên tưởng đến nội dung "câu chuyện
huyền thoại về hai thành phố", tôi cho ông biết là từ nay chúng
mình lại có "câu chuyện huyền thoại về ba thành phố" - Hoa Thịnh
Ðốn, Hà Nội và Sài Gòn. Vốn là con người thích nói năng chính xác,
ông Lâm lập tức nói thêm "Bốn người điếc chớ", vì ông cho rằng
chắc chắn Bà Bình sẽ có chỗ ngồi ở chiếc bàn của những người không
thèm nghe, dù cho ông Thiệu có thích hay không.
Cuộc đàm
đạo đưa chúng tôi tới cái thế giới buồn cười của những chuyện
hoang đường và thực tế, của những hình thế chính trị phi lý. Sẽ có
ba nhà chính trị Việt Nam, một thời đối chọi nhau về quan điểm,
cùng ngồi vào chiếc bàn hội đàm Ba Lê với một người Mỹ, có thể là
người duy nhất thiết tha để tìm cho được - hết sức cần có được thì
đúng hơn - một thỏa hiệp để gỡ rối cho cả nước Hoa Kỳ thoát khỏi
thời đại thê lương ở Việt Nam, đồng thời vẫn tạo điều kiện cho
những người anh em thù nghịch vui sống mãi mãi sau này. Y như
rằng, một câu chuyện thần kỳ.
Ông Lâm
và tôi nhất quyết cho rằng Hà Nội chẳng có gì để điều đình cả, vì
điều kiện tiên quyết của họ là Hoa Kỳ hoàn toàn chấm dứt can thiệp
vào Việt Nam và loại bỏ toàn bộ chế độ chống cộng ở Sài Gòn. Còn
ông Thiệu và phe quân sự thì không có cách nào khác hơn là bám lấy
việc Mỹ tiếp tục can thiệp và việc duy trì chính phủ chống cộng ở
Nam Việt Nam. Thật là một mớ bòng bong đầy cố chấp nan giải mà về
sau Henry Kissinger phải tìm cách tháo gỡ. Ông Lâm và tôi kết luận
rằng nhiệm vụ của chúng tôi ở Ba Lê sẽ không mấy vất vả vì những
cuộc điều đình thực sự - cũng là chuyện đau đầu cho ông Thiệu - là
phải xử sự với Hoa Thịnh Ðốn chớ không phải với Hà Nội. Bàn rộng
tán dài xong, ông Lâm và tôi có được may mắn là lại cùng chung
gánh nặng lần đầu tiên kể từ Thượng Ðỉnh Manila 1966.
Phái
đoàn Sài Gòn, kể cả Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ và phu nhân, đến
Ba Lê ngày 8 tháng Mười Hai 1968. Hoa Kỳ đã nói chuyện riêng với
Hà Nội từ tháng Ba, và nói chuyện chính thức từ tháng Năm. Cuối
cùng, Hà Nội lẫn Hoa Thịnh Ðốn đã thỏa thuận cho Bà Bình tham dự
các phiên họp chính thức, tương đối công khai, song song với những
cuộc thương thuyết riêng, với điều kiện là Tổng Thống Thiệu cũng
được đối xử như Bà Bình. Ngay sau khi Bà Bình được xuất hiện tại
bàn hội nghị, Hà Nội chẳng còn quan tâm đến số thân hữu trên toàn
Thế Giới Tự Do mà Hoa Kỳ muốn đưa tới Khách Sạn Majestic sang
trọng ở Ba Lê, được đặt tên mới là Trung Tâm Hội Nghị Quốc Tế.
Trên một
nghìn nhà báo, từ khắp nơi trên thế giới, kéo đến Ba Lê để săn tin
hòa đàm và mọi người đều có nhiều hy vọng về một cuộc dàn xếp qua
thương thuyết - ngoại trừ những người được phái đến để thương
thuyết. Ông Lâm và tôi không nuôi ảo tưởng khi chúng tôi bắt tay
vào những phiên họp quái gở "hai bên mà bốn phe" đó, ngồi quanh
một cái bàn được tính toán cẩn thận với đường kính là tám thước.
Thương thuyết cứ kéo dài lê thê, lâu trên bốn năm.
Kích cỡ
và hình dáng bàn họp của hòa đàm Ba Lê về Việt Nam được thiên hạ
biết đến rất nhiều. Ông Thiệu nhất định đòi Hoa Thịnh Ðốn phải cho
thực hiện "một hội nghị hai bên", một lập trường hợp lý đối với
một cuộc chiến tranh giữa hai lực lượng đối nghịch. Mục đích của
ông là nhằm loại bỏ Bà Bình với cái Mặt Trận Giải Phóng của bà.
Trái lại, Hà Nội nhất quyết cho rằng rõ ràng là có bốn thành phần
tham dự hội nghị và như thế họ sẽ đạt được điều họ mong muốn là
công nhận Bà Bình về mặt chính trị.
Thế
là những cuộc thảo luận sôi nổi về hình dáng cái bàn kéo dài hàng
mấy tháng. Hầu hết các nhà quan sát thời cuộc đều ngao ngán cho
tính phi lý của
vấn
đề.
Hòa đàm Ba Lê để tìm ra một giải pháp ôn hòa cho một cuộc chiến
tranh đẫm máu không thể bắt đầu được vì chính những người tham dự
không thỏa thuận được hình dáng của cái bàn mà họ sẽ ngồi vào. Tôi
không nghĩ là các đại sứ Harriman và Vance quan tâm mấy đến hình
dáng của vật trang trí phiền phức đó và sẽ vui lòng chịu ngồi xếp
bằng dưới đất, nếu như ai ai cũng thật sự quan tâm đến chuyện
thương thuyết nghiêm chỉnh để tìm hòa bình. Muốn cho ông Thiệu hài
lòng, Tổng Thống Johnson tán thành luận điểm của ông về hội nghị
hai bên về hình thức (cái bàn). Còn về phần nội dung (thỏa hiệp)
thì đó là chuyện hoàn toàn khác biệt, vào lúc cuối cùng.
Chuyện
bàn cãi về cái bàn làm cho những người có thiện chí và các quan
sát viên trung lập đưa ra đủ thứ đề nghị. Trong tinh thần hòa bình
và hợp tác, một vài người đưa ra ý kiến là nên ngồi một phía của
cái bàn để những người tham dự có thể túm tụm lại với nhau cho ấm
trong những ngày giá lạnh của mùa đông Ba Lê. Qua cách sắp xếp
này, tất cả đều có thể nhìn vào một tấm gương trang trí to lớn -
một quà tặng của Mẫu Quốc Pháp tại Ðông Dương trước đây - treo
trong phòng. Như thế, mọi người sẽ có bóng mình trong gương, coi
như có phần ở một mặt của hòa bình, mà còn được đối thoại với nhau
qua tấm gương. Những người khác thì gợi ý nên cung cấp cho mỗi đại
biểu một bộ bàn ghế cá nhân, giống như bàn học sinh nhưng có bánh
xe, như thế người nào cũng có thể tự do chạy ngược xuôi khắp phòng
họp để nói chuyện với nhau. Như vậy sẽ làm cho hòa đàm tiến triển
thật sự. Ý kiến hấp dẫn hơn hết xuất phát từ những người đề nghị
rằng đơn giản nhất là nên tổ chức một chầu ăn uống đứng và la cà
với nhau trên thảm cỏ xanh nhân tạo, trong phòng hội sang trọng
kiểu Louis XV - với thịt nguội và rượu vang Beaujolais mới ra lò,
một ý kiến của phe tiết kiệm, hay là theo ý kiến của khuynh hướng
thanh lịch, thì với thức ăn khai vị, sâm banh và áo quần dạ tiệc
sang trọng. Như thế sẽ gợi ý cho một mối thân hữu chân tình và một
điều khích lệ để đi tới hòa bình, tạo điều kiện cho mọi người cùng
có chung một tâm trạng đầy hương vị, cởi mở và phấn khởi.
Sau
khi bị bế tắc khá lâu, cuối cùng
vấn
đề
tế nhị đó cũng được giải quyết với sự giúp đỡ của Pháp và Liên Xô.
Bốn bên ngồi vào một chiếc bàn tròn rộng lớn (để thích ứng với sự
hiện diện của bốn phái đoàn qua một cung cách trung lập), đường
kính tám thước (để bảo đảm cho không một ai có thể bị thương nếu
người ta muốn ném vật gì đó vào nhau, như một trái dừa khô Việt
Nam hoặc quả bóng chày Mỹ), với hai chiếc bàn hình chữ nhựt nhỏ
đặt ở hai đầu đường kính dành cho thư ký (đúng ra là một món quà
rẻ tiền cho mối ám ảnh của Tổng Thống Thiệu về một cuộc họp hai
bên nhưng hoàn toàn vô ích đối với mọi người khác). Chiếc bàn được
phủ lên bằng một tấm nỉ mỏng màu xanh lá cây đậm giống như tấm bọc
bàn bi-da. Không được để cờ hay bảng tên và mọi người tham dự đều
uống một thứ nước khoáng trắng trong. Không có cung cấp cà-phê nên
không một ai có thể tìm cách chống lại cơn ngủ ngày thật khoan
khoái trong lễ đọc bài diễn văn đã soạn sẵn, một thủ tục dễ ghét
và đương nhiên có thể cứ dài lê thê, tuần này qua tuần khác, tháng
nọ sang tháng kia và năm này qua năm nọ.
Tôi được
cái đặc ân, mà ai cũng mong muốn, là người lên tiếng đầu tiên tại
phiên họp thứ nhất, có cả bốn phái đoàn tham dự một cách chính
thức. Sau tôi là Cyrus Vance, Bà Bình (MTGP) và Hà Văn Lâu (Hà
Nội), tại chiếc bàn tròn dễ nể. Trong phiên họp đầu tiên, không có
những bài diễn văn soạn sẵn và chỉ nhằm thông qua lần cuối cùng
những thủ tục hội họp. Nhưng hóa ra lại là lần đối thoại đầy ý
nghĩa duy nhất trong hòa đàm Ba Lê. Ðó là hình ảnh đầu tiên đầy
phấn khởi đối với báo chí thế giới và vô cùng hữu ích cho vị tổng
thống vừa mới đắc cử của Mỹ, Richard Nixon - người có nhiệm vụ
khẩn cấp là đề cử trưởng phái đoàn Hoa Kỳ tại hội đàm để thay thế
Averell Harriman, người của đảng Dân Chủ. Tấn tuồng vĩ đại đó, hạ
màn khoảng bốn năm sau, đã có một buổi diễn giáo đầu rực rỡ vào
ngày 25 tháng Giêng 1969, khi Ðại Sứ Cabot Lodge, một nhân vật cố
cựu có liên hệ đến Việt Nam, đến với hòa đàm.
Richard
Holbrooke (sau này làm đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc) đã có mặt
tại Ba Lê, làm việc với các đại sứ Averell Harriman và Cyrus
Vance, khi Hà Nội và Hoa Thịnh Ðốn đã thỏa thuận gặp nhau không
chính thức hồi tháng Ba và gặp chính thức hồi tháng Năm 1968.
Holbrook với tôi cùng lứa, vào khoảng thời gian đầu của lớp tuổi
ba mươi. Có điều đáng chú ý là ông nhận xét rằng tôi còn trẻ so
với chức vụ. Ðương nhiên rồi, vì hai ông Harriman và Vance là
những nhân vật nổi tiếng trong chính trị và ngoại giao quốc tế,
nhiều tuổi gấp đôi chúng tôi. Một vài ngày sau khi tới Ba Lê, tôi
có mặt cùng với ông Harriman và những người khác tại một cuộc tiếp
tân vào lúc các ký giả hỏi ông cựu thống đốc Nữu Ước về viễn ảnh
của một cuộc dàn xếp để chấm dứt chiến tranh. Ðáp lời, Harriman
đưa ra nhận xét:
- Theo
tôi nghĩ ông Phong là người có thể làm được việc này. Ðiều phải
làm là nhốt ông ta và Bà Bình vào một cái phòng, rồi khóa cửa lại,
ném chìa khóa đi, và chỉ khi nào họ tìm được giải pháp mới thả ra.
Tôi góp
ý ngay là tôi sẵn sàng hy sinh nhưng nên làm sao cho nhanh nhanh
vì tôi không đủ "hỏa lực" để chịu đựng kỷ thuật "trì hoãn chiến"
nổi tiếng của bà ta. Chalmer Roberts của tờ Washington Post cho
rằng cuộc trao đổi rất lý thú. Còn Ðại Sứ Lâm của Sài Gòn thì có
lúc bị Harriman ví như "con ếch độc hại", một biệt danh làm cho
Tổng Thống Thiệu vui thích và hài lòng, coi đó như là một nhận xét
cho thấy rằng đại sứ của ông ta tại hòa đàm Ba Lê chẳng khác nào
một loại vũ khí độc, theo tiêu chuẩn Mỹ, để đương đầu với kẻ thù.
Khi
Richard Nixon lên nắm quyền tổng thống Hoa Kỳ hồi tháng Giêng 1969
thì có một sự thay đổi các vai quan trọng tại hòa đàm Ba Lê, nhân
vật nổi tiếng thay thế con người lừng danh. Henry Cabot Lodge kế
tục Harriman hồi tháng Giêng 1969, nhưng vào tháng Mười Hai năm
đó, David K. E. Bruce, ở tuổi bảy mươi hai, nắm quyền lãnh đạo
phái đoàn Mỹ tại Ba Lê. Các phiên họp được cả bốn phái đoàn chuyên
cần tham dự, nhưng những lúc hào hứng nhất là những bữa ăn trưa
tuyệt vời do Bộ Ngoại Giao Pháp cung cấp hàng tuần. Trong khi đó,
có tiết lộ cho biết rằng các cuộc thương thuyết thực sự được tiến
hành qua mật đàm giữa Kissinger và Lê Ðức Thọ là những người đã
"đi đêm" với nhau ở Ba Lê từ ngày 21 tháng Hai 1970. Những phiên
họp mật của hai người, lúc tiến khi lùi, tiếp tục diễn ra mãi cho
đến ngày 23 tháng Giêng 1973.
Qua các
kỳ họp đầu tiên của họ tại Ba Lê, Thọ nhanh chóng vạch ra cho
Kissinger thấy một thực tế không bao giờ thay đổi là:"Ông đã thua
và chúng tôi đã thắng". Kissinger đâu cần Thọ nói cho ông điều đó
vì ông đã từng giảng dạy nguyên lý thắng bại trong du kích chiến
cho những học sinh của ông ở Harvard (phe tiến hành chiến tranh du
kích thắng nếu không thua, trong khi phe đối tượng của du kích
chiến thua trận nếu không thắng). Thọ và các đồng chí của ông đã
chịu đựng gian khổ không kể xiết, mấy mươi năm qua, để nói ra được
những lời đó nên ông đã không để lỡ cơ hội.
Một
mặt thì Hoa Kỳ tin tưởng rằng sức mạnh quân sự của họ có thể
thuyết phục Hà Nội từ bỏ cuộc đấu tranh. Trái lại, Hà Nội có một
nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều, nhưng một nhiệm vụ, vào lúc cuối
cùng, sẽ thành công, như David đã đánh bại Goliath. Chiến lược của
Hà Nội gồm có ba mặt: chính trị, quân sự và ngoại giao. Thứ nhất
là bộ phận chính trị kết hợp chủ nghĩa cộng sản với cao trào mãnh
liệt của tinh thần dân tộc trong nhân dân Việt Nam để chống lại sự
hiện diện của người ngoại quốc và của quân đội nước ngoài trên đất
nước họ. Bộ phận này coi cuộc tranh đấu của cộng sản như là một
hành động chống lại xâm lược của ngoại bang và cho nó mang đặc
tính của một cuộc chiến tranh giải phóng và tự vệ, huy động được
hậu thuẫn quần chúng cho một tinh thần chống Mỹ. Thứ hai là, bộ
phận quân sự kết hợp rất có hiệu quả cái gọi là "chiến tranh nhân
dân" để tự vệ và chiến thuật du kích, được điều phối một cách
chính xác với chiến tranh quy ước. Cuối cùng là bộ phận ngoại giao
dựa trên công tác huy động công luận thế giới, thay vì dựa vào
hành động của chính phủ, và dùng dư luận quốc tế đó chủ yếu đánh
vào công luận Hoa Kỳ. Thắng lợi của bộ phận này hiện rõ ở những
cuộc biểu tình phản chiến và mức độ chống đối chiến tranh ở Quốc
Hội Hoa Kỳ.
Cuộc
chiến Việt Nam sẽ còn được phân tích, nghiên cứu, mổ xẻ và viết ra
trong nhiều năm tới và lịch sử sẽ hòa hợp chuyện hoang đường với
thực tế. Nhưng một sự kiện nổi bật vẫn tồn tại cho thấy rằng mục
đích chính của Kissinger là chấm dứt hành động quá nặng nề của Hoa
Kỳ ở Việt Nam, nhưng chấm dứt trong danh dự. Hiệp Ðịnh Ba Lê đã
làm được điều đó cho Hoa Kỳ. Thế thì, điều gì đã sai quấy hồi mùa
xuân 1975 làm cho cấp lãnh đạo tại Hoa Kỳ phải nhục nhã đến vô
phương cứu chữa như vậy?
Con
đường vạn dậm và đau khổ để mưu tìm hòa bình cho Việt Nam tại Ba
Lê được Tổng Thống Johnson khởi công hồi tháng Ba 1968, được theo
đuổi trong một thời gian là bốn năm và được Tổng Thống Nixon kết
thúc hồi tháng Giêng 1973. Chiếc bàn tròn do Pháp và Liên Xô thiết
kế đã đem lại kết quả - cho Hà Nội và MTGP. Không phải là "hai
bên" mà cũng chẳng phải "bốn phe". Ý kiến của tôi về "câu chuyện
huyền thoại của ba thành phố" và ba người tham dự điếc đặc đâm ra
sát với thực tế hơn luận điệu "bốn thành phố" của ông Lâm. Lê Ðức
Thọ và Bà Bình nhất định hành xử theo tinh thần một người cho mọi
người và mọi người vì mỗi người. Hoa Thịnh Ðốn và Sài Gòn lẽ ra
phải cùng chung tư tưởng nhưng, rủi thay, hai nơi lại khác biệt
nhau một cách đau buồn.
Sau khi
Sài Gòn sụp đổ hồi tháng Tư 1975, Hà Nội và MTGP chẳng phải chờ
đợi gì lâu để biểu lộ ý muốn nhất trí của họ qua việc thống nhất
hai miền Nam Bắc hồi tháng Bảy 1976 dưới quyền cai trị của chế độ
cộng sản Hà Nội, sản sinh ra nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam. Tại hội đàm Ba Lê hồi đầu những năm 1970, Kissinger đã nhanh
chóng nhận thấy rằng ông Thiệu và ông chẳng khi nào đồng ý được
với nhau. Ðó là thái độ trong một chuyện tình dở dang. Những người
yêu thương nhau không thể làm tròn bổn phận đã được ghi trong một
câu châm ngôn bình dân và thâm thúy của Việt Nam:
Yêu nhau
thì tuy hai mà một,
Thương
nhau rồi tuy một mà hai.
Kissinger cố gắng hết sức mình để thông báo cho ông Thiệu những
diễn tiến của các cuộc mật đàm với Lê Ðức Thọ, nhưng ông sẽ không
có chút hy vọng nào thành công với Hà Nội nếu như ông cho Sài Gòn
biết hết mọi chi tiết éo le. Dĩ nhiên là muốn có cùng ý kiến như
nhau thì ông Thiệu phải suy nghĩ như Kissinger chứ không phải
Kissinger phải theo ý kiến của Thiệu. Dù sao đi nữa, làm cho ông
Thiệu vui lòng là nhiệm vụ của Nixon chứ không phải của Kissinger.
Lần duy
nhất Sài Gòn được trực tiếp nhúng tay vào việc soạn thảo Hiệp Ðịnh
Ba Lê là vào những vòng hội đàm sau rốt hồi giữa tháng Giêng 1973.
Vì những lý do mà chỉ có một mình ông hiểu, Kissinger cho ông Lâm
và tôi biết một vài điều khoản của cuộc thương thuyết. Ðó chỉ là
một vài điều khoản tế nhị còn lại cần được soạn thảo, trong số đó
có Ðiều 8c, liên hệ đến việc phóng thích tù chính trị thường dân
bị giam giữ ở Nam Việt Nam, và Ðiều 15, liên hệ đến khu phi quân
sự, đến việc có thể thống nhất và những mối liên hệ giữa Nam và
Bắc Việt Nam. Vì những
vấn
đề
này liên hệ đến Sài Gòn và rõ ràng là không dính líu gì đến Hoa
Thịnh Ðốn nên ông Lâm và tôi được mời họp với phái đoàn Hoa Kỳ và
được yêu cầu phác thảo những điều khoản liên hệ, sau khi đã được
trình bày tóm tắt về những phiên thảo luận gay go liên quan đến
các điều khoản này giữa Kissinger và Thọ.
Trên xe
trở về văn phòng, ông Lâm giao công việc này cho tôi vì tôi có mặt
trong phiên họp, có bàn chuyện đầy đủ về những
vấn
đề
liên hệ và khả năng Anh ngữ của tôi cũng đủ sức để hoàn thành công
tác mà không cần đến thông dịch viên. Công việc đó cần phải làm
trong vòng bí mật tối đa. Khoảng hai tiếng đồng hồ là tôi thảo
xong hai bản Anh văn lẫn Việt văn. Tôi liền trao bản thảo cho ông
Lâm vì Kissinger đang nôn nóng chờ, khi mà đương sự có chương
trình họp lại với Thọ vào buổi tối. Tôi đề nghị ông Lâm nên báo
cho Sài Gòn biết
vấn
đề
nhưng ông trả lời ngay là làm vậy chỉ gây ra phiền phức và mất thì
giờ. Ông Lâm dựa vào yếu tố rất ít thời giờ để có cớ không liên
lạc với Sài Gòn. Kissinger và Thọ chấp nhận phác thảo của tôi về
các Ðiều 8c và 15, không thay đổi dù là cái dấu hai chấm tôi đã sử
dụng. Ít ra Sài Gòn cũng được điều đó. Còn tốt hơn là chẳng có gì.
Trong
phiên họp kế tiếp cùng với phái đoàn chúng tôi, Kissinger vui đùa
than phiền rằng tôi đã tiết lộ tin liên quan đến khu phi quân sự
cho người bạn cố cựu của tôi là Joseph Kingsbury-Smith, phó chủ
tịch tập đoàn báo chí Hearst Group. Báo chí biết rõ rằng Kissinger
và Thọ đã đến giai đoạn cuối cùng của cuộc thương thuyết và chỉ
còn phải giải quyết một vài
vấn
đề
tế nhị nữa mà thôi. Các ký giả biết thỏa hiệp sắp được thành hình
nên tất cả đều muốn có tin đặc biệt và sốt dẻo. Họ rất chú tâm đến
câu chuyện liên quan đến khu phi quân sự. Liệu một khu như thế có
cấm ngặt được những sự di chuyển của lực lượng Bắc Việt không hay
lại dễ bị xâm nhập? Chuyện đó Kissinger và Thọ không quan tâm gì
mấy, nhưng trên lý thuyết,
vấn
đề
rất quan trọng đối với nền an ninh của chính phủ Sài Gòn. Ðáp lại
câu hỏi của các phóng viên, kể cả Kingsbury-Smith, tôi nói rằng
không ai muốn có một khu phi quân sự dễ dàng bị xâm nhập. Dĩ
nhiên, cái thứ khu quỷ quái đó đã bị xâm nhập hai mươi năm qua và
dù dễ bị xâm nhập hay không thì lực lượng của Hà Nội cũng chỉ cần
không đầy một tiếng đồng hồ là có thể triển khai được một vài sư
đoàn chính quy Bắc Việt qua ngang giới tuyến như họ đã từng làm
nhiều lần từ bao năm nay. Lẽ đương nhiên là, theo quan điểm chính
thức của Bắc Việt, họ không khi nào danh chính ngôn thuận đưa quân
đội của họ vào Nam mà đó chỉ là những người Việt Nam anh em vào
Nam để giúp đỡ bạn bè đồng hương. Thông thường thì
vấn
đề
rất phức tạp, không phải như các nhà báo nhận thấy, nhưng lúc bấy
giờ họ thích nghe câu chuyện đó.
Hoa
Thịnh Ðốn và Hà Nội, Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh đã thỏa thuận với
nhau là sự hiện diện của quân lính Bắc Việt ở Nam Việt Nam sẽ
không được đề cập đến. Họ sẽ ở lại Nam Việt Nam, thế thôi. Phải
mất nhiều thời gian, nếu không muốn nói là ngớ ngẩn, mới nhận ra
và phân biệt được một người Bắc với một người Nam qua dung nhan
người Việt của họ. Tại một trong những phiên mật đàm, ông bộ
trưởng Xuân Thủy của Hà Nội đề nghị với Kissinger nên họp riêng
với một người Nam Việt Nam đích thực và chính cống là Bà Bình. Bộ
trưởng Xuân Thủy, cũng là một thi sĩ Bắc Việt nổi tiếng, quả quyết
rằng "ngài tiến sĩ" sẽ thấy người phụ nữ kia rất khả ái. Kissinger
từ chối một cách lịch sự, nói rằng ông sợ Bà ta khiếp vía kinh
hồn. Khi Xuân Thủy bảo đảm Kissinger là Bà Bình sẽ "rất mềm dịu"
với ông thì ông tiến sĩ đáp rằng, theo quan điểm nghề nghiệp thì
Bà ta "rất khó nhá". Nếu tôi không lầm thì mưu toan môi giới đó
xảy ra vào mùa xuân thơ mộng của Ba Lê năm 1971.
Một lần
nữa, ông Lâm và tôi lại có dịp vui đùa bàn ra tán vào về tình tiết
câu chuyện. Vì Kissinger nổi tiếng là con người quyến rủ nên câu
chuyện vui thú của chúng tôi càng thêm phần hấp dẫn. Nhưng nói cho
đúng ra thì ông cựu giáo sư trường Harvard đã từng sống qua bao
nhiêu ngày tươi đẹp trong cuộc đời lý thú thì Bà Bình đâu có thể
là niềm hứng thú của ông, về chính trị hay vì lý do nào khác.
Không khi nào ông tỏ vẻ gì ve vãn Bà Bình về chính trị. Thế nhưng,
Tổng Thống Thiệu lại bị "con ác quỷ xanh" (Thành ngữ mà
Shakespeare dùng để ám chỉ và nói về nạn ghen tương) - theo cách
nói của những người học đòi Shakespeare - giày vò quá đỗi vì ai
cũng biết rằng, trong ghen tương, sướng nhất là nên lặng lẽ năm
nghi mười ngờ hơn là nhận thấy được rõ sự thật phũ phàng.
(Kỳ tới:
Học với tập)
Phan Quân
(Trích dịch)