Mùa hè năm 1954, tôi gặp
chàng phi công đó ở một khóa đào tạo hổn hợp hoa tiêu và vô tuyến du
hành để trở thành phi hành đoàn oanh tạc.
Các hoa tiêu vừa tốt nghiệp trường bay Marrakech (Maroc) và những vô
tuyến du hành vừa tốt nghiệp trường viễn thông BET-724 ở Fez (Maroc)
được đưa đến căn cứ không quân Pháp ở Blida (Algérie) để thực tập ném
bom trên phi cơ Marcel Dassault.
Blida bấy
giờ là một thị trấn nhỏ (lối 50.000 dân) cách thủ đô Alger khoảng 50cs
về phía Tây-Nam. Căn cứ này nằm giữa một vùng đồng ruộng thuộc một
thôn làng hẻo lánh. Sinh hoạt buôn bán không thấy có ǵ, ngoài một
quán nhỏ bán rượu, thuốc lá và kẹo bánh linh tinh, chủ yếu để bán cho
những người làm việc trong căn cứ và cho một vài bác nông phu lo việc
đồng áng quanh quẩn đây đó. Muốn xuống phố, cách căn cứ khoảng 10 phút
ô-tô, phải điện thoại gọi taxi từ thành phố chạy lên. Nên chi, suốt
tuần chúng tôi chỉ sinh hoạt bên trong căn cứ, đến hai ngày cuối tuần
mới ra phố hoặc đi thủ đô Alger ngao du. Tṛ tiêu khiển bên trong căn
cứ chỉ có đọc sách ở một thư viện cỏn con và thụt bi-da ở câu lạc bộ
sĩ quan. Đi Alger chơi th́ phải sử dụng xe
lửa v́ xe đ̣ thời đó chưa được phổ biến lắm mà cũng không đủ tiện
nghi. Hơn nữa, đi xe lửa th́ sĩ quan chỉ
trả có một phần tư giá vé, lại bị bắt buộc đi hạng nhất.
Hàng
ngày, một số trong chúng tôi được xếp bay trên các phi vụ thực tập,
c̣n ai không bay th́ dự những môn học lư thuyết ở lớp. Chúng tôi bay
cùng với phi hành đoàn người Pháp. Phi công th́ thực hành những công
tác bay đặc biệt để đưa máy bay từ cao lao xuống mục tiêu rồi bấm nút
đúng lúc để đặt "bom" vào ngay chỗ mong muốn, xong vút lên cao theo
một hướng nhất định. Vô tuyến du hành th́ đảm
trách việc điều hành hàng không, một công tác có phần nào vượt khỏi
chuyên môn chính là liên lạc vô tuyến.
Nghĩa là phải đọc bản đồ để đưa phi cơ từ điểm khởi hành đến vùng mục
tiêu. Cho nên, người vô tuyến du hành có một chỗ ngồi đặc biệt
ở trước mũi máy bay, được bọc thủy tinh trong suốt để có thể nh́n thấy
bốn phương, tám hướng bên ngoài.
Trong bối cảnh như vậy, tôi
được biết người phi công trẻ tuổi đó, lúc bấy giờ c̣n mang cấp bực
trung sĩ v́ lúc nhập khóa anh là học sinh dân sự.
Anh bay thuộc loại giỏi, rất thoải mái, không g̣ bó, không đắn đo,
không lo âu. Bay như thở. Buổi thao dượt nào về,
anh cũng được huấn luyện viên khen ngợi. Ở
anh người ta nhận thấy có một sự lanh trí đáng kể nên phản ứng rất
thuận lợi, ít khi sai lầm, trong sinh hoạt đời thường cũng như trong
nghề nghiệp. Thế nhưng, anh không tự kiêu
và thật nhũn nhặn dễ thương. Anh có một thái độ trăm phần trăm
Việt Nam, dễ nhoẻn miệng cười trong mọi t́nh huống. Cho nên anh rất
được ḷng bè bạn.
Sau
khóa tu nghiệp ném bom, trở về quê nhà, tôi lại có dịp bay chung với
anh trong đợt thực tập phi hành đoàn vận tải hàng không trên máy bay
của Không quân Pháp thuộc phi đoàn "Sénégal" . Càng bay
chung với anh tôi càng thấy những nhận định
trên đây về con người anh là đúng. Chỉ bay cùng phi đoàn với anh được
một khoảng thời gian ngắn th́ tôi được gọi đi học tiếp khóa điều hành
hàng không. Du học về, tôi ở vào vị trí khác, không trực tiếp được với
anh nhưng cũng gián tiếp nghe bạn bè nói về anh.
Chưa
vợ con nhưng có khá nhiều em gái hậu phương, anh lả lướt rất mực hào
hoa phong nhă, đúng truyền thống của quân chủng. Có những hôm, sáng
ngày gặp phi vụ tinh sương nhưng anh cứ "sol-đố-ḿ"
vui chơi xả láng, xong thẳng một mạch lên phi đoàn, vận áo
liền quần (quân phục để đi bay) rồi cất cánh bay cao. Vào thế b́nh phi
xong, phi công phụ làm chủ con tàu, anh thả hồn bay bổng cùng trời
xanh, mây trắng. Thế nhưng, con tàu hơi chao đảo,
lệch đường bay là anh đă tỉnh ngủ, liếc mắt nh́n qua các mặt đồng hồ.
Ngủ mà vẫn thức như chừng con người anh đă gắn liền, ḥa điệu với phi
cơ.
T́nh
cờ, không hẹn mà nên, tôi được dịp công tác cùng với anh trên một
chuyến bay đường dài hải ngoại, để trắc nghiệm khả năng chuyên môn của
tôi. Thời điểm đó, tôi không c̣n ở đơn vị phi hành
mà ngồi ghế tham mưu, nhưng quy chế bắt buộc phải có một số giờ bay
trong định kỳ. Phi vụ ngày đó là đi về giữa Tân Sơn Nhứt và
Manila (Phi-Luật-Tân), bận đi máy bay trống, chuyến về chở một số vật
liệu cồng kềnh và khá nặng. Khởi hành từ Manila, trời êm, mây đẹp, gió
thuận chiều nên máy bay lướt nhẹ trong không gian.
Tiếng động cơ rù ŕ, như hát ru, rất cám dỗ con người vào giấc ngủ gật
gù. Khoang tàu im phăng phắc, nhưng không có nghĩa là phi hành
đoàn thả cho con tàu tự do đi dọc về ngang v́ vẫn có người
theo dơi nhịp đập động cơ cũng như hướng
đi, dáng đứng của phi cơ. Qua một hành tŕnh dài gần như xuyên suốt
trên đại dương xanh, không có được một điểm chuẩn, máy bay cứ nuốt phi
tŕnh cho đến khi thấy bờ biển chữ S của Việt Nam mới mong biết được
chính xác vị trí so với mặt đất. Buồn thay, trong chuyến bay về đó,
khi gần đến điểm ước đoán là Nha Trang th́ trời lại đầy mây che phủ
cảnh quang mặt đất. Đến thời điểm dự tính, tôi cho máy bay đổi hướng
về Tân Sơn Nhứt. Khi kiểm lại bằng phương tiện trắc lượng vô tuyến
th́, hởi ôi, đă đi lệch đường lên phía Bắc Nha Trang một đỗi khá xa.
Trật th́ sửa chẳng sao hết, có ảnh hưởng chăng là
giờ máy bay đến Tân Sơn Nhứt, chắc cũng phải chậm mất mươi, mười lăm
phút.
Con
tàu hơi chao đảo v́ mây mưa, bỗng dưng đồng hồ cho biết động cơ bên
mặt có vấn đề. Chàng phi công đó ở trong tư thế sẵn sàng để ứng phó.
Trong bóng tối của buồng lái, cây kim dạ
quang chỉ mức lâm nguy, anh cho động cơ liên hệ ngưng hoạt động và
cánh chong chóng nằm xuôi theo chiều gió để giảm bớt sức cản làm giảm
tốc độ máy bay và qua đó có thể mất cao độ. Thế là phi cơ chỉ c̣n bay
với một động cơ. So với mặt đất, phi cơ vừa qua khỏi ṿng tṛn 100 dậm
mà trung tâm điểm là Tân Sơn Nhứt. Như vậy là c̣n khoảng một giờ bay
nữa. Phi cơ mất lần cao độ nhưng anh ước tính có thể về đáp
an toàn. Ấy vậy mà, phước bất trùng lai,
họa vô đơn chí, khi gần đến Biên Ḥa động cơ bên trái lại bắt đầu ho
hen. Rắc rối chưa! Ṿng quay của chong chóng có phần chậm lại nên máy
bay xuống lần và xuống lần. Muốn cho phi cơ nhẹ
gánh th́ biện pháp là thảy bớt hàng. Nhưng
toàn là hàng cồng kềnh và nặng th́ làm sao mà thảy được. Đành
cắn răng mà chịu. Như một tia sáng lóe qua
đầu, anh gọi đài kiểm báo Sài G̣n xin hạ cánh xuống phi trường Biên
Ḥa. Thế nhưng, thời đó đường bay Xứ Bưởi c̣n thô
sơ, thiếu đèn đóm, không đủ khả năng tiếp nhận máy bay ban đêm.
Kiểm báo Sài G̣n khuyên anh nên cố gắng đáp Tân
Sơn Nhứt, có đầy đủ phương tiện cứu nạn hơn.
Anh hứa cố gắng và kiểm báo Sài G̣n ra lệnh cho
mọi phi cơ trong vùng trời Tân Sơn Nhứt dành ưu tiên cho chiếc C-47
đang gặp khó khăn. Cả phi hành đoàn chúng tôi như đứng
tim, dồn nhịp đập cho tim của chiếc C-47
lâm nguy. Trong muôn ngh́n ánh sáng của thành phố Sài G̣n về đêm, hiện
lên hai hàng đèn phi đạo như dang hai cánh tay
thân thương mời gọi chiếc máy bay trục trặc. Chỉ với một động cơ, anh
đặt nhẹ chiếc máy bay xuống phi đạo. Phi cơ vừa chạm bánh th́ động cơ
duy nhất c̣n lại cũng bặt luôn! Cả phi hành đoàn
thở phào, người niệm Phật, kẻ làm dấu Thánh Giá. Bao nhiêu là
đèn chớp bao quanh, của xe cứu hỏa, của xe
cứu thương, và người ta đem máy kéo ra lôi chiếc C-47 thoát nạn vào
bến đậu. Thêm một lần, những con người của gió mây
vừa đi trên lằn ranh phân chia cơi sống và miền âm cảnh.
Bẵng
đi một thời gian khá lâu, v́ lănh vực hoạt động khác biệt nhau, tôi
không c̣n theo dơi được vết chân đi của anh
mà cũng không gặp anh. Cho đến một hôm, có người yêu cầu cho gặp v́
một chuyện gia đ́nh riêng tư.
Tôi đối diện với một người khá nhiều tuổi, tự giới
thiệu là ba của chàng phi công đó. Ông đến t́m tôi để hỏi thăm
về con ông đă vắng tin từ lâu.
Thời
bấy giờ, có không biết bao chiến sĩ không quân, nhiều chất Kinh Kha
trong người, ra đi mà không hẹn ngày về, có khi cũng không về. Không
những trên các chuyến bay thông thường mà c̣n trên những chuyến bay
biệt vụ. Có những chuyến bay bặt vô âm tín mà trên công khai không ai
dám nói và cũng không ai có quyền xác nhận. Cứ lững lơ!
Cho nên gia đ́nh, thân thuộc ngày càng thắc mắc.
Ông cụ trên đây là một trong những trường hợp đó.
Qua đàm đạo, tôi được biết ông cụ là một nhà giáo
về hưu. Thấy ông cụ cứ mỏi đôi chân già tới lui Bộ Tư lệnh
Không quân để thăm hỏi tin con, thương t́nh ông cụ và động ḷng đồng
nghiệp - v́ trước ngày đi động viên tôi cũng là một nhà giáo - suưt
nữa tôi tiết lộ t́nh trạng của con ông. Nhưng, khi đứng tần ngần nh́n
cụ ra về, tôi uốn lưỡi đến lần thứ sáu th́ ông cụ đă khuất bóng ở đầu
đường đàng kia!
Người
phi công, con trai của cụ, đă thay thế một người bạn, thi hành một phi
vụ thả dù biệt kích hoạt động trên đất địch miền Bắc. V́ lư do công vụ
quan trọng, người bạn của anh phải có mặt trong một buổi lễ kỷ niệm
quân chủng. Đến nửa đêm về sáng, có điện thoại cho hay là chuyến bay
đă nằm lại trên vùng mục tiêu. Như:
«
Con c̣ mà đi ăn đêm,
« Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao »!
(Ca dao)
Một
nỗi buồn riêng tư trong niềm vui tập thể! Măi lâu sau, người ta được
biết là trong chuyến bay sát mặt đất trên vùng địch, phi cơ của anh đă
bị hỏa tiễn tầm nhiệt của pḥng không Bắc Việt bắn rơi.
Anh bị thương và bị bắt.
Ông cụ nhiều lần đến gặp tôi thắc mắc nhưng biết
làm sao để nói ra đây? Cảnh cha già đi t́m tin tức của con biền
biệt phương trời thấy thật thương tâm! Đành phải
hứa lần sau, dù biết rằng sẽ khó tôn trọng lời hứa, với hy vọng ngày
một ngày hai rồi ông cụ cũng biết. Bằng cách nào đó...? Dường
như bằng cách nghe đài Hà Nội loan tin dân quân bắn hạ một chiếc C-47.
Thấy ông cụ không buồn đến nữa, tôi đoán là ông cụ đă rơ lư do biệt
tin, biệt tức của con ông.
* * *
Bước vào thập niên 1960, sau khi cộng sản thấy không c̣n hy vọng ǵ
thôn tính được miền Nam Việt Nam qua "tổng tuyển cử", cuộc chiến tranh
khuynh đảo do Hà Nội chủ xướng bắt đầu chuyển hướng mạnh mẽ dưới h́nh
thức một cuộc chiến mập mờ đánh lận con đen. Ngoài mặt ra vẻ đứng
ngoài ṿng cương tỏa, để cho Mặt Trận Giải Phóng ḿnh ên làm một cuộc
vùng dậy, nhưng Hà Nội ngấm ngầm đưa mật vụ quân báo và cán bộ nồng
cốt - chưa nói đến chiến cụ làm ǵ - xâm nhập vào Nam Việt Nam, lợi
dụng môi trường tự do và dân chủ của Việt Nam Cộng Ḥa. Trong khi đó
Sài G̣n không có được bao nhiêu tin tức t́nh báo về miền Bắc.
Biết
ta mà không hiểu địch, như một vơ sĩ mù, là chiến đấu nắm phần thua
cuộc là cái chắc, nên chi Trung Ương T́nh Báo Mỹ (CIA) quyết định phải
t́m cách thu thập tin tức cộng sản một cách thực tế và cụ thể, bằng
mắt thấy tai nghe, thay v́ qua những dữ kiện do vệ tinh cung cấp.
Mà người Mỹ da trắng, mắt xanh, mũi lơ th́ không
thế nào tiến hành hiệu quả công tác mật vụ trong ḷng đất địch miền
Bắc được. Nên chi họ bèn nghĩ đến những người lính chiến Việt
Nam, qua đó máy bay Việt Nam bắt buộc phải là phương tiện hiệu quả
nhất để đưa và cài đặt người vào miền Bắc.
Những năm đầu của thập kỷ
sáu mươi, sự tham dự của Hoa Kỳ vào cuộc chiến Việt Nam c̣n trong úp
mở nên người ta nặng về h́nh thức "007" hơn.
Trong tinh thần "Chiến tranh đặc biệt", ngoài việc
thu thập tin tức t́nh báo, Mỹ c̣n chủ trương phải phá hoại hậu
phương Bắc Việt. Cho nên có một kế hoạch chung
là thả biệt kích ra hoạt động ở ngoài Bắc, trong tinh thần phá Bắc,
b́nh Nam. Bởi đó, không quân cũng góp phần trong
công tác ẩn danh.
Thế là một tổ công tác mật bắt đầu h́nh thành bên trong Không quân.
Mỹ đưa một vài huấn luyện viên, dưới dạng dân
thường, đến để đào tạo phi hành đoàn đặc vụ. Không quân chỉ
định một số người tín cẩn và kín miệng vào công tác liên hệ, mà người
trưởng toán lại không ai khác hơn là đương kim
chỉ huy trưởng Liên Phi Đoàn Vận Tải. Một cấp lănh
đạo chịu chơi, dám lănh phần nguy hiểm, một điều kiện quá cần và thật
đầy đủ để cho công tác có thể thành công.
Thực vậy, v́ người và phương tiện để tiến hành công tác thầm kín này
đều lấy từ đơn vị của ông. Nhờ vậy mà công
tác bảo mật càng được trọn vẹn.
|
Thế là, hai chiếc C-47 bị tẩy xóa trần trụi hết mọi dấu vết về đơn vị
và quốc tịch, chỉ c̣n lại một màu nhôm trắng toát, được dành riêng cho
việc huấn luyện biệt vụ.
Và hai phi hành đoàn được chỉ định đặc biệt để bay tập trên hai con
"C̣ Trắng" này. Những chuyến bay tập là những phi vụ về đêm, khởi hành
từ Tân Sơn Nhứt bay lên miệt núi rừng Đà Lạt. Các huấn luyện viên Hoa
Kỳ bay cùng với phi hành đoàn Việt Nam một đôi ngày và sau khi đă biết
được khả năng và tŕnh độ rồi th́ để cho phi hành đoàn Việt Nam bay
một ḿnh. Sau đó, người Việt Nam phải tự lo liệu thực tập, bay đêm
trong mọi thời tiết, bất chấp gió mưa, bay sà mặt đất, bay lượn uốn
khúc theo gịng sông, bay xuyên suốt thung
lũng hẹp và xoay trở máy bay trong vùng không gian hạn hẹp về đêm. Chỉ
tiêu của những phi vụ đặc công là thả những toán biệt kích, cũng được
CIA trang bị đến tận răng, để thu thập tin
tức t́nh báo và để phá hoại, nếu cần. Những toán biệt kích đầy chất
Kinh Kha, có đi mà không cần biết ngày về đó, được thả xuống đất địch
và "mấy anh không phải thắc mắc", như cấp chỉ huy của họ thường nói
khi giao cho phi hành đoàn. Trên nguyên tắc, họ sẽ ḥa tan trong quần
chúng miền Bắc để cung cấp tin tức qua một hệ thống liên lạc đặc biệt,
có tính kỷ thuật cao. Những người biệt kích này đến những năm tháng
"học tập cải tạo" sau 1975, người ta c̣n gặp lại trong
lao tù cộng sản!
V́ nhu cầu thực tập cho phi vụ đột nhập miền Bắc, CIA có h́nh thành
một sa bàn của toàn bộ đường bay gồm đầy đủ chi tiết địa h́nh trên
tuyến bay, kể cả núi, sông, đường lộ, tuyến tải điện cao thế, cầu cống
và mọi chướng ngại vật có thể có ở chiều cao. Sau giai đoạn thực tập
tổng quát, hai phi hành đoàn đặc công được đưa lên căn cứ KQ Biên Ḥa
để thao dượt thực tế trên sa bàn.
Đến giai đoạn này, v́ nhu cầu bảo mật công tác,
phi hành đoàn bị cấm trại trăm phần trăm, không được rời hiện trường
với bất cứ lư do ǵ. Hai phi hành đoàn "C̣ Trắng" luyện tập
ngày đêm trong pḥng lái của một chiếc C-47, đậu trong một nhà chứa
máy bay khóa kín, để tránh những cặp mắt ṭ ṃ. Nhiệm vụ của phi hành
đoàn là đưa máy bay đến đúng chỗ và đúng thời điểm trên đất địch.
Những chuyến bay dự phóng sẽ được thực hiện ban đêm và trên tuyến bay
sẽ không có nhiều chỉ dấu có thể nh́n thấy được để làm chuẩn.
Một khi đă vào đất liền, phi hành đoàn chỉ c̣n
biết dựa vào những yếu tố lư thuyết, tính toán trên giấy tờ, để điều
hành máy bay. Như thế phi hành đoàn phải chia lộ tŕnh bay ra
làm nhiều đoạn ngắn, mỗi đoạn khoảng năm phút bay, phải quan sát kỹ
tốc độ trên đồng hồ và cứ đúng mấy phút là phải đổi hướng bay như đă
dự tính. Ngoài trời tối đen, trong pḥng lái cũng đen như mực Tàu, thế
nhưng không được quyền đốt đèn, dù là để đọc bản đồ, v́ sợ pḥng không
phát hiện. Thế là phi công phải thuộc nằm ḷng
toàn bộ hành tŕnh phi vụ.
Xuyên suốt mười hai tiếng đồng hồ tiếng trong ngày, phi hành đoàn phải
dượt đi dượt lại đến thuộc làu phi tŕnh và mọi công tác khác của
chuyến bay.
Trong quá tŕnh tập dượt cũng như trong phi vụ, hoa tiêu phụ và điều
hành viên phải đứng kề bên phi công trưởng, đếm từng phút một và nhắc
cho người cầm cần lái những động tác phải làm như: c̣n 3 phút, c̣n 2
phút, tốp, đây là khúc quẹo của con sông, quẹo trái 30 độ, c̣n 1 phút
nữa,... Người điều khiển máy bay phải nhớ từng chi tiết một của chuyến
bay, không phải bận tâm đến bản đồ cũng như không cần biết lộ tŕnh
thực tế bên ngoài của chuyến bay. Để cho phi vụ
được hoàn hảo, phi công phụ và điều hành viên cũng phải thuộc nằm ḷng
các chi tiết của chuyến bay. Dượt đi dượt lại măi, phi hành
đoàn gần như bị ám ảnh, thậm chí trong giấc ngủ họ cũng c̣n thấy hành
tŕnh chuyến bay, thấy bản đồ vùng bay qua, thấy lộ tŕnh như con
đường học tṛ thuở nhỏ, thấy cảnh quang núi đồi bao quanh, thấy khúc
quanh của con sông, thấy cây cầu bắt ngang, thấy đường dây tải
điện,...
Hai mươi bốn giờ trước ngày N, phi hành đoàn bay ra căn cứ KQ Đà Nẳng
làm trạm dừng chân để rút ngắn đoạn đường phải bay qua.
Và cũng là một ngày nghỉ lấy sức, nhưng không một
ai c̣n đủ khả năng để ngủ hay nghỉ ngơi nữa. Chiều ngày N,
những người đặc công và phi hành đoàn cùng nhau dùng cơm tối, một bữa
ăn không ai nói với ai nhưng đều cảm thấy
như bữa ăn cuối cùng. Thức ăn thừa mứa và
ngon miệng nhưng nào ai nuốt được. Trời sụp tối,
phi hành đoàn kiểm điểm lại phi cơ một cách tỉ mỉ.
Phi hành đoàn cũng như chiến sĩ biệt kích đều mặc
bà ba đen, trông như những nông dân. Ở đây
có một chi tiết không đúng với thực tế v́ nông dân miền Bắc thường mặc
màu nâu, hoặc gặp ǵ mặc nấy v́ hoàn cảnh khó khăn.
Dàn cảnh đúng mức, CIA phát cho phi hành đoàn tiền, thuốc lá và thậm
chí cả hộp diêm Bắc Việt, dự pḥng trường hợp máy bay lâm nạn trên đất
địch, phi hành đoàn sẽ có cơ may trà trộn được vào quần chúng địa
phương! Ngoài ra, mỗi đoàn viên phi hành cũng được phát cho một trăm
Mỹ kim để, nếu cần th́ mua chuộc một người
nào đó mà thoát hiểm?! Một lối suy nghĩ rất ư là ngây thơ kiểu Hoa Kỳ
v́ nếu có sống sót qua tai nạn phi cơ, phi hành đoàn phải may mắn lắm
mới sử dụng được "tiền Bác" hoặc ph́ phà được điếu thuốc lá Hà Nội.
|
Mọi
chuyện xong xuôi, con "C̣ Trắng" rời sân bay Đà Nẳng, lên cao rồi lấy
hướng ra biển, tiến ra miền Bắc cho đến khi hết thấy đất liền th́ bắt
đầu xuống thấp. V́ bay trong không phận Bắc Việt và xâm nhập lén lút
nên phi cơ chẳng cần phải theo một kế hoạch
bay nào định trước. Máy bay xuống thấp và xuống thấp tới chừng nh́n
thấy bọt biển nhấp nhô trên đầu sóng th́ chuyển sang thế b́nh phi. Bấy
giờ phi cơ bay sà mặt biển, chỉ c̣n cách xa những ngọn sóng khoảng từ
bốn đến năm tấc, với tốc độ khoảng 200 hải lư/giờ,
hay càng nhanh nữa càng tốt, để trốn ra-đa cộng sản. Đến điểm dự tính,
máy bay lấy hướng 330 độ bay thẳng vào cửa Sông Hồng, tới ngang Thanh
Hóa là "C̣ Trắng" bắt đầu vào vùng đất thù địch. Máy bay lên cao một
tí để tránh những cây cầu và đường dây điện, lần ṃ
theo gịng Sông Hồng bay thẳng tới vùng thả
dù. Địa thế lần lần lên cao, ḷng sông thu
hẹp lần hồi và núi non sừng sững bao quanh. Hoa
tiêu phụ cùng với điều hành viên đọc chương tŕnh chi li từng phút một
và từng độ đổi hướng để cho phi công trưởng có thể vào vùng thả dù một
cách chính xác. Một chiếc dù bọc gió, rồi hai chiếc, rồi... tất
cả những chiếc dù lơ lửng xuống nhẹ, máy bay lấy hướng thẳng qua Lào
và luồn lách địa thế cho đến khi ước đoán ra khỏi vùng trời Bắc Việt
là vọt lên cao 12.000 bộ bay về hướng Nam cho đến khi có thể đổi qua
hướng Đông để về vùng trời quê hương. Một phi vụ toát mồ hôi lạnh đă
hoàn thành, sau bao nhiêu là công lao khổ
luyện! Thông thường, các phi vụ đặc công này được
tiến hành vào lúc trăng tṛn để nhờ ánh trăng mà phần nào trông thấy
được vùng mục tiêu.
* * *
Trong bối cảnh như thế, với kinh nghiệm và kỷ thuật bay đă được cấp
trên xác nhận, chàng phi công đó được chỉ định làm trưởng toán bay của
một trong hai con "C̣ trắng". Ngày 1 tháng Bảy 1961, người chỉ huy
toán bay "C̣ trắng" kia bận công tác nên
anh phải đi thế và gánh chịu số phận ác nghiệt và hẩm hiu. Con "C̣
trắng" lănh hỏa tiễn tầm nhiệt của cộng sản Bắc Việt hồi 01g15 rạng
sáng ngày 02 tháng Bảy 1961. "C̣ trắng" lộn cổ xuống đồng ruộng xă Tô
Hiệu, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh B́nh, mang theo phi hành đoàn gồm hai
phi công phụ, hai điều hành viên, một vô tuyến điện viên và một cơ khí
viên cùng với ba biệt kích dù, chưa kịp nhảy ra.
Sau này, trong lúc trà dư tửu hậu, anh kể cho chúng tôi:
Tôi nhớ rơ chiếc máy bay C47 trắng ngần do tôi lái khi vượt qua vĩ
tuyến 17, bay là sát mặt biển xâm nhập vào bầu trời của miền Bắc, dù
c̣n ở ngoài khơi của biển Đông, cả bảy người trong pḥng lái chúng tôi
đều bắt đầu thấy thần kinh căng thẳng, người này lo lắng liếc mắt nh́n
người kia, không ai nói vơi ai một lời. Khi máy bay vào sâu nội địa,
tôi c̣n nhớ lúc ấy khoảng hơn một giờ đêm, đột nhiên tôi thấy nhoáng
lên như ánh chớp màu da cam ngay trước mặt tôi trong bầu trời như bức
màn đen, máy bay tự nhiên rung giật mạnh, không hề nghe một tiếng nổ
hay bất cứ một âm thanh ǵ, hai tay tôi ôm cứng lấy tay lái, cố giữ
thăng bằng cho chiếc máy bay, mắt tôi c̣n thoáng thấy anh Mậu điều
hành viên và anh Thích phi công phụ ôm chầm lấy nhau, rồi...tôi không
c̣n biết ǵ nữa!
Không biết măi bao lâu sau, khi thấy lạnh run, tôi cố mở mắt nh́n
trong đêm tối đen kịt, người tôi như vỡ nát ra trăm mảnh, tôi không cử
động được tay chân, đau đớn tận cùng, hồn tôi lửng lơ, tôi tưởng như
tôi đă chết rồi, hay đang... chết. Sau đó dần dần một lúc, tôi mới cảm
thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào cũng đau, tôi không nh́n thấy ǵ
cả, cố thu hết tàn lực đưa tay quờ quạng hốt ít nước bùn lầy đưa lên
mặt để rửa. Nước bùn nhầy nhụa ḥa với một thứ nước mằn mặn trên gương
mặt loang lổ của tôi. Máu, mặt tôi đầy máu, tôi cố mở mắt nhiều lần
nhưng vẫn không thấy ǵ, đầu tôi như có ai cầm chiếc gậy đập đều đều,
tôi lại mê man, tâm trí như có một khoảng trống rỗng, chẳng c̣n ư niệm
ǵ về thời gian, không gian.
Tôi cũng chẳng biết là cho đến bao lâu nữa, măi khi tai tôi chợt nghe
văng vẳng trong gió lao xao của đêm khuya:"Chết tôi rồi, chết tôi rồi,
nóng quá, nóng quá, chết...tôi rồi!" Tiếng kêu thảm thiết của những
người đang chết cháy! Tôi không nhúc nhích ǵ được, cả một nửa người
của tôi đă ngập sâu dưới bùn lầy, tôi cố mở mắt to: xa xa cách chỗ tôi
độ vài trăm thước, một đám cháy to, lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt và những
tiếng thét kinh hoàng mà tôi nghe từ đó vọng ra, tôi như nửa tỉnh nửa
mê, chợt lờ mờ có ư niệm rằng chiếc C47 do tôi lái đă bị bắn rơi xuống
đây và đang bốc cháy!
Tôi lại mê man bất tỉnh cho đến khi mở choàng mắt ra, lúc này đă nh́n
được lơ mơ thấy khung cảnh đồng ruộng śnh lầy, đầu tôi đau nhức như
có người lấy dao nạo vào óc, rồi tôi nghe rơ tiếng người ḥ hét xa xa,
tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng trong gió đêm. Một ư thức bừng dậy,
thành phản xạ của sự sống c̣n, ập đến như một đ̣n bẩy, tôi cố vùng
vẫy, nhô người lên khỏi đám śnh lầy, nhưng tôi quá yếu, bất lực!
Tiếng quát tháo lẫn lộn của đàn ông lẫn đàn bà càng lúc càng gần cùng
với những ngọn đuốc lập ḷe di động đốt sáng cả một góc trời, phần v́
khắp người đau như dần với bao nhiêu thương tích, phần v́ quá khiếp
sợ, đầu óc tôi tê đi, cho đến lúc họ đă quát tháo ầm ầm bên tai tôi mà
tôi vẫn đứng im như một xác chết. Họ ḥ nhau túm lấy tay chân tôi, kéo
tôi ra khỏi śnh lầy.
Lúc này trời đă sáng tỏ, tôi lờ mờ thấy không biết bao nhiêu người,
đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh tôi, súng ống gậy gộc, họ hầm hè như
muốn nhai xương, nuốt sống, ăn thịt tôi. Tôi đau đớn sức tàn, tôi sợ
quá, nhắm mắt lại, rồi lịm đi, văng vẳng nghe tiếng quát, tiếng chửi
rủa ập ngoáy vào tai tôi:"Coi chừng, coi chừng, nó hăy c̣n sống, đập
chết nó đi, đập chết nó đi, nó là biệt kích ác ôn của Mỹ Diệm!"
(Trích
"Người về từ cơi chết", PTV, Đặc san KQ "Lư Tưởng", số xuân Nhâm Ngọ)
Phi cơ rơi rồi bốc cháy, người chết cháy v́ kẹt lại trong phi cơ, kẻ
bị thương nặng rồi chết sau đó, chỉ c̣n có ba người sống sót là chàng
phi công đó, chuyên viên cơ khí và anh biệt kích dù.
Cả ba người đều bị thương tích nặng và bị dân quân
đổ xô ra đánh đập và bắt giữ. Sau một thời gian nhốt khám và
hỏi cung tại trại giam Hỏa Ḷ (Hà Nội), ngày 15 tháng Mười một 1961,
cả ba bị truy tố ra Ṭa án Quân sự Trung ương để chịu tội. Anh chiến
sĩ biệt kích chịu án nặng nhất là 15 năm tù, phi công trưởng toán bay,
7 năm và chuyên viên cơ khí, 3 năm.
Sau khi lănh án, chàng phi công của chúng ta bị đưa đi cải tạo tại
trại Bắc Bạc (Ba V́, Sơn Tây), rồi sau đó, chuyển đi nhiều trại, cuối
cùng đến Trại E ở Phố Lu (Lào Cai). Nhờ "ngoan
ngoăn" cải tạo tư tưởng để trở nên "thành phần tiến bộ" nên sau bảy
năm tù, anh lănh thêm hai năm "tự giác", nghĩa là ở trong ṿng trại
giam nhưng được "tự do trong tất yếu". Năm 1969, anh được "nhân
dân, Đảng và nhà nước rộng lượng khoan hồng nhân đạo, đánh kẻ chạy đi,
không đánh người chạy lại", đưa về Hợp tác xă mộc Ba v́ (tỉnh Sơn Tây)
quản thúc với ngành nghề thợ mộc để "ngày động, tối điểm".
Một ngày gần cuối năm, thiên hạ chuẩn bị đón Tết Tân Hợi (1971), anh
bất ngờ được cán bộ trung ương về Hợp tác xă, với xe con, để đưa anh
về Hà Nội rồi đưa ra phi trường đi Pháp đoàn tụ với gia đ́nh. Như một
tiếng sét giữa thanh thiên bạch nhựt! Dĩ nhiên là có kèm
theo một luận điệu đă quá quen thuộc và lải
nhải cà lăm cà lặp, nghe như một dĩa hát cũ đă rè. Nào là "Đảng đă
khoan hồng rộng lượng, tha tội chết", nào là "phải biết ơn nhân dân,
biết ơn Đảng và nhà nước", nào là "phải tiếp tục cải tạo tư tưởng để
trở thành người tiến bộ, trở về phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng và nhà
nước", nào là...
* * *
Ngày
qua, tháng lại, năm về, công việc chồng chất tôi quên khuấy đi mất
người phi công độc đáo kia và cũng không
nhớ đến ông cụ đi t́m tin tức của người con. Nói
quên đi th́ cũng không hẳn đúng v́ có thể những chuyện đó đă nằm vào
một góc nào nhất định của kư ức tôi. Có dịp
là nó sẽ vùng dậy. Thăng tiến sự nghiệp đưa
đẩy tôi đến một cơ hội đứng vào thành phần nhân viên phục vụ cho phái
đoàn ḥa đàm
Paris.
Vào một ngày đông giá lạnh năm 1971, "thủ đô ánh sáng" ngập đầy tuyết
trắng, tôi bỗng nhiên gặp lại chàng phi công đó ngay bên trong ṭa nhà
số 41 đại lộ Maillot (Neuilly-sur-Seine), trụ sở của phái đoàn! Một
chuyện ly kỳ đứng sau số không!
Trước
kia, tôi được biết là sau khi chiếc C-47 bị cộng sản Bắc Việt bắn rơi,
chàng phi công đó bị thương, hỏng một mắt và đă bị bắt. Sau mười năm
tù giam, anh được trả "tự do" có quản chế, sinh sống cơ cực tại miền
Bắc dân chủ cộng ḥa. Nhưng nay tại sao anh lại có mặt ở nơi kinh đô
ánh sáng này, giữa lúc đang có ḥa đàm bốn phe, hai phía nhằm chấm dứt
cuộc chiến mà Mỹ muốn phủi tay? Bao nhiêu
là suy nghĩ mà cũng bao nhiêu là đắn đo và thắc mắc.
Và hơn nữa, anh lại vào được trụ sở phái đoàn?
Sở dĩ được vậy là do chỗ thân t́nh giữa anh và người có uy quyền trong
phái đoàn, người mà anh đă thay thế trong chuyến bay định mệnh.
Anh được giới thiệu để có một chân việc trong phái
đoàn hầu có thêm phương tiện tăng cường miếng ăn, manh áo.
Nể t́nh người quyền thế, ông trưởng đoàn đưa anh
vào toán báo chí, vô thưởng vô phạt, v́ chưa biết được lập trường của
anh như thế nào. Sau đó, người ta can thiệp cho anh được về
Việt Nam thăm gia đ́nh. Chắc ông cụ đi t́m tin tức con trai ngày nọ
phải vui mừng hơn ai hết!
Thế
rồi ḥa đàm "thành công" - theo như ư muốn
của Hoa Kỳ - Mỹ khấp khởi mừng rơn, vội vàng Việt hóa chiến tranh, lấy
ḷng quần chúng nước họ, đang có cao trào phản chiến.
Phụ họa vào đó là khó khăn chính trị nội bộ của
Tổng Thống Nixon, thế là sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi.
T́nh h́nh Việt Nam Cộng Ḥa liên đới chịu ảnh hưởng cứ thế mà tuột
dốc, và tuột dốc! Cho đến một hôm,
«
Bỗng dưng tan giấc mơ đời,
«
Quê hương giẫy chết giữa trời tháng tư » ,
(Vạn Giả - Chuyện tháng
tư)
hàng
triệu con người Việt Nam miền đất cộng ḥa phải khăn gói ra đi để t́m
một thứ tự do, đă buồn t́nh vỗ cánh bay cao. Sau hơn bốn ngh́n năm
trăm ngày "được Bác và Đảng dạy dỗ nên người lương thiện" và được "tha
tội chết", tôi trở về quê nhà làm người xa lạ trên đất nước của chính
ḿnh. Rốt cuộc, buồn đời tôi cũng phải chạy đi t́m
lẽ sống nơi xứ lạ quê người. Trên hành tŕnh
lang thang nơi miền đất thiên hạ mà dễ
thương, nặng tính "Tự do, Công bằng và Bác ái", tôi lại gặp chàng phi
công đó. Quả là trái đất tṛn.
Bấy giờ, anh đang là người có quyền thế trong một
công ty thuê mướn nhân công. Anh thu
nhận tôi vào,
«
Làm 'binh nh́' canh gác đổi áo cơm » .
(Hoàng Minh Huy - Th́
thầm giữa Paris)
Khi
con người chưa xuôi tay nằm xuống th́ chưa
kết luận được thế nào là sướng với khổ, là vinh với nhục.
Nhưng này, chàng phi công đó là ai vậy, hư cấu hay
có thật? Đọc đến đây chắc hẳn một số chiến
hữu, ít ra cùng thế hệ quân chủng, cũng đă nhận diện được chân tướng
của chàng rồi. Nói trắng ra sẽ mất phần
hứng thú của câu chuyện.
Phan Quân