Chàng "TÔN"
Không phải vì thấy
trong lịch sử và văn học sử của Ta lẫn của Tàu, họ Tôn đã có khối
người ăn nên làm ra, nổi tiếng nổi tăm, lừng danh kiệt xuất - như
Tôn Ðản, Tôn Kinh, Tôn Sơn, Tôn Tẩn, một lô Tôn Thất..., Tôn Thọ
Tường, Tôn Thúc Ngao, Tôn Võ Tử, v.v. - mà lão ta bắt quàng làm họ.
Tên gọi do hàng chức phẩm của lão ta xuất phát từ ngẫu nhiên của
tình thế, từ chức năng của lão ta trong ngôi thứ gia đình, từ cung
cách gọi thưa của trẻ con.
Số là, sau mười hai năm dài cộng thêm mấy con số lẻ bị lũ sâu bọ lên
làm người, bầy ma quỷ - đực lẫn cái - đội lốt cối, học đòi lên lớp
những người đáng bậc cha chú để mong dạy khéo dạy khôn cho trở thành
"người lương thiện trong xã hội xã hội chủ nghĩa", lão ta - nặng
lòng tương tư không gian xanh xanh có mây trắng bay bay, muốn như
chim chóc tha hồ ngang dọc vùng trời thênh thang rộng - làm một phát
đi đoàn tụ gia đình, tìm chút tự do đích thật. Tuổi đời cũng gần ba
mươi mấy, tính từ "ngủ thập niên tiền", cho nên làm sao mà có được
mái nhà ở cõi tạm dung, đành chung sống với con cùng cái.
Cho đến một hôm, "chủ nhà" kết duyên, dựng lứa, vợ chồng lão ta cảm
thấy dư thừa trong môi trường tổ ấm kia nên bèn quyết định "ra
riêng". Nhưng con cái rộng lượng nghĩ tình cha lụm cụm tay yếu chưn
mềm, mẹ già nua hom hem yếu đuối, trơ trọi nơi xứ lạ quê người nay
lại phải sinh cô sống độc, tiếng nước người bập bẹ dăm ba chữ, lắp
ráp một đôi câu thì ăn với ở làm sao nên cũng chẳng đành. Thôi thì
nhà còn rộng, mời cha mẹ cứ tiếp tục chung sống đến đâu hay đó. Một
điểm son của con cái thời tỵ nạn lưu vong, mà cũng nhờ phước đức ông
bà để lại cho cặp vợ chồng già kia.
Thói thường ở những nước văn minh tiên tiến - một thói thường rất
được những cô cậu của "dân Việt tạm cư" lấy đó làm chỉ tiêu - những
cặp vợ chồng son không thích chung sống với ông via bà bô mà muốn
thoát khỏi vòng cương tỏa để được tự do trăm phần trăm. Tự do hành
động, tự do đi lại, tự do ăn nói, tự do yêu đương, thậm chí tự do
cãi cọ và tha hồ nguyền rủa, chưởi cha mắng mẹ nhau nữa. Tuổi trẻ có
lý của tuổi trẻ, nỡ nào lấy cái lẽ của tuổi già mà trấn áp, bắt
chẹt.
Duyên ấm tình êm thì sớm muộn gì cũng đi đến kết quả cụ thể là sinh
con đẻ cái cho vui cửa vui nhà, cho ông bà có cháu bế cháu bồng, cho
tổ ấm vui lên, cho dân số gia tăng, cho mái nhà thêm rạng rỡ. Vì
theo nội dung trong bài thơ nổi tiếng của Victor Hugo thì:
Khi bé chào đời, gia đình hoan hỉ,
Vỗ tay reo mừng. Mắt sáng long lanh,
Bé dịu hiền nhìn quanh nhìn quẩn,
Vầng trán u buồn bỗng rạng rỡ vui tươi.
Khi trẻ thơ xuất hiện thì bao nhiêu ưu phiền cũng tạm gác lại để đón
niềm vui, một niềm vui đem ánh sáng rực rở đến cho gia đình.
Trẻ thơ là buổi bình minh đang lên, soi sáng tâm hồn người luống
tuổi như reo rắc nắng vàng lên cánh đồng hoang, ngào ngạt hương thơm
của vô vàn hoa tươi buổi sáng. Cái nhìn thiên thần của bé đầy ấp
những dịu hiền vô tận và đôi bàn tay bụ bẩm thánh thiện của bé quờ
quạng hư không, muốn nắm lấy cuộc đời, không để cho nó vẩn đục vì
nham hiểm và hung bạo.
Bé thơ chẳng khác nào cánh chim bồ câu yêu thương trìu mến đem đến
cho ông bà một bóng hình của ngày mai, dù cho tương lai kia có là
cõi chết. Xin Thượng Ðế ban hồng ân cho bản thân, cho những người
thương yêu, anh em, giòng họ, bạn bè và, thậm chí cho kẻ thù nữa,
khỏi phải nhìn thấy cảnh mùa hè thiếu hoa tươi thắm, lồng son vắng
bóng chim xanh, tổ ong hoang vắng và ngôi nhà không bóng bé thơ.
Như vậy là hai ông bà, chẳng có công trạng gì mà khơi khơi thăng
chức nội ngoại ngang xương. Chỉ được chút thành tích là trót làm
cha, làm mẹ, dù không hoàn hảo và đầy đủ bổn phận, vì sụp lỗ tỵ nạn
lưu vong. Thôi thì lấy công chuộc tội, hạ quyết tâm cao làm tròn
nhiệm vụ, giữ đúng chức năng của ông bà.
Mà làm ông làm bà ở một môi trường lạ hoắc lạ huơ, không ăn nhập gì
với truyền thống thì đâu phải dễ. Theo truyền thống dân tộc mình thì
dưới một mái nhà đôi khi "tứ đại đồng đường", hòa bình chung sống
hai ba thế hệ, cùng chung ngôn ngữ, trên dưới một thói quen, một
phong tục tập quán. Thành thử ra lão ta phải đi lục thư viện, đi bới
nhà sách, tìm cho bằng được tài liệu chỉ cách làm ông làm bà cho
đúng cách với xứ sở địa phương.
Làm ông làm bà nơi cõi tạm dung khó ơi là khó, khó hơn thuở làm cha
làm mẹ một trời một vực. Ðã mất đi rồi cái không gian, cái khoảng
môi sinh trong đó ông bà cháu chắt khám phá lẫn nhau trong thích thú
để cười cùng cười, khóc cùng khóc, cùng nhau hò hát, cùng nhau vui
chơi, cùng nhau nhảy múa...
Chức phận ông bà, trên mặt đẳng cấp gia đình là đương nhiên rồi đó,
nhưng ở bình diện ngôn ngữ, trong cung cách địa phương, trên địa bàn
sinh sống, có những điều nghịch ý bên này, xúc phạm đằng kia, mặc dù
nó là đương nhiên, hợp tình, hợp lý cho một bên đương sự.
Phải làm sao giữ cho được vị trí đúng đắn của ông bà, vì tuy là cháu
của ông bà nhưng trước tiên và nhất thiết là con của ba mẹ. Dù cho
tình thế ưu tiên đó của bé thơ đôi khi được chấp nhận với nhiều trăn
trở. Làm thế nào giữ được khoảng cách tối ưu mà khỏi đâm ra hờ hững
hay lấn lướt. Làm sao tiếp tay, giúp ích được cha mẹ của bé một cách
tốt đẹp mà không khi nào dồn bậc cha mẹ kia vào hàng thứ yếu?
Ðó là chưa kể nạn ngôn ngữ bất đồng. Trẻ con tiếp thu ngoại ngữ thật
nhanh chóng và dễ dàng, trông khi ông già bà lão thì cứ chậm rì rì,
đầu óc gần như ngoan cố, dị ứng và kỵ mặt chữ nghĩa xứ người. Lòng
cứ nhủ lòng, già cả rồi học với hành gì nữa tốn công mất sức, liệu
đường đời có đủ dài để mà sử dụng cho bõ công?
Nên chi, ngày đêm, tháng này qua năm nọ, chỉ rặc xem phim Hồng Kông,
phim Tàu chuyển âm Việt ngữ, một thứ tiếng Việt lơ lớ lai căn, kiểu
Ba-Tàu Chợ Lớn. Do đó chuyện trò với cháu nội, cháu ngoại thì chúng
cứ ngơ ngơ, tưởng chừng như ông bà nói khơi khơi, nói không đối
tượng. Trong khi ông bà lại cho rằng con nít con nôi đời bây giờ
cứng đầu, cứng cổ, dạy bảo không nghe hoặc nghe mà cứ phớt lờ coi
người lớn như "nơ-pa". Thế là nạn dị biệt thế hệ càng ngày càng trầm
trọng thêm ra, tình cảm giữa ông bà và thế hệ thứ ba đâm ra có
vấn
đề.
Cuộc đời tỵ nạn lưu vong tự nó đã là một điều bi đát, may mắn được
làm ông làm bà thì ta nên chớp lấy thời cơ mà biến họa thành phúc,
để cho kiếp người "di tản buồn" khỏi biến thành bi kịch đau thương.
Trên cõi đời tạm bợ phù du này, cuộc sống bi thảm hoặc rạng rỡ đều
tự ta cả. Muốn vui thì nó vui, muốn buồn thì nó buồn, miễn là ta
biết tự mình chấp nhận lối sống theo cung cách nào đó, dẫu không
thuận lòng ta.
Một chiều thu lộng gió, lá vàng thi nhau chạy đua trên đường từ
trường mẫu giáo về nhà, nắm chặt trong tay gân guốc một bàn tay bé
nhỏ căn phồng mạch sống, lão ta cảm nhận được cái dòng luân lưu giửa
thế hệ này với thế hệ khác. Lần bước đi theo bé thơ tung tăng chạy
nhảy sau giờ tan học, lão ta âm thầm cảm thấy tự hào về cái hình
bóng tương lai của chính mình trong chuỗi ngày tà huy, về chiều bóng
xế. Huy chương nào cũng có mặt sấp của nó, làm ông làm bà trong cõi
tạm cư phải nhẫn nhục, hy sinh và thông cảm nhiều mới mong cảm nhận
được cái thanh thản thần tiên của một "chàng TÔN". Nhưng "chàng TÔN"
là gì mới được chớ? Giản dị thôi, là tên gọi kết hợp những chữ cái
đứng đầu của ba từ T, Ô và N, nghĩa là Thằng
Ông Nội.
Phan Quân
(Trích
"Tâm Tình Của Nội")
|