Chuyện xưa tích cũ:
Thuở ấu thơ
Lời dẫn.-
Qua bài này, tác giả kể lại thời thơ ấu của mình, một cậu bé nhà
quê ở Thủ Đức, một địa điểm cách xa Sài Gòn chẳng bao nhiêu. Nhưng
bài này nói lên cái mộc mạc của miền thôn dã rất ư là quê mùa, gần
thành phố lớn của Nam Kỳ thời 1912, dẫu là đất thuộc địa của Pháp.
Vì vậy, chúng tôi muốn ghi lại cho khỏi quên cảnh sống xa xưa của
một đất nước lệ thuộc, bị bóc lột nhiều hơn là được khai hóa.
* * *
Bà đi có cặp rắn trun,
Bà về có cặp rồng mun đưa Bà
Tôi
chào đời trong một đêm vào cuối năm Nhâm Tý (1912). Theo phong tục ở
làng là nên chờ một thời gian coi ra sao đã rồi mới đi khai sanh,
rủi ma quỷ gì bắt em bé đem đi thì sao? Như vậy, khỏi mất công đi
tìm ông chánh lục bộ để khai tử. Nên chi, ngày sanh chánh thức của
tôi nhằm tháng tư năm 1913.
Khi trong làng có ai chuyển bụng thì người ta chạy tìm má tôi. Bà cố
gắng đỡ đẻ dựa theo kinh nghiệm ông bà chỉ dạy. Đến phiên bà sanh
thì chính bà phải dùng một miếng vỏ tre, vạt ở hàng rào nhà tôi, bén
như lưỡi dao cạo, để cắt cuốn rún. Tôi lọt lòng với một cái bọc màu
tía, má tôi cho biết đẻ bọc điều là điềm lành.
Khi chiến tranh 1914 bùng nổ, Anh Bảy tôi tới tuổi đi lính, nghĩa là
phải "trả nợ máu", phải làm bia đỡ đạn, hoặc phải làm kẻ giết những
người vô tội. Hương chức trong làng cưỡng bức gom bắt trai tráng
nông dân để đưa qua Tây. Ai chống lại sẽ bị trói treo tòn ten trên
một cây đòn to, giải tới nhà việc, như khiêng heo. Anh Bảy vô vườn
khóm trốn thoát, rồi xuống thành phố ẩn náo ở nhà Chị Năm.
Tháng Giêng năm 1916, từ một trăm rưởi đến hai trăm nông dân trong
vùng kế cận, trang bị bằng dao phát cỏ và một vài cây súng, tấn công
mấy nhà việc mà ban hội tề tổ chức "tự nguyện đăng lính". Tù trong
khám nổi loạn, cướp súng lính canh, nhập bọn với nông dân. Tình hình
sôi động lan rộng ở Nam Kỳ và vào tháng Hai bung lớn ra, nông dân
tấn công tới khám lớn Sài Gòn.
Đêm 14 rạng ngày 15 tháng Hai 1916, khoảng ba giờ sáng, ở Sài Gòn
một đoàn ghe xuồng chở lối ba trăm nông dân nổi loạn trang bị giáo,
kiếm và dao phát cỏ. Trước khám lớn, họ giết chết lính canh, đả
thương những lính gác khác. Tuy nhiên, đồn canh cũng cấm cửa được
quân nổi loạn và nổ súng vào quân xung kích làm cho họ phải tản mác
hỗn loạn, bỏ lại người chết và bị thương, nằm dài trên lề đường.
Ngay sau đó, trên một trăm năm mươi nông dân bị đưa ra tòa án binh.
Kết quả có ba mươi tám người bị xử tử, những người khác bị đưa đi
nhà tù Côn Đảo. Năm đó, trên một ngàn nông dân nổi loạn hoặc những
người khả nghi bị buộc tội dính líu đến các âm mưu nầy nọ và của
những hội kín. Lo sợ tình trạng bắt bớ và khủng bố, lúc đó lan tràn
trên khắp nước, tía tôi cẩn thận tháo cán dao phát cỏ ra. Đó là dụng
cụ mà ông thường dùng để tỉa bớt hàng rào gai tre quanh nhà.
Năm tôi lên năm, tía tôi, dẫu chỉ là một tiểu nông, cũng có thể cho
chúng tôi một mái nhà ngói, gần sát bên cạnh vườn khóm. Chúng tôi
đến đó quơ những cành cây khô để nấu ăn. Má tôi tước lá khóm ra lấy
chỉ may vá. Tổ tiên nhà tôi yên nghỉ dưới bóng những cành to lớn,
dang rộng ra của cây gỏ, nơi ngự của Thành Hoàng.
Một ổ chim cú sanh sống trong cái bọng cây cao khỏi mặt đất ba
thước. Mấy anh tôi đã bắt cú con đem vô nhà nuôi. Mấy đêm liền,
chúng tôi nghe cú mẹ kêu la thảm thương, nhưng tâm địa trẻ thơ của
chúng tôi có đếm xỉa gì! Tụi tôi bắt ếch, bắt cóc để nuôi cú con,
mấy cục thịt âm ấm dễ thương và háu ăn đó.
Dưới bóng cây của cuộc sống gia đình, má tôi lập ra một cái miếu nhỏ
thờ Bà, đấng linh thiêng phò hộ má tôi. Anh Tư, người anh bà con của
tôi làm thầy pháp trong làng, đứng ra làm lễ khai trương long trọng.
Khói nhang thơm hòa lẫn với khói trầm, đốt trong lư hương, hòa quyện
nhau, thanh thoát bốc cao lên không. Má tôi đứng van vái bên cạnh
ông thầy già, miệng thầy lẩm bẩm câu thần chú:
Bà đi có cặp rắn trun,
Bà về có cặp rồng mun đưa Bà.
Điều kỳ lạ, là thình lình có một con chim ngói trên cành bay xuống
và đập cánh vài cái rồi đậu lên vai ông thầy pháp. Vậy rồi "Sứ giả
của Bà Lớn" cất cánh bay đi. Có một đêm, má tôi thấy một ánh sao
sáng chói xẹt ngang qua bầu trời trong xanh rồi biến mất sau ngọn
cây. Má nói với tụi tôi rằng đó là rồng đen kéo xe đưa Bà Lớn về
nhà.
Tía tôi, một nhà nho, là hương chức trong ban hội tề của làng. Ông
giữ sổ bộ bằng chữ Nôm, một thứ chữ nước Nam cải biến từ chữ Hán.
Dưới mái nhà chúng tôi có tía má tôi, ba anh lớn tôi – Anh Bảy, Anh
Mười, Anh Mười Hai – và tôi, là út thứ mười ba. Anh Bảy là con dòng
lớn. Trong gia đình còn có ba con trâu, lực lượng lao động, sức cày
và sức kéo của chúng tôi. Tối đến, tôi nằm cạnh Anh Bảy, nghe ảnh
ngâm thơ bình dân Lục Vân Tiên rồi thiếp ngủ. Chính Anh Bảy dạy tôi
học vần và lấy tre chuốc nhọn dạy tôi viết những chữ "a", "â", "ê"
trên lá chuối.
Hồi còn nhỏ, tôi được giao canh chừng gà ăn thóc phơi trên chiếu
trải ngoài sân. Nằm dài dưới bóng cây bưởi trên sân, tôi ngắm nhìn
đàn kiến vàng nối đuôi nhau trèo lên thân cây. Bọn nó tha mồi về ổ
có hình quả bóng làm bằng lá dán thật khéo, treo lơ lửng trên cành
cây.
Đôi khi, ngất ngưỡng trên lưng con "Trâu Voi", với ống sáo tre mà
Anh Mười làm cho tôi, suốt ngày tôi chăn trâu trên đồng ruộng trải
dài trước nhà tới tận dòng nước xa xa phía dưới. Một cái thẹo dài,
còn thấy rõ trên cánh tay mặt, là chứng tích của một biến cố, tồn
tại mãi trong tôi như một giấc mơ hãi hùng.
Bữa đó vào lúc cuối ngày. Những đám mây đen nghịch to lớn nổi lên
cuồn cuộn phía chưn trời. Gió nổi lên càng lúc càng mạnh. Mấy bụi
tre cuối rạp đầu, cỏ ngã nghiên. Bỗng chốc trời xám xịt che tối mặt
đất. Cảm thấy giông bão tới, bầy trâu tự ý kéo về chuồng. Thình lình
trời đổ mưa như trút, gió giật từng cơn, vậy là trâu lồng lên chạy.
Hoảng hồn, tôi nằm bẹp xuống, bám chặt trên lưng "Trâu Voi". Gần đến
nhà, thay vì đi theo ngõ có hàng rào tre thường lệ, bỗng nhiên mấy
con trâu cấm đầu cấm cổ tông qua bụi tre dày đặc.
Mấy con trâu đâu phải ngu, linh tánh cho nó biết lấy ngã tắt để về
chuồng cho mau. Bị mấy nhánh gai hất khỏi lưng trâu, tôi té ngay
giữa bụi tre rậm đầy những gai nhọn. Trời tối đen, mưa to tiếp tục,
mắc kẹt giữa một mớ gai nhọn. Lo sợ, tôi nằm im chờ đợi. Một lúc
thật là lâu, cuối cùng từ xa có tiếng má tôi kêu: "Con ơi, con ở
đâu, con ở đâu?" Dưới ánh đuốc, cặp mắt vui mừng của má tôi và tiếng
reo mừng của anh tôi, cùng nhau lôi tôi ra khỏi mớ cành cây rối
nhằng đó.
Một đôi khi, có anh làm công người Mọi đến thăm nhà tôi. Anh ấy cỡi
ngựa đưa tin của Ông Cậu ở xa, tận Gò Dưa, cách nhà tôi mười hai cây
số. Anh làm công nầy là kết quả trao đổi giữa Ông Cậu với dân Mọi
trên cao nguyên Lộc Ninh và Hớn Quản, qua những chuyến đi bằng xe
bò, đem muối và cá mòi khô đổi nhựa mà họ lấy trong rừng sâu.
Chúng tôi thân mật kêu người làm công ấy là Anh Lo. Tôi thích gương
mặt hiền lành sạm nắng của Anh Lo. Dáng dong dỏng của con vật bốn
chưn màu nâu và cao đẹp mà anh cỡi, như thoát ra từ một truyện cổ
tích, làm cho anh em chúng tôi phải trầm trồ vì nó khác với con vật
mà chúng tôi thường cỡi, con trâu đen mập mà lùn. Khi con ngựa hí và
nhe răng ra giống như đang cười vang, vậy là chúng tôi cùng cười
theo. Nhưng lúc nào Anh Lo cũng phải từ giả chúng tôi lúc chạng vạng
tối. Đẹp tuyệt cái hình dáng thanh tao của người kỵ mã dong dỏng
cao, êm đềm đi dọc theo rặng tre!
Tía tôi đôi khi nóng giận nhưng cũng có tấm lòng quảng đại và thương
yêu con cái. Như có một ngày, vì thấy anh em tôi thích thú, ông về
nhà với một con ngựa, mượn tạm của một người bạn đôi ba ngày. Con
ngựa cũng đẹp như ngựa của Anh Lo. Với một sợi dây dài ở cổ, cột vào
một cây cọc, "người bạn mới" của chúng tôi âm thầm gậm cỏ mọc lưa
thưa ở miếng đất cạnh nhà, làm rung rinh đôi môi với tiếng kêu
brrờ...brrờ... ngộ nghỉnh mà tôi rất thích.
Tối đến, chúng tôi đem nó vô chuồng, trâu bỏ chạy dồn về phía bên
kia nhà, ngủ ngoài trời. Mấy anh tôi lấy hai thanh cây vuông, xỏ qua
hai lỗ của hai cây trụ, khóa cổng nhỏ vào chuồng. Với một cái vồ,
mấy ảnh chốt đầu thanh ngang lại bằng khúc cây nêm đóng chặt mấy cái
lỗ. Sáng ngày, theo yêu cầu của tôi, mấy anh đỡ tôi lên cao, dang
hai chưn ra đứng trên hai đầu cọc lối vào chuồng. Tôi bám chặt hai
tay vào xà ngang trên mái nhà. Mấy anh tôi kéo đòn ngang, con ngựa
chạy ra khỏi chuồng và a lê hấp, đúng lúc đó tôi buông tay rơi xuống
lưng nó. Tim đập thình thịch, tôi phải rơi ngay trên lưng ngựa đang
phóng một mạch ra sân, vậy là đít tôi đụng đất. Ngoái đầu nhanh nhìn
lại chúng tôi, con ngựa như chừng muốn nói: "Tạm biệt các em!" Vậy
rồi phóng nước kiệu, "người khách" của chúng tôi biến mất qua ngã mà
Anh Lo đi chiều hôm đó. Nhưng tía tôi thì yên tâm, vì con ngựa sẽ
trở về nhà nó chớ chẳng đi đâu hết.
Thời thơ ấu quê mùa của tôi chấm dứt khi tôi vào học trường làng năm
1920. Tôi còn thấy lại chưn trời đỏ rực lúc bình minh khi hai má con
tôi rời nhà đi đến cuối đường mù mịt. Qua khỏi thôn xóm, má con tôi
băng qua một cánh rừng. Tiếng hót của những con chim khuất trong các
cành cây làm xao xuyến nỗi lòng sợ sệt của tôi.
Thầy tôi là ông giáo Dõng. Đối với tôi, thầy to lớn hết sức và ngay
cả nụ cười của thầy cũng nghiêm nghị quá. Thầy ở trong căn nhà lá
màu xám, khuất sau hàng rào cây nhỏ có gai, cách mặt tiền trường
chừng trăm bước, qua con hương lộ trải đá.
Bên mặt ngôi nhà, có con đường cỏ mọc chạy hút ra đồng và má con tôi
theo con đường đó đến trường. Phía bên trái, là vài ba căn nhà lá
nhỏ khác, tối tăm và bụi bặm nằm kế bên nhà việc của làng, một ngôi
nhà cây cũ kỹ lợp ngói, mà mặt tiền có một mái hiên cột gạch quét
vôi.
Trường tôi - trường Chợ Nhỏ - phân biệt với những căn nhà lá khác
nhờ có vách ván quét vôi sơ sài với một hàng hiên che nắng chống mưa
trong giờ ra chơi. Bên trái là nhà lá của bác giữ trường già nua.
Toàn thể khu trường, nằm giữa cái sân hẹp, có hàng rào tre gai dày
đặt cành lá sum suê. Dọc theo hàng rào phía sau là những dãy hũ chứa
bằng đất nung hình trứng. Ra chơi, học trò đái vào đó và ông giữ
trường già lấy nước tiểu tưới mớ rau cải hiếm hoi của ông. Dưới ánh
nắng thiêu đốt, mấy chậu nước tiểu sau trường bốc mùi khai ngấy khó
chịu. Đi tiêu thì lũ học trò chúng tôi phải chạy qua phía bên kia
rào, chui vào bụi rậm.
Thầy Dõng phụ trách hai lớp, lớp nhỏ và lớp lớn. Tổng cộng lối ba
mươi đứa con nông dân trong xã chúng tôi và những ấp trong vùng. Giờ
chơi, chúng tôi có thể uống nước trong khạp để trước nhà ông gác
trường với cái gáo dừa tra cán. Có khi lu nước khô cạn, tụi tôi xin
nước ở nhà những người bán cá bên cạnh.
Vợ thầy Dõng bán gà vịt và rau cải. Mỗi sáng, đòn gánh lên vai với
hai thúng hai đầu, bà đi dọc theo đường mua gà, vịt, gà tây, dưa,
măng... của các bà nông dân đi chợ để sau đó bán lại cho những con
buôn đem đi Sài Gòn và Chợ Lớn.
Sáng nào, má tôi cũng thức dậy khi gà gáy cuối canh năm, đầu giờ
Thìn. Một đêm chia ra năm canh, áng chừng hai tiếng rưởi một canh.
Giữa canh ba là giờ Tý, tức là nửa đêm. Ở đằng nhà việc, những người
luân phiên trực canh, thường là những trai trẻ khỏe mạnh, do ban hội
tề chỉ định, cứ đầu canh là đánh ba tiếng lên cái mõ, làm bằng khúc
cây dài, rỗng ruột có khoét một cái miệng hình chữ nhựt, đặt trên
giá. Tiếng mõ vang đi rất xa. Khi có tai họa, hỏa hoạn, cướp bóc, ẩu
đả, v.v... người trực mõ đánh liên hồi để báo động làng xóm, cùng
với tiếng la ó của người bị nạn: "Làng xóm ơi, cứu tôi với!"
Lối năm giờ sáng là chúng tôi nuốt vội bữa cơm thứ nhứt trong ngày.
Chúng tôi đi học khi những tia nắng ửng hồng đầu tiên của buổi bình
minh ló dạng trước cửa nhà. Mùa mưa, trời thường bị mây che phủ, vậy
mà má tôi vẫn bắt chúng tôi đi học đúng giờ như thường. Tuy vậy, đôi
khi đang đi nửa đường, nghe tiếng trống ác nghiệt kia là biết rằng
đã trễ giờ, chúng tôi đâm đầu đâm cổ chạy hụt hơi.
Tiếng trống là dấu hiệu của giờ học và tan học, của lúc ra chơi và
khi hết giờ chơi. Cái trống bự màu đỏ được treo ở cây xà ngang cuối
lớp. Không có ai được cử ra để đánh trống. Cứ thầy giáo đưa ngón tay
làm hiệu là một trong những đứa học trò lớn nhảy ra đánh trống. Cái
trống đỏ, tôi trông thật khoái chí... Một hôm, nhờ anh tôi đỡ đứng
lên một cái bàn, tôi cầm lấy cái dùi cây đầu là một cục tròn, nhắm
ngay trung tâm hình vòng tròn mà đánh trống kêu vang dậy.
Thỉnh thoảng buổi sáng, chúng tôi đến trường thì gặp ngay một sự bất
ngờ khá khó chịu. Có kiểm tra vệ sanh! Đứa nào bị thầy bắt được sau
mang tai đóng hờm là phải trần truồng tập hợp lại ngồi chồm hỗm
quanh miệng giếng như những con cóc ốm nhom. Một đứa vạm vỡ nhứt
lớp, hai chưn dạng ra trên miệng giếng, lấy gào tre kéo nước giếng
lên xối xả ào ào lên những đứa bạn khổ sở kia. Nước lạnh làm cho tụi
nó phải rùng mình rồi sau đó run cầm cập. Hai bàn tay mảnh khảnh chà
lia chà lịa sau hai lỗ tai. Xong rồi nhiều đứa vẫn còn run rẩy. Lấy
hai tay chà xát mạnh mẽ khắp thân mình rồi bận quần áo vô. Mấy đứa
con gái tránh được nhục hình đó và bị nhốt trong lớp.
Tới mùa mưa, hôm nào gặp mưa lớn, giữa giờ học, đôi khi thầy cho
chúng tôi ra tắm dưới vòi nước từ mái nhà đổ xuống. Thiệt là những
dịp vui hiếm có, tha hồ trững giỡn... Một đứa bạn của chúng tôi bị
cắt cử lo nước nôi cho thầy giáo. Tới lui nhiều bận, nó đổ nước cho
đầy hết mấy cái khạp.
Một hôm, mấy anh tôi và tôi được thầy biểu đi kiếm củi nấu bếp. Cách
trường ba trăm thước, chúng tôi vào khu rừng nằm trên đường đi học
thường ngày. Tôi đứng canh chừng trong lúc mấy anh tôi leo lên cây
để bẻ những nhánh khô. Tôi nghe rõ tiếng cành cây gãy rắc một cái.
Bỗng nhiên, có bóng một ông già xuất hiện ở ven rừng. Tía chúng tôi!
Tôi sợ hãi đứng chết trân. Tía tôi hỏi:
- Mầy làm gì ở đây?
- Con chờ mấy anh đang kiếm củi cho thầy.
Tía tôi thấy mấy ảnh đằng xa đang cựa quậy giữa các nhánh cây. Tía
tôi vạch bụi rậm đi về phía mấy ảnh. Mấy ảnh vội vàng tuột xuống và
tìm cách tránh né để khỏi bị bạt tai.
- Nếu thầy giáo tụi bây muốn có củi thì nói với tao, tao đem cho mấy
xe. Tụi bây không được đi rừng nữa, leo cây có ngày té gãy tay què
chưn.
Từ đó về sau, chúng tôi được miễn nạn đi lấy củi.
Đôi khi thầy giáo cảm thấy buồn tình. Ông nhâm nhi vài ba ngụm rượu
đế. Chai rượu để trên kệ gắn vào vách ván, khuất sau tấm bản đồ. Sau
đó, nổi hứng thầy tới nhà chú gác trường đánh cờ, giao cho một đứa
học trò coi lớp. Một buổi chiều, khi thầy trở về, một trận đòn tới
tấp xuống mấy học sanh bị đứa canh chừng lợi dụng tố giác là nghịch
ngợm. Bằng nhánh cây cứng bẻ ở cây ổi gần hàng rào, giận xanh mặt,
thầy quất thẳng tay mấy đứa bị tố giác. Cảnh tượng đó làm tôi khiếp
vía.
Thỉnh thoảng, có một chuyện hơi khác thường xảy ra cho chúng tôi là
ông thanh tra tới. Hôm đó, vào giữa buổi sáng đẹp nắng, trong khi
chúng tôi đang chơi thì có một chiếc xe ngựa ngon lành ngừng lại bên
đường, ngay trước trường. Ông đánh xe, người An Nam, đi chưn không,
nhảy xuống đất trước tiên, gò cương lại để cho ngựa đứng yên. Sau
ông là một người, thân hình bó chặt trong bộ đồ Tây trắng toát, áo
ngoài có cổ khép kín, trịnh trọng bước xuống. Ông thanh tra Tuấn.
Như một bầy chim sẻ, tất cả chúng tôi kéo vô lớp. Ai vào chỗ nấy,
khoanh tay để lên bàn, đặt trên tập vở xếp lại. Một sự im lặng hiếm
thấy. Theo hiệu lịnh của thầy, chúng tôi đồng loạt đứng lên khi ông
thanh tra vào lớp. Đưa bàn tay mặt ra hiệu, ông thanh tra biểu chúng
tôi ngồi xuống. Ông là người An Nam nhưng nói tiếng Tây với thầy
giáo. Không có đứa nào trong chúng tôi hiểu được hai người nói những
gì. Ông đứng kế bên tôi, chẳng nói tiếng nào, lật vở tôi, móc ở túi
ra một ống nhỏ kỳ lạ, cho một ngòi viết lú ra. Ở trương cuối viết
bằng tiếng Việt, ông kẻ bên lề một chữ "VU" bí hiểm, rồi thụt ngòi
viết vô bên trong ống.
Trong giờ tan học buổi trưa, những trò nào nhà ở gần thì về nhà ăn
cơm. Mấy đứa ở xa, trong số đó có tôi, tản mác ra đồng cỏ, sau khi
đã nuốt vội gói cơm nguội với cá khô hay với táng đường, gói trong
mo cau khô mang theo từ sáng sớm trên đường đi học. Một đôi khi, tôi
băng qua miếng đất trống sau trường, tới chùa Phước Tường, kế đó
chừng vài trăm bước.
Giữa trưa nóng bức, tôi rất thích cảnh chùa yên tĩnh dưới bóng mát
cây cổ thụ. Trong chánh điện âm u, mát rượi và êm tịnh, một tượng
Phật thếp vàng ngồi ngự ở bàn thờ, hai chưn xếp bằng trên đài hoa
sen. Đức Phật, hai mắt khép lại, trầm tư mặc tưởng, nổi bật trên
toàn bộ những vị thần linh khác, vóc dáng nhỏ hơn tô điểm đủ màu hay
mạ vàng. Bây giờ, lần đầu tiên tôi biết được rằng chính đức Phật mà
má tôi đã van xin mỗi khi chúng tôi gặp chuyện chẳng may.
Tôi làm quen lần hồi với bối cảnh linh thiêng mà vài ba sư sãi trong
chùa dường như không biết sự có mặt của tôi. Trái lại, Thầy Trụ Trì
có để ý đến chú học trò nhỏ thường tới lui. Nhơn một chuyến đến thăm
của tía tôi, Thầy có đề nghị thâu nhận tôi làm chú tiểu, một đề nghị
mà mấy đứa nhỏ nào ở ruộng cũng ước ao và mong muốn.
Như vậy xém chút nữa đời tôi phải tu luyện khổ hạnh rồi. Người ta sẽ
cạo đầu tôi, biến tôi thành chú tiểu, học tập chữ nho để nghiêm nghị
đọc kinh sách thiêng liêng và chép sách lễ nhà Phật. Định mạng
nghiêm khắc sẽ đưa đẩy tôi theo bước chưn của Đức Thích Ca Mầu Ni
trên con đường thanh tịnh, chối bỏ cõi đời phù thế nầy, nơi mà mọi
ngưòi sống trên đời không sao thoát khỏi bốn cái khổ là sanh, lão,
bịnh, tử. Tôi phải luyện tập diệt dục, từ bỏ mọi ham muốn, trong khi
vượt qua biển khổ. Ngày nay, nghĩ lại, tôi phải rùng mình.
Một đêm nọ, Anh Bảy dẫn anh em tụi tôi đi chùa, đem theo rất nhiều
lễ vật, đồ cúng của những người giàu có thành tâm, để dâng lên Đức
Phật nhơn ngày lễ lớn. Đây là dịp hiếm có cho những nông dân già,
trẻ, cần cù ở những làng mạc lân cận tụ họp lại, gặp gỡ nhau, tán
tỉnh nhau và cùng nhau vui đùa ở nơi chốn thờ phượng. Trước bàn thờ
Phật, dưới ánh sáng lung linh của đèn cầy và trong khói bay cuồn
cuộn của trầm hương, từng nhóm người trẻ tuổi, mở to đôi mắt ngạc
nhiên nhìn xem bốn con vật tứ linh - Long Lân Quy Phượng - làm bằng
hoa quả và lá cây với màu sắc thiên nhiên rực rỡ, lại cử động được
bằng cái máy được giấu kín.
Hàng đống trái cây, kẹo bánh đủ màu, lễ vật được săp xếp vén khéo,
khi cúng xong sẽ được phân phát cho mọi người trong nỗi vui tươi hân
hoan. Đến khuya, trên đường về, Anh Bảy cắt nghĩa cho tôi bài thuyết
pháp của Thầy, nhưng đầu óc tôi vẫn còn nhớ tới lễ cúng.
Một
hôm, nhà làng - một nơi nữa được tôi ưa thích, thường tôi đến đó để
tránh nắng gay gắt buổi trưa, cách trường chừng trăm bước – theo tôi
thấy, không còn là một chỗ để ẩn náo nữa mà đã biến thành một nơi dễ
sợ. Ở đó là trung tâm hành chánh của làng, nơi mà thỉnh thoảng ban
hội tề nhóm lại để bàn cãi và "phán xử".
Thường thường chẳng có ai, ông Cai Đình, người gác nhà làng, ở căn
nhà lá bên cạnh. Bên trong, là một căn phòng kín mít dùng làm nơi
giam giữ, dưới đất có một cây sắt dài có những cái cùm, được các ông
hội tề dùng làm chỗ đóng trăng những ai bị giam giữ, những nông dân
nộp thuế thân trễ hạn.
Một buổi trưa khi đến sân nhà việc nầy, tôi gặp một cảnh đánh đòn
trừng trị. Một người nghèo khổ, áo quần rách rưới, nằm sấp dưới đất,
ba người khác túm lấy tay chưn ông. Một tên nha hình, tay cầm cây
roi dài đưa thẳng tay đánh vô đít người nằm dưới đất hai chục roi.
Cứ mỗi lằn roi là người bị đánh co giựt và rên rỉ.
Ngồi đông đúc bên trong, các hương chức ăn mặc chỉnh tề, tỉnh bơ
chứng kiến cuộc trừng trị con người mà họ vừa kết tội. Các quan hội
tề tự cho mình có quyền can thiệp vào những cuộc tranh chấp giữa dân
làng, có quyền xét xử và trừng phạt những người nghèo tùy theo ý mấy
quan. Cảnh tượng hung ác dửng dưng đó đã in sâu trong lòng tôi suốt
đời.
Tôi còn nhớ lần nhà tôi bị tố cáo. Một buổi sáng sớm, nhơn viên quan
thuế Tây, Ta ập vào nhà. Họ lục khắp nhà từ trên xuống dưới, tịch
thu cái nồi lớn bằng đất nung với những dụng cụ linh tinh mà tía tôi
dùng để nấu rượu nếp cúng tổ tiên – dĩ nhiên là nấu ban đêm và giấu
trong rừng. Rượu công ty của nhà máy rượu Thủ Đức được bày bán ngoài
chợ thì làm gì uống được... Mình đâu thể nào dâng cúng lên ông bà
nhơn ngày giỗ kỵ.
Vì tía tôi bị bịnh nên bọn "đầu trâu mặt ngựa" đó bắt Anh Bảy tôi
đi, sau khi đã liệt kê số bàn ghế ít ỏi, ghi chép từng món một, cũng
không quên số gà trống, gà mái và heo. Muốn cho Anh Bảy, bị giam ở
khám Sài Gòn, được tha má tôi phải đem sợi dây chuyền mượn của dì
Lớn tới tiệm cầm đồ của Ba Tàu để lấy tiền nộp phạt, một số tiền làm
tụi tôi nghẹt thở luôn. Trước một điều chẳng may như vậy, không biết
cầu Trời khẩn Phật có làm cho má tôi được yên lòng không? Có thể
lắm.
Hồi đó, tía tôi bắt đầu bị chứng đau bụng co thắt kinh niên. Ông bỏ
hoang phế miếng ruộng ở làng bên cạnh, gần nhà bác Tư, người anh của
tía. Má tôi cũng không kham nổi. Công việc chằm nón của bà để bán
cho nông dân không đủ mua gạo hằng ngày. Hai anh tôi thôi học ở nhà
phụ cày bừa, đập lúa, có trâu hay không trâu, cho những nhà nông
trong làng và quanh đó. Mình tôi còn đi học. Nhưng có lần tôi cũng
bị bắt buộc "bỏ học" để đi chăn trâu thế cho hai anh quá bận rộn.
Sáng hôm trở lại lớp, lòng buồn rười rượi, tôi bị thầy cho hai bớp
tai nẩy lửa, để phạt tôi về tội nghỉ học không có phép.
Chúng tôi gặp nạn thiếu ăn. Để trám đầy bao tử, chúng tôi phải độn
khoai vào gạo căn bản. Hết khoai, chúng tôi phãi vô rừng hái củ
nầng, một thứ củ cho chất bột có hình tròn, dây leo có gai. Muốn ăn,
má tôi gọt nó ra, sắt mỏng rồi ngâm vài ba ngày và thay nước nhiều
lần. Một hôm, tôi thấy tía tôi đi lảo đảo như người say rượu còn mấy
anh tôi và tôi bị bịnh. Vì củ nầng ngâm nước chưa được tới. Tai nạn
nầy làm tôi nhớ lại lòng tử tế của người bà con xa ở làng bên cạnh,
cách xa ba tiếng đi bộ. Ông thường cho chúng tôi "vay" thóc mà chúng
tôi phải đem xe bò tới chở về.
Sau hai năm trường làng, tôi đã biết chữ quốc ngữ. Cuối năm thứ hai,
tôi phải từ giả trường này. Ngày bãi trường, má tôi đem đến nhà thầy
tôi một con gà trống mập và bánh ngọt đủ thứ. Nhơn dịp nầy, thầy
giáo khuyên má tôi nên tiếp tục cho tôi "học hành" ở trường quận Thủ
Đức.
Lúc đó tôi chừng mười tuổi. Đi bộ đến trường mất khoảng một tiếng.
Ra khỏi xóm, tôi băng ngang một cái rừng, ở bìa rừng có một vũng
nước lớn đầy nhái mèn và mùa mưa thì đầy dẫy chuồn chuồn. Đường mòn
trổ ra con lộ trải đá, nơi có cây da to lớn, Cây Da Bà Hiếu. Cái cây
hiển linh đó dưới gốc đầy những Ông Táo, Ông Thần Vôi, thật ra là
những bình vôi hết xài, những cục đất nung, nám khói đen vứt bỏ ngổn
ngang ở dưới chưn.
Cách đó chừng năm trăm bước, tôi đi dọc theo rìa đất thánh, với
những cái mã kỳ quái xây đá xám, bên trên có cây thánh giá, nằm giữa
những cây cao su. Người ta kể cho tôi là mấy ông cha nhà thờ móc mắt
người chết cho mấy con chó. Cho nên, tôi bước mau lên vì ghê sợ
những hoang hồn lang thang và mù mắt đó. Những người "có đạo", mình
không nên đến gần vì họ thờ ơ chuyện thờ cúng người chết và ông bà,
để tôn thờ một ông thần da trắng treo trên cây thập tự.
Vốn từ lâu đã nghi ngờ người đi đạo, vì họ là con cháu của những ai
đã tiếp tay Tây xâm chiếm đất nước mình, nên óc tưởng tượng của dân
làng tôi càng thêm sôi sục và cứ giữ mãi một ý nghĩ thù hằn dai
dẳng. [...] Thái độ hận thù này làm tôi nhớ lại lời đồn đại cho rằng
bên Tàu có một hoàng đế bị một vết lở ở chưn không sao chữa được,
bèn hứa gả con gái cho ai trị được. Những danh y đều bó tay, nhưng
con chó trong triều chỉ liếm vết thương mà chữa được. Vì vậy cho
nên, hoàng đế mới bỏ con gái trên cái bè cùng với con chó thả trôi
xuống phía Nam, sanh con đẻ cái ra là giống man ri mọi rợ.
Chiều về, còn khủng khiếp hơn nữa. Cộng với nỗi sợ bóng tối hoàng
hôn của tôi còn thêm đám ve sầu núp kín trong những ngọn sao to lớn
bên lề đường, đồng loạt kêu lên inh ỏi. Một nỗi sợ mơ hồ tràn ngập
lòng tôi khi đi qua cây da Bà Hiếu. Và khi tôi đi dọc theo bờ vũng
nước ma quái ven rừng, lúc trời nhá nhem tối, tôi cũng lo sợ như
vậy.
Ở trường Thủ Đức, tôi được nhận vô lớp tư. Với thầy giáo Nai, một
con người hiền lành, học trò chẳng bao giờ bị thầy đối xử thô bạo.
Thiệt là một thái độ đặc biệt! Năm sau, tôi lên lớp ba, dưới quyền
ông đốc Thiệt, nổi tiếng nghiêm khắc. Sáng ra, khi ông đến sân
trường, học trò phải xếp hàng hai bên, khi ông đi ngang phải chấp
tay cuối đầu.
Trong lớp, khi vầng trán ông cau co nổi giận, thế nào chúng tôi cũng
lãnh đủ. Ông chỉ ngón tay, tựa như mũi tên, vào người có lỗi và quát
lớn: "Lên đây!" Người bạn chạy nhanh lên nằm sấp dưới chưn ông. Cấp
thời ông thẳng tay cho một trận roi mây giáng xuống lưng của thằng
nhỏ đau khổ, áo sống giở lên hết. Sự giận dữ hằng ngày của thầy
Thiệt làm hao hớt khá nhiều roi mây. Một bó lớn những cọng roi đáng
sợ này nằm phòng hờ trong tủ tập vở và sổ sách ở cuối phòng. Tất cả
chúng tôi ai cũng có thể lãnh hình phạt về bất cứ chuyện gì. Như
những đứa khác, tôi cũng không chạy đâu khỏi.
Thầy Ứng của chúng tôi, mới vừa tốt nghiệp Trường Sư Phạm, dạy lớp
nhì ít xài roi mây hơn nhưng biết sai vặt học sanh trong những
chuyện làm riêng tư. Căn nhà nhà nước cấp cho thầy nằm ngay phía sau
trường. Những lúc chúng tôi đang bắn đạn dưới bóng cây ngoài sân,
nhiều khi thầy biểu chúng tôi đổ đầy mấy khạp nước trong nhà tắm.
Từng cặp chúng tôi phải tới tận vòi nước công cộng. Bận về tôi đi
trước người bạn cao hơn tôi, thùng dầu lửa đầy nước, treo ở trên cây
đòn, hai đầu nằm trên vai chúng tôi đong đưa và làm trầy gót tôi rất
đau. Thầy Ứng cũng không quên chỉ cho tôi giặc và đánh trắng đôi
giày bố của thầy. Một vài buổi trưa sau bữa cơm nguội, chúng tôi
chạy qua lò đường kế cận được người ta cho mấy miếng đường mía vụng.
Một buổi tối, có điềm khủng khiếp cho má tôi là con chim cú đập mạnh
đôi cánh sà xuống giữa sân kêu lên inh ỏi rồi bay đi. Một đại nạn
cho chúng tôi. Đêm đó, tía tôi, bịnh hoạn từ lâu, đã qua đời. Ngày
nay, nhớ tới tôi còn cảm động vì tía tôi, cảm thấy gần theo ông bà,
trối lại với má tôi: "Má bầy trẻ, ráng xoay xở cho qua ngày tháng,
dầu sao cũng đừng đợ con!" Có lẽ tía tôi cảm thấy thưong sót cho số
phận của bốn đứa nhỏ, con của Trùm Nhứt, người láng giềng đau khổ
của chúng tôi. Vì không nuôi nổi tụi nó, nên phải cho mấy đứa đi
chăn trâu và ở đợ nhà giàu, bị họ hành hạ.
Đám
tang tía tôi, gia đình thỉnh một ông sư ở chùa trong làng cúng kiến
lễ tang theo nghi thức Phật giáo. Ngày hôm sau, một điệu nhạc đám ma
chói tai, do phường bát âm thực hiện - với trống, kèn, đờn nhị,
chiêng và mõ nhịp phách - mỗi lần gia đình hay người quen biết dâng
cúng lễ vật. Tôi ở cạnh má tôi và thật lòng cố gắng an ủi bà mỗi khi
bà than khóc. Ngày thứ ba bắt đầu đi chôn. Ông sư đi đầu, đoàn người
đi đám đưa tiễn người cha quá cố của tôi đến nơi yên nghĩ cuối cùng,
cách nhà chừng trăm bước.
Tía tôi nằm trong vuờn cây nhà tôi, dưới bóng cây gỏ lâu đời. Chôn
cất xong, ba ngày sau ông sư đến làm lễ mở cửa mã. Như vậy, để cho
tía tôi biết đường trở về nhà, có một bàn thờ dành sẵn cho ông. Má
tôi cúng cho tía mỗi tuần thất một mâm cơm. Đến kỳ một trăm ngày,
rồi đến giáp năm, ngày mười tám tháng mười một, gia đình tề tựu lại
và dâng lễ vật tưởng niệm. Chúng tôi không để tang lộ liễu bên
ngoài, một cái tang mà theo tục lệ sẽ chấm dứt trong lòng chúng tôi
sau khi mãn tang vào năm thứ hai.
Cha tôi mất đi rồi, trước cảnh bấp bênh của chén cơm cho ngày mai,
má tôi lại tiếp tục làm nón lá nhiều hơn nữa bán cho nông dân và tôi
cũng học làm với bà, còn mấy anh tôi cố gắng làm việc đồng án để cho
tôi có thể tiếp tục đi học.
Năm mười một tuổi, tôi bắt đầu học tiếng Pháp. Phải lội bộ xuống Sài
Gòn, cách Thủ Đức lối mười lăm cây số, để tìm mua cho được cuốn sách
cần thiết, Larousse élémentaire. Đó là thời kỳ đáng ghi nhớ của đời
tôi. Tôi phải rời nhà trước bình minh, trời còn tối đen. Đi một mình
trong bóng đêm và giữa ban ngày, vậy mà cảnh trí đồng ruộng bao la
trong buổi bình minh đầy phấn khởi không làm cho tôi thấy mệt. Và
cầu Bình Lợi đây rồi, tôi ngắm nhìn con sông Sài Gòn chứa chan ánh
sáng. Từ trước đến giờ, tôi chỉ biết con sông được biểu hiện bằng
một đường xanh dương uốn quanh trên bản đồ màu xám của tỉnh Gia
Định.
Sài Gòn, một thành phố đông đúc, tôi có đến đó một lần rồi. Tôi đã
đi theo tía tôi đến nhà thuốc nằm trước mặt khách sạn Continental ở
đường Catinat, hôm tía tôi đi mua thuốc tiêu, hy vọng có thể làm nhẹ
cơn đau bao tử của ông. Nhà sách Portail nằm ngay bên cạnh.
Xế trưa tôi trở về nhà dưới trời nắng chang chang, cuốn tự điển cặp
ở nách. Cứ mỗi lần dừng lại dưới bóng cây, tôi không làm sao cầm
lòng được, phải lật qua các trang một cách say mê, rồi ngạc nhiên
với những tranh vẽ, những hình minh họa, những cột chữ chứa vô số
những điều bí ẩn cần phải khám phá.
Cuối năm lớp ba, đến kỳ thi lãnh học bổng, thầy giáo tuyển lựa trong
lớp hai thí sinh là tôi và một bạn nữa lớn tuổi hơn. Trước ngày quan
trọng đó, Anh Bảy đưa tôi tới nhà Chị Năm ở Thị Nghè, để sáng hôm
sau tới tỉnh lỵ Gia Định ở ngoại ô phía Bắc Sài Gòn cho đúng giờ.
Những môn thi diễn ra ở trường Bà Chiểu.
Chiều hôm đó, trời nóng hầm toát mồ hôi. Chúng tôi đi dọc theo đường
Hàng Sanh tới Thị Nghè. Bỗng nhiên gió mùa nổi lên, cuồn cuộn những
đám mây bự tối đen cả trời đất. Giây lúc sau, thình lình những giọt
mưa to như những mũi tên bay nghiêng lao vào chúng tôi. Rắc một
tiếng! Cây dù Tàu trong tay tôi lật ngược, sườn tre gảy bật đưa ra
ngoài, cố giữ lại những miếng nóc dù bằng giấy tráng vẹc-ni màu xám
bay phất phơ theo gió. Chắc là điềm xui, cơn gió ác nghiệt nầy. Có
lẽ rồi đây học bổng của tôi cũng đi đời nhà ma. Hai anh em tôi tới
nhà Chị Năm ướt như chuột lột lúc trời tối, còn tôi thì lòng buồn
rười rượi.
Cuối cùng, tôi cũng trải qua cuộc thi tuyển và ở môn chánh tả Pháp
văn, tôi không quên chữ "S" của từ "torchis". Rồi chờ kết quả thôi.
Giữa lúc đó thì một trong mấy con trâu nhà tôi bỏ ăn, đi đứng lạng
quạng, nước mắt chảy ra vì đau đớn và mệt mỏi và, chúng tôi cũng
phải cầm nước mắt đem nó vô rừng hoang xa xôi bỏ cho nó chết.
Một tháng sau, thầy Hương Quản trong làng đòi má tôi, một bà góa
phải nuôi nấng ba đứa con, để điều tra tình trạng thu nhập. Cuối
cùng, mỗi ba tháng, người ta cấp cho bà hai mươi bảy đồng. Cả một
tài sản đối với một người đàn bà nghèo khó phải chật vật ngày đêm để
làm cho xong những cái nón lá trị giá một và hai cắc (một phần mười
và một phần năm của đồng bạc).
Ông đốc Thiệt, thầy cũ của tôi, bằng mọi giá muốn cho đông đảo học
trò của mình đậu bằng tiểu học. Vì danh tiếng của trường và nhứt là
của chính đương sự là đốc học của trường. Một buổi chiều, sau giờ
học, thầy đem chúng tôi, một người bạn và tôi, hai thí sinh bằng
tiểu học tương lai, đi Sài Gòn bằng xe ngựa, gọi là "xe hộp quẹt",
để lo "thu xếp" chuyện thi cử của hai đứa tôi. Trời tối khi chúng
tôi tới thành phố.
Chiếc xe đậu lại trên mép đường khu Dakao. Thầy biểu chúng tôi đợi,
rồi ông biến mất trong một căn nhà cách đó chừng trăm bước. Ánh
trăng bạc soi sáng nền trời. Con ngựa, được chú đánh xe thả lỏng, âm
thầm gặm cỏ bên lề đường và rơi vãi vài ba cục phân dưới chưn cột
đèn. Chúng tôi nói chuyện với chú đánh xe. Thầy trở ra, có vẻ chẳng
bằng lòng chút nào hết. Thầy chẳng nói gì với chúng tôi và ra dấu
cho chú đánh xe tra cương ngựa vô. Trên đường về, chiếc xe đu đưa
chúng tôi, thầy im lặng một lúc khá lâu, rồi như nổi xung thiên,
thầy chửi đổng: "Đấm c..! Họ chẳng thèm biết gì hết..."
Nói cách khác là ông đồng nghiệp của thầy ở Sài Gòn không đồng lòng
với thầy trong vụ toan tính này. Chắc rồi thầy sẽ liên lạc với các
thầy giáo khác phụ trách canh gác trong kỳ thi sắp tới...
Cuối cùng, qua bài thi viết cũng như qua hạch miệng, không có ai
"giúp đỡ" tôi hết. Vậy mà, theo yêu cầu của ông đốc Thiệt, má tôi
cũng phải trao cho ông phần của ông, gọi là để đưa cho những đồng
nghiệp của ông trong việc "giúp đỡ" cho tôi thi đậu. Tới ba mươi
đồng, nghĩa là một số tiền lớn đối với má tôi, bằng một số nón lá
đáng kể phải chằm.
Qua tháng kế tiếp, tôi dự thi tuyển học bổng vào trung học
Chasseloup-Laubat. Lại một phen chẳng may nữa. Khi điểm danh, tôi
không đem thẻ học sanh theo. Tôi bỏ quên ở nhà người chị họ nơi tôi
tạm trú, ở xóm Thủ Thiêm, bên kia bờ sông Sài Gòn. Thời gian tới lui
giữa trường trung học và nhà trọ - còn phải qua sông bằng ghe tam
bản nữa – làm tôi lo lắng.
Thêm một phen lại chờ kết quả. Kế đó là hy vọng, vì quan quận đòi má
tôi lên để điều tra tình cảnh. Có dấu hiệu cho thấy là tôi có thể
được thâu nhận. Nhưng đến kỳ tựu trường tháng Chín Năm 1926, lại một
người được tuyển chọn khác chuẩn bị nhập học trường
Chasseloup-Laubat, vì anh ta thuộc gia đình khá giả hơn. Cha má anh
ấy biết cách "chạy chọt" có hiệu quả hơn với các người thơ ký trong
những phòng sở Giáo Dục ở Sài Gòn, nên anh ấy được nhận.
Một cú choáng váng - lần đầu tiên đối với tôi - trước bức tường vô
hình đó... mà má tôi làm sao đủ sức để vượt qua. Chúng tôi rất thua
buồn và bối rối. Với bằng cắp bổn xứ, mình chỉ có thể làm thầy giáo
làng, mà tôi vừa mới mười ba tuổi! Thương tình, thầy tôi vận động
cầu may. Thầy bỏ tiền túi đưa tôi đến tư thục Huỳnh Khương Ninh ở
Sài Gòn, một trường nội trú đông nghẹt con ông cháu cha của những
dân bổn xứ có máu mặt. Thầy định xin cho tôi nhập học ngoại trú miễn
phí hoặc nội trú giá hạ. Như vậy thì dẫu sao cũng làm cho tôi lo
lắng. Làm sao má tôi có thể nuôi tôi ăn học ba bốn năm nữa? Nhưng
vận động không ăn thua gì và cũng uổng công. Không tiền, những người
buôn bán chữ nghĩa đâu có chịu mở rộng vòng tay.
* * *
Người
có ảnh hưởng quan trọng nhứt thời thơ ấu của tôi là Anh Bảy. Năm tôi
lên mười, Anh Bảy bỏ tay cày đổi qua tay mỏ-lết. Ảnh làm phụ thợ máy
ở đề-pô xe lửa Dĩ An, cách nhà chừng một giờ đi bộ.
Một tuần lễ trước Tết, cùng với Anh Bảy, chúng tôi đi giẫy mã. Hăm
ba tháng chạp, ngày đưa Ông Táo, ảnh dựng nêu ở cuối sân. Cái giỏ
nhỏ treo ở ngọn tre đựng lễ vật cúng Ông Táo lên đường về trời. Đêm
Giao Thừa, qua cây nêu đó, Ông Táo trở xuống trần để ngự trên bàn
thờ của ổng. Tùy theo sớ của Táo Quân, Ngọc Hoàng sẽ cho mình sống
dai hay rút ngắn tuổi thọ.
Anh Bảy cũng làm pháo tre cho lễ Tết của gia đình và cho bạn bè
trong làng. Tôi phụ ảnh cà rể khoai mì đốt cháy để lấy bột than. Ảnh
chỉ cho tôi cách phân lượng những thành phần thuốc pháo. Than, lưu
huỳnh, diêm tiêu, nhồi vào trong một cái hộp vuông vức bằng giấy bìa
cứng. Tôi học cách lấy lạt tre vót thật mỏng bó cây pháo thành hình
khối vuông vức đàng hoàng. Khó khăn là cách đặt ngòi nổ. Pháo tốt
hay xấu là tùy theo tiếng nổ vang dội có lâu hay không. Có lần, căn
nhà lá của anh tôi xém cháy khi hổn hợp thuốc pháo trong cối phát
nổ.
Khá lâu sau nầy, lúc tôi làm việc ở Sài Gòn, còn Anh Bảy làm thợ hồ
và ở đậu nhà Chị Năm bên Thị Nghè, vùng ngoại ô Đông-Bắc thành phố,
nơi tôi thỉnh thoảng đến thăm vì ảnh bị ngã bịnh sốt rét. Tôi cắt
được cơn rét cho ảnh bằng mấy mũi chích ký ninh. Chừng bớt bịnh,
bỗng nhiên ảnh trở thành thầy bùa trị ma quỷ.
Một buổi chiều, thình lình ảnh rời Thị Nghè cuốc bộ về làng. Thay vì
về nhà gia đình, ảnh đi thẳng tới Đình Thành Hoàng của làng bên
cạnh, đường đột xông thẳng vào hậu điện tôn nghiêm, vén màn ra ngó
thẳng vô mặt tượng thờ và nói chuyện tay ngang với tượng. Thành
Hoàng có tiếng rất linh thiêng và được kính nể khắp các tỉnh. Những
người thù nghịch nhau đưa ra trước bàn thờ để giải quyết cuộc tranh
chấp. Muốn khỏi bị hàm hoan, bên bị buộc tội vặn cổ một con gà trống
còn sống và thề với Thần Linh vặn họng anh ta nếu gian dối.
Cuộc nói chuyện lạ kỳ của Anh Bảy với vị Thành Hoàng, một hành động
hy hữu trong vùng, làm cho dân gian nông thôn nhìn thấy ở anh có một
hào quang thần bí và phép lạ đối với nhũng kẻ ác độc sống trong thế
giới vô hình. Thường khi ảnh làm thinh. Có lúc, câu chuyện của ảnh,
với cách lý luận khác ngôn ngữ bình thường, nói không dứt trước
những người thân quen. Nằm trên võng ngày đêm, chỉ ăn bữa trưa, chút
cơm với nắm ớt đỏ. Ảnh uống trà bằng cách để lá trà trên lưỡi rồi
rót thẳng nước sôi vào miệng.
Ảnh không ngớt làm cho má và các anh tôi bối rối vì hết sức lo ngại
về tình trạng của ảnh. Nhà tôi ra vào qua lối mở hai bên, còn cửa
trước đóng lại, thế bằng những thanh cây ngang chấn song, để cho có
không khí và ánh sáng. Ngày lên cơn, mặt mày hung hăng, bộ điệu mất
thần, hai mắt trợn trừng, Anh Bảy bỗng nhiên "bay lên". Nhảy một cái
qua ngang khoảng trống nhỏ dưới nóc nhà, trên cây đà ngang, ảnh
phóng từ trong nhà ra sân và biến mất như làn gió ra ngoài rẩy vườn
khóm.
Làm sao bây giờ? Anh Mười Hai thử đi kiếm ảnh nhưng vô ích. Cả nhà
lo lắng chỉ thở phào khi thấy ảnh bỗng đâu xuất hiện, chẳng hề hấng
gì, thoải mái, mặt mày thanh thản. Quần áo trắng của ảnh không một
chỗ rách, chưn đi không của ảnh chẳng chút trầy trụa sau lần nhảy
khó khăn xuyên qua những dây leo có gai và những mũi gai bén nhọn
của lá khóm.
Những lúc lên cơn lần hồi bớt đi theo thời gian, Anh Bảy bình tỉnh
trở lại như thói thường. Nhưng không còn là Anh Bảy của chúng tôi
như trước kia. Một người nông dân ở ấp bên cạnh rước ảnh để chữa cho
một người bị lên cơn. Ngay lúc ảnh tới nơi, người lên cơn hết vùng
vẫy, quỳ mọp xuống chưn vừa run rẫy vừa nói hà rầm. Như thể ma quỷ
gặp mặt thầy, con người đau khổ kia đã được giải thoát.
Kể từ hôm đó, dân làng thường coi ảnh không những là một thầy chữa
trị mà còn một thầy bói - giống như ông thầy đồ người Bắc ở xã kế
cận – và ngay cả một thầy pháp – như ông thầy đã đến nhà chúng tôi
khánh thành miếu thờ Bà. Ảnh làm cho những cơn đau biến mất, đem lại
thoải mái cho người ta. Rồi lần hồi, ảnh cũng hốt thuốc Nam, làm
bằng cây cỏ, cũng như thuốc Bắc, với sản phẩm của Tàu, giống như
những thầy chữa bịnh dạo thuờng thấy xưa kia. Lần lần, từ xa người
ta tới rước ảnh, kể cả từ những tỉnh xa xôi. Ảnh sống dản dị. Trả
công cho ảnh, thiên hạ chỉ cần cho ảnh chỗ ở và chén cơm đạm bạc.
Với người nghèo, ảnh giúp đỡ mà không đòi hỏi phần trả lễ gì hết.
Rất thường khi, ảnh đi bộ tới, người ta nhận biết ảnh từ xa nhờ vóc
dáng cao ráo sáng sũa, che cây dù trắng. Cách chữa trị của Anh Bảy
là một điều bí ẩn. Có thể, ông bạn thầy thuốc, chữa trị cho tía tôi
trong khi bịnh hoạn lâu ngày, có truyền lại cho ảnh một vài bí quyết
chăng?
Có thể anh tôi đã đọc được bản y phương tất yếu "Cẩm nang chữa trị"
dưới dạng "Ngư Tiều Vấn Đáp" của Đồ Chiểu, tác giả Lục Vân Tiên,
loại thơ ca bình dân mà ảnh đã thuộc làu? Càng có tuổi Anh Bảy không
đi đâu nữa. Người chủ tiệm thuốc Bắc ở Thủ Đức thường xuyên chứa
chấp ảnh, vậy là thiên hạ tới đó để được ảnh bắt mạch.
Phan Quân
(Phỏng dịch Chương "Enfance" trong quyển "Au
Pays de la Cloche Fêlée" của Ngô Văn, nxb. L'Insomniaque,
1966, 240 trang.) |