Trước đèn đọc
sách:
Điệu sáo chướng
tai
Lời
dẫn.-
Người thổi sáo là ông Võ Thành Minh. Hồi năm 1954, ông đã che chòi
ngồi bên bờ hồ Léman (Thụy Sĩ), thổi điệu sáo u buồn chống đối lại
việc Hồ Chí Minh ký kết hiệp định Genève chia đôi đất nước. Đêm đến,
ông chong đèn cầy đánh máy tâm thơ gởi cho Hồ Chí Minh lẫn Tổng
Thống Hiệp Chúng Quốc Huê Kỳ, để phản đối chiến tranh. Nhưng rồi ông
thiêu hủy hai bức thơ đó không gởi cho ai hết.
Qua quyển sách "Le Joueur de Flûte et l'Oncle Hô" – Viêtnam
1945-2005), nxb Paris-Méditerranée, mars 2005, 290 trang, Ngô
Văn, ví mình như người thổi sáo đó, viết ra một "...câu chuyện bên
lề lịch sử của nước Việt Nam thời hiện đại. Từ lúc Hồ Chí Minh nhập
cuộc chí đến hôm nay, tác giả vẽ nên bộ mặt thiệt, khác hẳn với luận
điệu "quốc doanh", của người lãnh tụ uy thế đầy tội ác và bọn hậu
duệ, lấy máu nhơn dân, dựng nên một Quốc Gia độc đoán, mượn ăn gian
nói dối làm cốt lõi ý thức hệ để khích động lòng dũng cảm chống đế
quốc. Qua thái độ hồi tưởng này, tác giả muốn đem công bằng trả lại
cho 'nhơn dân Việt Nam bé nhỏ mà anh hùng', đã bị Tập Đoàn cộng sản
Hà Nội đem ra hy sanh."
Nhơn chuyến về thăm nhà năm 1997, sau bốn mươi chín năm lưu vong,
ông đã thâu thập bằng chứng và những điều mắt thấy tai nghe để viết
nên quyển sách nầy. Những ghi nhận của ông chứng minh hùng hồn rằng
nền kinh tế mới theo kiểu "tư bản với cơ chế xã hội chủ nghĩa" càng
bốc lột người lao động nặng nề hơn, nhờ có một chế độ cảnh sát trị
nhuần nhuyễn và một kiểu công đoàn bị nhà nước khống chế.
Ông
Ngô Văn Xuyết (bút hiệu Ngô Văn) sanh năm 1913 tại
làng Tân Lộ (Thủ Đức). Năm 1920, ông đã tham gia phong trào chống
thực dân Tây, trong hàng ngũ Trotskiste. Tỵ nạn ở Pháp từ năm 1948,
ông làm thợ điện ở hãng Simca (Nanterre) và chuyên viên ở
Jeumont-Schneider, đến 1978 về hưu. Ông từ trần tại Paris ngày 2
tháng Giêng 2005.
* * *
Hồ Chí Minh, cũng biết lựa ngày chết, mất đi đúng ngày Quốc Khánh
của nước Việt Nam (2.9.1969) hồi 09g47 phút. Chẳng lẽ loan tin buồn
giữa ngày vui của cả nước, các quan chức của Hà Nội quyết định cho
"cha già dân tộc" của họ chết vào một ngày sau. Chút đó thôi cũng đủ
thấy các quan to trong "triều đình" Hà Nội muốn làm gì thì làm, ngay
những công chuyện quan trọng liên quan đến "bác lãnh tụ" của họ.
Đúng với kiểu cách của một "ông thánh" bên "tôn giáo Nhà Nước", Hồ
Chí Minh đã nghĩ tới việc tổ chức chuyện tôn thờ mình sau khi chết.
Trong di chúc, bản thứ nhì, do chính ông thảo ra một năm trước khi
chết, ông có căn dặn:
"Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức "hỏa táng". Tôi mong rằng
cách "hỏa táng" sau này sẽ được fổ biến. Vì như thế đối với người
sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều
điện, thì "điện táng" càng tốt hơn."
"Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành, 1 hộp cho
miền Bắc, 1 hộp cho miền Trung, 1 hộp cho miền Nam."
"Đồng bào mỗi miền nên chọn 1 quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mã,
không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây 1 ngôi nhà zản đơn, rộng
rãi, chắc chắn, mát mẻ, đễ những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ
ngơi."
"Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì
trồng 1 vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày cây nhiều thành rừng sẽ tốt
cho fong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên zao fó
cho các cụ phụ lão."
(Chép y bản viết tay của HCM)
Theo Bùi Tín thì sau khi ông Hồ nhắm mắt rồi, người Thơ Ký riêng của
cụ Hồ trình cho Bộ Chánh Trị 4 bản thảo di chúc. Tổng Bí Thơ Lê Duẫn
chọn và công bố trên báo "Nhân Dân" một di chúc đã được thanh lọc
rồi – mà ai thanh lọc và ai dám thanh lọc mới được chớ - không có
hai chuyện "hỏa tán" và "miễn thuế".
Hồ Chí Minh cũng muốn nông dân được miễn thuế một năm nhơn cái chết
của ông. Nhưng tập đoàn đầu sỏ Hà Nội còn lâu mới hoả tán ông Hồ lại
đem ướp xác như thời Pharaons rồi đem bày hàng trong lăng tẩm, như
Staline đã sử xự đối với xác Lê Nin. Cái lăng rùng rợn quỷ ám đó lại
được bọn hậu duệ dùng làm bùa phép để họ múa võ dương oai.
Còn yêu cầu miễn thuế cho nông dân, khi đổ bể ra thì các quan cho
rằng bấy giờ chưa hội đủ điều kiện để làm vậy. Thì ra, còn sống
"Bác" được người ta kính yêu dường ấy mà chết rồi "Bác" chẳng có kí
lô nào hết.
Đương thời, Hồ Chí Minh cố gắng dựng hình tượng của mình vượt hẳn
con người bình thường, cho nó trở thành huyền thoại. Sau khi ông
chết đi, đám hậu duệ, vì quyền lợi bản thân, đã đưa ông lên thành
bực thánh của "tôn giáo nhà nước". Tất cả những cái gì làm cho người
"cha già dân tộc" trở nên tầm thường đều bị xóa sạch.
Trong quyển "Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch", núp
sau bút hiệu Trần Dân Tiên, ông Hồ đã viết: "Chúng ta còn có những
người yêu nước anh dũng và vĩ đại khác. Chúng ta có Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám, và những người khác nữa. Nhưng chỉ có Hồ Chủ tịch
của chúng ta đã hoàn thành sự nghiệp mà các tiền bối chưa hoàn
thành. [...] Hồ Chủ tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và
lòng nhân từ của Người. Đúng như lời nói của Mặc Tử, nhà triết học
Trung Quốc đời xưa: "Nếu có lợi cho thiên hạ thì dù mình bị mài mòn
từ gót đến đầu cũng vui lòng". [...] Hồ Chủ tịch được nhân dân yêu
mến là do tính cương trực và lòng trong sạch của Người."
Ở Huế, trên đường Phan Đăng Lưu, có tấm bảng đá hoa cương ghi: "Nơi
đây trước kia là Tòa Khâm Sứ Annam. Ở đây, Anh Nguyễn Sinh Cung, Chủ
Tịch Hồ Chí Minh, đã tham gia phong trào nông dân Thừa Thiên-Huế
phản đối thuế má năm 1908." Vậy mà, trong sách tự thuật đời mình,
ông Hồ không ghi chuyện đó.
Năm 1911, Nguyễn Sinh Cung làm phụ bếp trên tàu "Amiral
Latouche-Tréville", chạy đường Hải Phòng-Dunkerque. Đến Marseille,
ông đệ đơn dưới tên Nguyễn Tất Thành xin học nội trú miễn phí "Ecole
Coloniale". Bên nhà, người anh Nguyễn Sanh Khâm, tiếp tay em van xin
ngài Thống Đốc Đông Dương, nhưng hoài công, hồ sơ bị xếp xó.
Ông Hồ tiếp tục theo tàu đi đây đi đó. Đến New York, ông lại tiếp
tục xin xỏ Tây cho cha già. Ngày 15.12.1912, ông đệ đơn lên ngài
Khâm Sứ Huế, tâng bốc đưa Khâm Sứ lên hàng "người bảo trợ ơn tình
của đất nước", với những dòng: "Thôi thúc bởi tình yêu của đứa con,
tôi dám xin Ngài vui lòng thuận cho cha tôi một công việc như là
Thừa Biện ở các Bộ hay Huấn Đạo Giáo Thư để, dưới tấm lòng nhân hậu
cao cả của Ngài, ông ấy có được kế sinh nhai”
Như vậy đó, một con người làm cách mạng, đi tìm đường cứu nước, mà
vẫn còn nặng đầu óc xin xỏ, nịnh hót nhà cầm quyền và quan lớn thực
dân, để mưu cầu lợi lộc cho bản thân mình và cho người thân, kẻ
thưong gia đình mình. Thảo nào ngày nay thiên hạ cứ nói là "học tập
noi gương Hồ Chủ Tịch" cũng chẳng đi đến đâu hết.
Sau Thế Chiến I, Nguyễn Tất Thành gặp Phan Châu Trinh bên Pháp. Năm
1919, lợi dụng Hiệp Ước Versailles giữa Đức và Đồng Minh, nhóm người
lưu vong gởi giác thơ nêu lên yêu sách của nhơn dân Annam. Phan Văn
Trường đã thảo ra giác thơ đó, được ký dưới tên gọi tập thể là
"Nguyễn Ái Quốc". Sau này, khi lấy tên gọi Hồ Chí Minh, ông cho rằng
chính ông là tác giả của giác thơ.
Để kiếm sống, ông Hồ làm nghề sửa hình, sau khi thọ giáo cụ Phan
Châu Trinh. Gia nhập Đảng Xã Hội Pháp, ông tham dự Đại Hội Tours năm
1920. Khi Đảng Xã Hội tách ra, ông gia nhập Đảng Cộng Sản, chi bộ
Pháp của Quốc Tế Cộng Sản (SFIC).
Phan Châu Trinh chủ trương nâng cao trình độ dân chúng để đấu tranh
đưa đất nước ra khỏi ách thực dân. Cụ Phan khuyên Nguyễn Ái Quốc nên
trở về nước, chớ ở nước ngoài mà viết báo nầy nọ thì thử hỏi nhơn
dân trong nước, chữ quốc ngữ còn chưa biết thì có bao nhiêu người
đọc được? Cụ Phan khuyên Nguyễn Ái Quốc: "Đừng trốn ở nước ngoài mà
rung chuông đánh trống nữa, hãy về nước, ẩn mình ở nông thôn, đánh
thức đồng bào. Hãy coi cái gương của Cụ Phan Bội Châu, nếu phương
pháp của Cụ mà thành công thì đất nước mình cũng chỉ là con ngựa
thay người cỡi thôi."
Y như rằng, từ 20 tuổi đến 50 tuổi, Nguyễn Ái Quốc lẩn quẩn ở ngoại
quốc, thi hành những chỉ thị của quan thầy ở điện Kemlin và của Đệ
III Quốc Tế. Đến 1941, Nguyễn Ái Quốc mới trở về Việt Nam để "hoạt
động ở quốc nội", với hy vọng cướp chánh quyền.
Năm 1923, được Cộng Đảng Tây đưa sang Moscou học Đại Học Lao Động
Phương Đông và năm 1924 tham dự Đại Hội V Quốc Tế Cộng Sản (QTCS).
Kỳ đó, Manuilsky chủ trương thành lập một đảng cộng sản cho Đông
Dương. Nguyễn Ái Quốc đến Trung Quốc để sinh sống, mà chỉ bán thuốc
lá và bán báo.
Cuối năm 1924, ông tháp tùng Borodine sang Canton. Trong bản phúc
trình thứ nhì gởi cho ban chấp hành QTCS, Nguyễn Ái Quốc viết: "Giờ
đây, tôi không là người Annam nữa mà người Tàu. Như vậy, tôi tên là
Lý Thụy chớ không còn Nguyễn Ái Quốc nữa..."
Ở bên Tàu, Nguyễn Ái Quốc tập trung lại những người lưu vong và
thành lập "Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội", với mục tiêu là
khuynh đảo Đông Dương thuộc Pháp. Cầm đầu Tổng Bộ Thanh Niên, Nguyễn
Ái Quốc lấy bí danh "Vương", đeo phù hiệu búa liềm của Nga trên ngực
áo. Trước khi về Đông Dương hoạt động, ông Vương (Nguyễn Ái Quốc)
bắt các đương sự phải long trọng tuyên thệ trước mộ Phạm Hồng Thái,
trên đồi liệt sĩ Hoàng Hoa Cương.
Với sự đồng ý của Nguyễn Ái Quốc, Lâm Đức Thụ chụp hình, ghi tên họ,
bí danh thậm chí tên họ cha mẹ của thành viên,... nên sau đó bị mật
thám Tây bắt hết. Các đồng chí Thanh Niên tiết lộ rằng tại Nguyễn Ái
Quốc nên gần 100 đoàn viên Thanh Niên đã bị liêm phóng Tây tóm cổ.
Khi mới đến Canton, Nguyễn Ái Quốc hoan hô sự hợp tác giữa cộng sản
Trung Quốc với Quốc Dân Đảng, gọi đó là "chánh phủ cách mạng". Thực
ra đó chỉ là thế lực tư sản Tàu, dưới quyền điều khiển của Tôn Dật
Tiên và Tưởng Giới Thạch. Ngày 12.4.1927, quân đội Tưởng Giới Thạch
đàn áp thợ thuyền nổi dậy ở Thượng Hải, Nguyễn Ái Quốc thấy rõ bản
chất phản cách mạng của Quốc dân đảng nên vội vàng rời bỏ Canton trở
lại Moscou.
Tháng 11 năm 1927, Komintern gởi Nguyễn Ái Quốc trở lại Paris để
phối hợp với đảng cộng sản Pháp khuynh đảo Đông Dương. Sau đó, ông
sang Thái Lan quy tụ những người Annam lưu vong và móc nối với hội
Thanh niên ở Canton. Tháng 1 năm 1930, ông trở lại Hồng Kông kết hợp
Thanh Niên, theo chỉ thị của Komintern. Ngày 3 tháng 2, 1930, ông tổ
chức lại thành Đảng Cộng Sản Việt Nam, với chương trình "giải phóng
dân tộc", chưa đá động gì tới quyền sở hữu và ruộng đất của giai cấp
tư sản.
Komintern bác bỏ chương trình nầy và áp đặt chương trình khác, "theo
đường lối đấu tranh giai cấp, cách mạng chống đế quốc và cách mạng
nông nghiệp", và ra lịnh lấy tên khác cho đảng, Đảng Cộng Sản Đông
Dương. Moscou cử Trần Phú, đệ tử cũ của Nguyễn Ái Quốc, làm Tổng Bí
Thơ. Qua thơ gởi cho Komintern, Trần Phú xin cắt đứt giao dịch qua
trung gian Nguyễn Ái Quốc vì ông nầy ưa chuyển chỉ thị của chính
ông.
Trong nước, sau khi quân lính bổn xứ khởi nghĩa tháng 2 năm 1930 bị
thất bại đẫm máu ở Yên Báy, do Việt Nam Quốc Dân Đảng kích động,
ngày 1 tháng 5, 1930, Đảng cộng sản (không phải cánh Nguyễn Ái Quốc)
tổ chức nông dân biểu tình chống thuế thân và lao dịch. Tây bắn giết
giải tán. Tháng 9, phong trào chuyển sang nổi loạn, với việc hình
thành các sô viết nông dân ở Bắc, tấn công đồn bót và ám sát công
an. Chánh quyền thực dân ném bom, tàn sát, đốt phá xóm làng, dìm
phong trào dưới biển máu.
Phong trào nông dân thất bại, phân chia Đảng Cộng Sản ra làm hai
nhóm đối lập, một ở Bắc, một ở Nam. Họ chỉ trích ban chỉ đạo Đảng
gồm toàn là trí thức và cán bộ do Moscou đào tạo nên có chiến lược
chiến thuật không hợp thời. Phong trào nông dân 1930-1931 kết thúc
với bản án tại Sài Gòn xử 21 người cộng sản Trotskiste ngày 1 tháng
5, 1933 sau đó ngày 3 tháng 5, xử 122 thành viên Đảng Cộng Sản phe
Moscou, trong đó 8 người bị tử hình.
Tháng 6, 1931, cảnh sát Anh bắt giữ Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông về
tội gián điệp cho Liên Xô. Ông khai tên Tống Văn Sơ, nói trại đi là
"tớ vẫn sống" nhằm trấn an các đồng chí của ông. Bị nhốt ở nhà lao
Victoria ở Hồng Kông. Trong tù, ông kết bạn với Già Lí, một tên cướp
tàn bạo tuổi lục tuần. Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, qua quyển "Những
mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" ông ghi: "Hai người bị
bắt làm ông chú ý hơn cả: một em bé học nghề mười ba tuổi đã giết
một em bé học nghề khác cùng tuổi với nó, vì em này sau khi đánh bạc
thua đã ăn cắp của nó một đồng bạc,
và một tướng cướp già bị bắt vì bị bạn tố giác. Người này độ sáu
mươi tuổi, hoà nhã, mưu trí, và gan góc, giỏi chữ Trung Quốc, làm
được thơ. Y tự cho mình là một anh hùng và cho ông Nguyễn là một anh
hùng. "Tôi là một con sư tử rơi xuống hố. Anh cũng là một con rồng
mắc cạn". Y vừa nói vừa thở dài. Nhưng y rất lạc quan nói tiếp thêm:
"Sư tử một ngày kia sẽ trở về làm chúa sơn lâm còn rồng một ngày kia
sẽ bay lên trời và làm chúa tể gió mây". Vì vậy nên khi đã trở thành
Hồ Chí Minh, ông lấy đó làm lời nói tiên tri về số phận vĩ đại của
ông. Tống Văn Sơ rời nhà tù Hồng Mao đầu năm 1933.
Đầu hè 1934, Nguyễn Ái Quốc trở qua Moscou và ở lại tới năm 1938.
Dưới tên gọi Line hay Linov, ông theo học ngành cán bộ ở trường Lê
Nin đến 1936, rồi Viện Nghiên Cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa
đến 1938. Ông dạy tại đại học Lao Động Đông Phương.
Thời kỳ nầy, Moscou đang bị chiến dịch khủng bố phe Bolshevick và
đàn áp nông dân của Staline tung hoành. Staline đưa hàng trăm người
cộng sản mà đương sự không ưa vào các trại tập trung. Sau mười năm
vắng mặt, Nguyễn Ái Quốc trở lại Moscou trong bầu không khí tràn
ngập máu đỏ và nỗi sợ hãi.
Từ 1935, Đảng Cộng Sản Đông Dương, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh
theo gót Đảng Cộng Sản Pháp, ủng hộ trắng trợn nhà nước thực dân,
bảo vệ Đông Pháp trước hiểm họa Nhựt Bổn. Đảng Cộng Sản Đông Dương
còn thôi thúc dân mua 33 triệu đồng trái phiếu chiến tranh và chấp
thuận bắt thêm 20.000 lính bổn xứ.
Tháng 7, 1935, Nguyễn Ái Quốc dự Đại Hội VII Komintern tại Moscou,
với tư cách cố vấn phái đoàn Đảng Cộng Sản Đông Dương do Lê Hồng
Phong cầm đầu. Đại Hội không đề cập gì đến việc thủ tiêu tư bản chủ
nghĩa mà cũng không nói gì chuyện các đảng cộng sản cướp chánh
quyền. Đường hướng mới là liên hiệp với các đảng tư bản trong các
mặt trận bình dân để "bảo vệ nền dân chủ chống lại Phát Xít." Đại
Hội VII tôn vinh Staline lên "chủ tướng, lãnh tụ của vô sản" và kết
tội phe "Bạch Vệ" Trotski, Zinoviev,... Komintern chỉ định Lê Hồng
Phong làm Tổng Bí Thơ Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Từ Moscou, Nguyễn Ái Quốc chào mừng sự thành công của Mặt Trận Bình
Dân ở Pháp và những việc làm của nó đối với Đông Dương, như đôi chút
tự do ở thuộc địa, thả một mớ tù chánh trị, báo chí tiến bộ được
phép xuất bản... Nhưng thực tế thì chẳng thấy gì, dân thuộc địa làm
gì được tự do, báo chí chữ Việt vẫn phải xin phép, ký giả bị nghi là
có ý khuynh đảo dễ bị đi tù. Thành ra Nguyễn Ái Quốc chỉ lạc quan
tếu.
Qua thời kỳ thanh trừng ở Moscou, ngày 6 tháng 6, 1938, Nguyễn Ái
Quốc viết thơ gởi Komintern: "Thưa các đồng chí, hôm nay là kỷ niệm
thứ 7 ngày tôi bị bắt giam tại Hồng Kông. Mà cũng là bắt đầu năm thứ
8 tôi ăn không ngồi rồi. Nhơn dịp này, tôi xin đệ đơn nầy lên yêu
cầu các đồng chí chấm dứt cho tôi tình cảnh đau khổ này. Xin gởi tôi
đi bất cứ đâu. Hay giữ tôi lại đây. Muốn làm gì tôi thì làm, miễn là
có ích cho các đồng chí. Điều tôi yêu cầu là đừng để tôi ở không lâu
quá và đừng bỏ rơi tôi, tách tôi rời khỏi đảng!" Động lòng, đồng chí
Vassilieva đưa Nguyễn Ái Quốc trở lại Việt Nam, đầu tháng 10, 1938.
Nhưng ông lại sang Tàu.
Mùa thu 1938, Nguyễn Ái Quốc gặp Mao Trạch Đông ở Tổng Hành Dinh Yên
An. Trở qua Quảng Tây, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đệ Bát Lộ Quân, phụ
trách nghe ngóng tin tức quốc tế. Ông điên tiết lên khi thấy phe
Trotskiste thắng thế trong cuộc bầu cử Hội đồng thuộc địa hồi tháng
4, 1939. Ngày 10 tháng 5, 1939, ông viết thơ gởi các "đồng chí yêu
mến" của ông ở Hà Nội, những bức thơ tràn đầy lời lẽ tức giận và vu
khống bọn Trotskiste Tàu, theo luận điệu tuyên truyền hãm hại của Vụ
Án Moscou.
Tháng 7, 1939, trong một phúc trình gởi Komintern, Nguyễn Ái Quốc
viết rằng: "Bằng mọi cách phải vạch mặt bọn Trotskiste để thấy rõ
bọn chúng là tai sai của Fát-Xít, nên cần phải tiêu diệt chúng về
mặt chánh trị." Như là một lời kêu gọi tàn sát, trước khi nắm được
chánh quyền hồi 1945.
Học đòi Mao Trạch Đông, tháng 5, 1941 Nguyễn Ái Quốc dựng lên cái
gọi là "Việt Nam Độc Lập Đồng Minh", kêu tắt là Việt Minh. Ông tập
hợp các cấp lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương lưu vong bên Tàu
về Pắc Bó, vùng biên giới Trung Hoa miệt Bắc Cao Bằng, để thành lập
liên minh, kêu gọi nhơn dân đấu tranh bên cạnh những thế lực đồng
minh.
Nguyễn Ái Quốc định cướp chánh quyền bằng một cuộc chiến tranh nông
dân. Việt Minh triển khai các toán quân du kích ở Việt Bắc (Thượng
Du Bắc Kỳ) và áp đặt chủ quyền tại mỗi vùng giải phóng. Và chừng nào
hoàn thành được như vậy Nguyễn Ái Quốc sẽ cướp chánh quyền trên toàn
quốc.
Dưới bút danh ngụy tạo Trần Dân Tiên, Nguyễn Ái Quốc có viết: "Đồng
minh gần nhất và có quan hệ nhất đến việc chống Nhật là Trung Quốc.
Vì vậy, phải tìm đến Trung Quốc." Điểm đáng chú ý là ở đây, ông lờ
đi một cách kín đáo danh tánh Tưởng Giới Thạch, người đã tàn sát thợ
thuyền ở Shanghai và Canton hồi 1927, mà cũng là người mà ông ước ao
được liên minh.
Ở một đoạn khác, ông viết tiếp: "Trong những người cách mạng ở Việt
Nam, ông Nguyễn là người hiểu biết về Trung Quốc và người Trung Quốc
hơn hết. Vì vậy mọi người đồng thanh cử ông Nguyễn đi Trung Quốc. Đi
bộ đến Trùng Khánh không phải là một việc dễ dàng. Nhưng ông Nguyễn
nhận lời ra đi. Để đánh lạc hướng bọn mật thám, ông Nguyễn lấy tên
là Hồ Chí Minh. Và từ đó, người ta gọi ông Nguyễn là Cụ Hồ."
Đó là lý do tại sao Nguyễn Ái Quốc lại có tên Hồ Chí Minh. Dưới bí
danh mới nầy, trên đường đi Trùng Khánh, sau mười đêm và năm ngày,
chưa kịp nghỉ chưn thì bị Tàu bắt khoảng tháng 8, 1942. Họ nhốt ông
vào nhà giam ở Liễu Châu, dưới quyền kiểm soát của Tướng Trương Phát
Khuê, quân quản Quảng Tây.
Tháng 4 năm 1944, định cho quân Tàu xâm nhập nước Việt để đánh Nhựt,
Tướng Khuê triệu tập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách),
dưới sự che chở của ông, dự một phiên họp tại Liễu Châu. Tướng Khuê
cho phép tên tù của ông là Hồ Chí Minh dự phiên họp vì biết rằng họ
Hồ có lắm tin tức hay.
Một chánh phủ lâm thời được hình thành, dĩ nhiên trong đó có Hồ Chí
Minh. Tướng Khuê đào tạo quân Việt Cách với ý đồ sẽ cho họ làm lực
lượng bổ xung. Sau 14 tháng ở tù, Hồ Chí Minh được tha và được Tướng
Trương Phát Khuê thương tình cho phép về Việt Nam. Ông đi Pắc Bó
tháng 8 năm 1944, tổng hành dinh của Việt Minh.
Không được Tưởng Giới Thạch chi viện, Hồ Chí Minh đi Côn Minh hy
vọng được đồng minh Huê Kỳ giúp đỡ. Ông xin tiếp xúc với Tướng
Claire L. Chennault, trưởng lưới OSS (Office of Stratégic Service).
Hồ Chí Minh đề nghị Việt Minh đưa tin và cứu hộ phi công Mỹ bị rơi
trong rừng, đổi lấy súng đạn và việc huấn luyện viên Mỹ đào tạo quân
du kích. Trong công tác nầy, Hồ Chí Minh mang bí danh "Lucius".
Nhờ chạy chọt và tiêu lòn như vậy, du kích Việt Minh được trang bị
súng ống để trở thành một lực lượng võ trang có thớ. Hạ mình như vậy
trước uy thế của Hiệp Chúng Quốc Huê Kỳ, Hồ Chí Minh khó vỗ ngực để
hứa hẹn với người Việt Nam cùng khổ những ngày mai đầy tiếng hoan
ca. Vậy mà, thời thế tạo anh hùng, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí
Minh vẫn tuyên bố Việt Nam độc lập.
Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, ông đã viết: "Người ta đến các cửa hàng
tìm kiếm. Cuối cùng người ta tìm thấy một bộ quần áo ka ki và đôi
dép cao su cho Hồ Chủ tịch. Ăn mặc như thế, Chủ tịch ra mắt đồng
bào. Một vị Chủ tịch đã trăm lần thay đổi tên, làm mười hai nghề
khác nhau, bị tù nhiều lần, một lần bị kết án tử hình, một lần có
tin là chết – nhân dân chờ đợi được thấy, không những là vị Chủ tịch
đầu tiên của nước Cộng hoà mới, mà còn là một vị Chủ tịch khác
thường." Rốt lại thì cũng là một loại vua theo chuyện cổ tích của
Hans Christian Andersen, khi có một cậu bé dám nói lên sự thật:
"Nhưng ông ấy đâu có quần áo gì đâu!", nghĩa là một chủ tịch nước
trần truồng!
Qua một thời gian khá lâu dài, từ ngày "Anh Ba" xuống tàu làm bồi đi
Tây (5.6.1911) chí đến khi "Cụ Hồ" đọc tuyên ngôn độc lập
(2.9.1945), người ta thấy ông tung tăng bay nhảy khắp nơi để gọi là
cứu nước. Trong quá trình ấy, thiên hạ cũng nhiều phen thấy rõ tài
xin xỏ, bon chen, kèn cựa, hất người này, đạp kẻ kia để đạt được mục
đích yêu cầu bản thân. Thậm chí, Nguyễn Ái Quốc còn mượn bút hiệu để
tự thuật đời mình, theo chiều hướng có lợi bản thân, chẳng chút nào
trơ trẽn. Nhưng, cái khôn khéo của ông là biết làm cho mình trở
thành bực thánh thiện trong "tôn giáo nhà nước".
Hết bài 1 -
xem tiếp bài
2
Phan Quân
|