Trước đèn đọc
sách:
Điệu sáo chướng
tai
Ngày 30.4.1975,
quân Bắc Việt tiến vào thành phố Sài Gòn như là một đạo quân xâm
lược. Bọn đầu sỏ Hà Nội sẽ áp đặt ở phía Nam một chế độ gọi là xã
hội chủ nghĩa thi hành tại miền Bắc từ 1954. Chế độ hộ khẩu kiểm
soát gắt gao quần chúng nhơn dân từ thành phố đến tận hang cùng ngõ
hẻm thôn ấp xa xôi. Hà Nội phân chia Sài Gòn - cải danh là thành phố
Hồ Chí Minh, rập khuôn theo kiểu đặt tên thành phố của quan thầy
cộng sản Nga - làm quận, chia ra phường, rồi xuống khóm tập họp một
số nóc gia.
Cấu trúc cơ sở là tổ dân phố gồm có một số gia đình, đứng đầu là tổ
trưởng, thường là cán bộ từ Bắc vô. Phụ tá tổ trưởng có 2 công an,
có nhiệm vụ theo sát dân tình vì bộ phận nầy nắm chặt sơ yếu lý lịch
của các người trong tổ. Hơn nữa, thành viên trong tổ còn có nhiệm vụ
theo dõi lẫn nhau, tố qua tố lại. Họ phải báo cáo lên tổ trưởng bất
kỳ động tĩnh nào trong chòm xóm láng giềng, mọi di chuyển, mọi người
lạ mặt từ đâu đến. Thành thử ra liên hệ chòm xóm láng giềng không
còn có nghĩa là "nhứt cận thân, nhì cận lân".
Nhà nước coi trí thức, văn thi sĩ, nghệ sĩ, thành phần quốc gia cũ,
những người đi đạo Phật, đạo Chúa cũng như Cao Đài, Hòa Hảo, đều là
thành phần nguy hiểm, tay sai của kẻ thù. Nhà cầm quyền mới lên gọi
những quân nhơn, cảnh sát, công chức chế độ cũ là "ngụy quân, ngụy
quyền". Họ xếp sĩ quan, nhơn viên an ninh, phản gián, tâm lý chiến
và chiêu hồi – kháng chiến
MTGP
quy hàng Nam Việt Nam – vào loại "ác ôn côn đồ". Những nhà kinh
doanh công nghiệp và thương mại bị xếp vào loại tư sản. Ai chống đối
lại đều bị coi là phản động hay phản cách mạng.
Ngoài chuyện hộ khẩu khắt khe ra, chánh quyền còn mở các cuộc hành
quân càn quét, lục xét, khám nhà khắp nơi ở vùng mới chiếm. Ở Sài
Gòn, những nhà tù trước kia không còn đủ chỗ để nhốt người bị coi là
"phạm nhơn", vì người ta lùng bắt ồ ạt. Nhà nước lấy khách sạn, rạp
hát, trại lính, thậm chí lấy cả cô nhi viện làm nơi giam giữ. Sau
khi thanh lọc, người ta đưa một mớ vào các trại tập trung
cải tạo. Chế độ trại giam lần hồi mở rộng ra trên khắp nơi trong
nước. Toàn quốc là một nhà giam khổng lồ.
Tháng 5 năm 1975, Ủy Ban Quân Quản Thành Phố ra lịnh cho quân nhơn,
cảnh sát và công chức chế độ cũ phải trình diện theo một khóa "học
tập chánh trị". Thời gian kéo dài 3 ngày cho binh sĩ, 10 ngày cho hạ
sĩ quan. Còn sĩ quan và công chức từ chánh sự vụ trở lên thì không
có thời hạn, mà chỉ khuyên đem theo đồ dùng cho một tháng. Ăn uống
có nhà thầu cung cấp. Nghe thật hấp dẫn, giống như đi học thiệt
tình, chớ không phải đi tù. Việt Cộng lúc nào cũng nhiều thủ đoạn,
họ sợ nói thiệt người ta sẽ lẫn trốn, không đi trình diện.
Thời gian trình diện đâu cũng được vài ba ngày. Trình diện tại các
trường học hoặc trung tâm nội trú đại học bỏ trống. Mấy đêm chờ đợi,
"thí sinh học tập cải tạo" được các nhà hàng của thành phố dọn ăn
hậu hĩ, đúng như thông cáo đã rao. Sau đó truyền hình còn làm phóng
sự "khóa sinh" ăn uống vui vẻ, có tướng nầy tướng nọ đã trình diện.
Toàn là tuyên truyền tâm lý chiến để lùa thiên hạ vô bẫy. Đêm chủ
nhựt cuối thời hạn trình diện, các chú "Ba Tàu" dọn ăn rỉ tai cho
biết là đêm nay mấy ông sẽ được đưa đi nơi khác, chẳng biết đi đâu.
Y như rằng, nửa đêm giờ tý canh ba, mấy tiếng súng AK nổ vang, phá
tan không khí đã im tiếng võ khí gần tháng qua. Bộ đội có mặt khắp
nơi trong hành lang, quát tháo lịnh lạc đánh thức và ra lịnh tập
trung "khẩn trương". Rồi từng toán, từng toán họ bị lùa lên xe tải
quân đội đậu dài trên đường. Rồi lại những tiếng súng hiệu lịnh cho
đoàn xe chuyển bánh chạy quanh co trong thành phố vắng người, không
biết để đánh lạc hướng ai, rồi cuối cùng hướng ra xa lộ Biên Hòa.
Mười ngày sau, biệt vô âm tín của thân nhơn, vợ con của "khóa sinh"
tập họp trước dinh thự nhà nước, muốn biết tin tức của chồng, con
,anh, em... Công an sử dụng biện pháp mạnh để giải tán. Trong khi đó
các "cải tạo viên" được đưa đi đầu nầy đầu kia qua các trại lính cũ
hay qua các cô nhi viện bỏ trống. Chỉ hơn một tháng bỏ hoang thôi mà
có những nơi cỏ voi lên cao khỏi đầu người.
Người cải tạo không được phép "liên hệ" trại nầy với trại kia, không
được gặp gở nhau "liên hệ linh tinh". Sinh hoạt trong trại được điều
hành qua tiếng kẻng, là tiếng dùi sắt đánh vào vỏ bom, vào niền xe
hơi, vào thanh sắt,... Một phát minh mới lạ của Việt Cộng đối với
người Sài Gòn vì chưa từng sống trong rừng.
Tù cải tạo phải tự tay xây cất thêm những ngôi nhà cần thiết cho
sinh hoạt của chính mình, như hội trường để học tập đông người. Họ
thâu lượm trên hiện trường bất cứ thứ gì cần thiết cho công việc
làm. Ngoại trừ những dụng cụ "hiện đại" như dao, búa đẽo, cưa, những
thứ khác thì họ được lịnh "khắc phục", nghĩa là làm sao được thì
thôi.
Tù luân phiên nhau, hết tổ nầy đến tổ khác, nấu bếp cho cả trại.
Trại nào đông người thì làm hai hoặc ba bếp. Chuyện làm bếp thì cũng
đơn giản thôi vì chủ yếu chỉ có cơm và chút rau luộc. Gạo và thức ăn
thì "hậu cần" của trại phát ra hằng ngày, tù liên hệ khiêng về nấu
nướng. Nhà bếp có khâu nhận lương thực thực phẩm, khâu nấu nướng,
khâu lấy và vận chuyển nước giếng, khâu lấy chất đốt. Khâu nầy phải
đi rừng lấy củi.
Gần mấy tháng trời đi tù cải tạo không thấy "học tập" đâu hết, chỉ
có lao động cật lực, làm những chuyện tạp nhạp linh tinh, đập đá,
dọn đường, phát quang,... Nghe thông cáo của Ủy Ban Quân Quản biểu
đem đồ đủ xài trong một tháng tù cứ suy diễn là học tập một tháng
nên cứ ngây thơ đủ một tháng là thấp tha thấp thỏm. Bị cộng sản
lường gạt dài dài! Rồi cũng tới ngày "lên lớp" học "chánh trị", qua
tám bài. Ngày "mở lớp" rất là trịnh trọng. Cán bộ trung ương về trại
khá đông, có mặt đông đủ trong buổi học đầu tiên. Học những gì, học
về đế quốc, về đế quốc Mỹ, về ngụy quyền, về chiến thắng lớn của
Đảng và nhơn dân ta, về truyền thống dân tộc ta, về chánh sách khoan
hồng nhơn đạo của Đảng và nhà nước, về bổn phận người có tội và về
lao động là vinh quang.
Nhưng trước hết, mỗi tù cải tạo phải "động não" (suy nghĩ) mà viết
ra bản "sơ yếu lý lịch", kể rõ nguồn gốc, liên hệ gia đình, bà con
thân sơ, bên nội bên ngoại, bên vợ bên chồng, liên hệ bạn bè, liên
hệ đồng sự đồng nghiệp,... Trại cho hai ba buổi để nạo óc viết ra
cho hết. Nhưng biết sao vừa ý cán bộ, vì cán bộ cai tù xem qua rồi
cứ nói là chưa đủ phải viết thêm.
Một sáng tháng 4 năm 1976, thay vì tập họp đi lao động thì cả trại
được nghe "trực tiếp truyền thanh" phiên xử một tù cải tạo dự định
trốn trại. Số là anh X đi rừng lấy củi, chui thơ cho một bác tiều
phu hẹn với vợ để trốn trại. Thơ đó an ninh trại bắt được nên X bị
đưa ra "phiên tòa" của trại xét xử. Loa loan báo tội trạng xong thì
người ta nghe một loạt súng nổ. Tù cải tạo tội nhơn kia có thật hay
không và có xử bắn thật hay không chỉ có trời biết. Hay là một trò
dằn mặt?
Ở trại Suối Máu (Biên Hòa), một phiên tòa cũng đã được thành hình để
xử một anh tù bị cho là trốn trại. Lần nầy có tù cải tạo được triệu
tập để dự phiên xử. Phiên xử được truyền thanh qua loa cho cả trại
nghe. Hôm đó toàn trại được nghỉ lao động để dự thính. Các quan
tuyên án xong, lịnh cho tù khán giả ra về, sau đó có nghe tiếng súng
nhưng có người chết hay không thì không biết.
Miền Nam lúc đó có khoảng trên 40 trại. Sau một thời gian, phần lớn
tù cải tạo được chuyển tập trung về trại Suối Máu (Biên Hòa, gần nhà
thương điên). Năm 1975, trại nầy quy tụ lối 5.000 người, chờ đi ra
miền Bắc. Phần lớn người ta dùng tàu chở ra tới Vinh rồi từ Vinh ra
miền Thượng Du Bắc Việt bằng xe lửa và xe tải. Những tù cải tạo cấp
tướng và đại tá cũ thì đi bằng máy bay C-130 lấy của Không Quân VNCH
và cũng do toán lái của Không Quân cũ. Nghe nói sau khi huấn luyện
kíp lái cộng sản xong rồi mấy anh em đoàn viên VNCH cũ lại phải khăn
gói lên đường học tập.
Ra tới miền Bắc rồi, tù cải tạo được phân phối đi nhiều trại trong
vùng rừng núi, dưới sự quản chế của bộ đội. Đa số ở trại nhà lá do
tù xây cất lần hồi. Sợ tù nghiên cứu địa thế rồi trốn trại nên lâu
lâu cứ cho chuyển trại. Như vậy, đoàn coi tù cũng được lợi là có
nhơn công xây dựng thêm nhà cửa, mở mang thêm đất trồng trọt. Việc
canh gác tù cũng nhẹ, vì giữa núi rừng khó trốn trại. Một tổ tù cải
tạo lối 20 người chỉ cần một tên bộ đội với súng AK.
Mỗi trại có nhiều ngành sinh hoạt. Nào đan lát, làm mộc, làm rèn,
canh tác trồng rau xanh để tù cũng như cán bộ ăn, đi rừng đốn cây,
lấy củi, đào ao đắp đập, thợ xẻ cưa gỗ rừng lấy ván,... Tổ "anh
nuôi" chuyên việc nấu ăn và nấu nước uống phát cho tù vì không thể
uống thẳng nước giếng.
Đứng đầu mỗi tổ là tổ trưởng, cũng là tù do cán bộ quản giáo chỉ
định, có nhiệm vụ điểm danh anh em tù rồi báo cáo lại cán bộ trước
khi đi lao động, và sau khi lao động trong rừng kéo về trại. Mỗi
tối, anh tổ trưởng chủ trì sinh hoạt tổ, kiểm điểm, phê và tự phê về
sinh hoạt trong ngày, nhận công tác từ cán bộ cho ngày hôm sau rồi
phân chia lại anh em trong tổ. Qua tổ trưởng, nhiều khi cán bộ quản
giáo còn truy hỏi tinh thần các tổ viên. Cho nên, anh tổ trưởng nào
quá "tích cực" thì bị anh em trong tổ cho là "antenne", là "chó săn"
hay là người tố giác.
Tiền mặt, đồng hồ, nhẫn vàng, viết máy, "cái đài" (radio cầm tay),
thánh giá đeo cổ, tượng Phật mặt giây chuyền, đều phải "đăng ký"
trại, chớ tù không có quyền giữ. Áo quần dân sự cũng vậy. Trại phát
cho quần áo tù màu nâu, màu xanh dương, màu xanh có sọc trắng,...
Nhưng vải thì mỏng te, đâu chịu nổi mồ hôi và lao động nặng nên tù
phải vá víu trông thảm thương. Khi tù phải có sáng kiến lấy bao bố
hay bao đựng cát của "Mỹ ngụy" mà may quần áo thì bị cán bộ phê phán
là "bêu xấu" chế độ!
Thuốc men đem theo bị trại bắt phải tập trung, đưa cán bộ cất giử
khi cần phải xin để uống. Có những trường hợp khẩn cấp như những
người lên cơn suyễn cấp tính nửa đêm thì đành chịu. Như vậy, có khi
phải phá giấc ngủ toàn trại mà đôi khi cũng chẳng tới đâu. Trong
trại thường có một anh tù được chỉ định làm y vụ, một thứ tay sai
của cán bộ "bác sĩ". Có anh quá tích cực, không biết tốt nghiệp
ngành dược hồi nào mà bày cho tù cải tạo ăn cám heo để trị bịnh
thũng, ăn bò cạp, ăn trùng đất nướng để trị bịnh rét? Đi tù cải tạo
là cả một thảm kịch, khóc không đổ lệ mà cười ra nước mắt!
Năm 1976, trước khi
phát động chiến dịch thanh lọc văn nghệ sĩ và nhà báo phản động miền
Nam, Cục Bảo Vệ Văn Hóa mở chiến dịch bài trừ văn hóa đồi trụy và
nhạc vàng (nhạc miền Nam). Ở Sài Gòn, những "nhà cách mạng 30" họp
nhau lại dưới sự cổ võ của một cán bộ miền Bắc, kéo xe ba gác đi
khắp đường phố, vô các tiệm sách, tiệm bán dĩa hát, vô từng nhà tư
nhơn, tịch thâu ấn phẩm, sách, báo, tranh, hình, băng dĩa nhạc,
nhưng không biết đem đi đâu? Cũng có vài trường họp tổ chức đốt công
khai những thứ đó. Lại một trò "phần thư khanh nho" như thời Tần
Thủy Hoàng bên Tàu. Nhưng, cộng sản Việt Nam mới tàn nhẫn chỉ nửa
bưóc vì họ mới đốt sách, chưa chôn sống học trò. Chiến dịch nầy kéo
dài cả tháng.
Đầu tháng 4 năm 1976, cộng sản bắt đầu trấn áp mấy trăm văn thơ nghệ
sĩ và nhà báo. Trong số nầy, có chừng mươi người bị họ đặc biệt chĩa
mũi dùi vào và coi như là ác ôn nhứt. Tài liệu "Biệt kích văn hóa"
của Trần Văn Giàu và đồng bọn vạch mặt chỉ tên Hồ Hữu Tường, Nguyễn
Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ, Võ phiến, Nhã ca, Duyên Anh,... Hồ Hữu Tường
bị bắt giam năm 1975, đến năm 1980 ra trại thì chết. Thi sĩ Vũ Hoàng
Chương bị bắt năm 1976, ốm đau bịnh hoạn trong trại tù, được thả ra
năm đó rồi cũng trút hơi thở cuối cùng với 61 tuổi đời.
Một đêm, công an lần lượt đột nhập vô nhà Chu Văn Bình, Mai Thảo,
Nguyễn Mạnh Côn, Nhã Ca và Trần Dạ Từ và bắt đem đi. Nhưng làm gì
còn Chu Văn Bình mà bắt vì ông nầy đã bị giết chết ngày 30.4.75,
trong chuyến di tản trên sông Sài Gòn. Như vậy không có cha thì con
thế, cộng sản tóm con gái của ông là Chu Vị Thủy, cùng với chồng là
Đằng Giao và đứa con về tội "hoạt động văn hóa thù nghịch với nhơn
dân".
Trường hợp của Nhã Ca thiệt chán ngấy
cho những
chữ "nhơn tình éo le" trên cõi đời nầy. Thời VNCH bà là cây bút nổi
danh, có nhiều sách xuất bản. Trong số đó bà lên án chiến tranh, tố
tham nhũng, đả phá văn hóa xã hội miền Nam suy đồi vì chạy theo Mỹ.
Nên chi tác phẩm của bà bị cấm. Một tạp chí văn học miền Bắc lúc đó
công nhận bà có óc "tiến bộ". "Giải phóng" miền Nam rồi, cộng sản
cho bà là phản động, là "biệt kích văn hoá". Đúng là cái lưỡi không
xương.
Trong tác phẩm "Giải khăn sô cho Huế" bà có thuật chuyện ông Võ
Thành Minh, người thổi sáo bên hồ Léman hồi hội nghị Genève năm
1954:
"Một toán ba tên bộ đội, tay súng AK nói với lão già:
"À, còn cụ. Xin mời cụ đi gặp cấp chỉ huy chúng tôi."
"Cấp chỉ huy mô?"
"Cấp chỉ huy vùng nầy. Tôi chỉ là tổ trưởng của nhóm ba anh em chúng
tôi canh gác quanh khu vực nhà nầy."
"Rứa hỉ!"
"Cụ đi với chúng tôi. Xin cụ mang theo mười lăm lon gạo."
"Ðem gạo mần chi rứa?"
"Ðem gạo để ăn. Học tập trong ba hôm rồi về."
"Cái chi mà phải học với tập?"
"Lấy cái bị hay cái túi mà đựng gạo. Ðem theo dư ra càng tốt."
"Họp chi mới được chớ?"
"Học tập, đã nói là học tập mà. Mời ông đi theo."
"Tao không đi."
"Giọng chắc nịch bất ngờ của ông Minh làm tôi chưng hửng. Chắc từ
hôm quân giải phóng tới "Huế tới giờ chưa ai dám nói một câu như
thế. Tôi thầm lo cho tính mệnh ông. Thấy không ai "để ý đến chiếc
hầm nầy nữa, tôi rời khỏi cái ngách nhỏ, ngồi tựa vào thành hầm. Tôi
không "nhìn rõ mặt tên tổ trưởng nhưng tôi nghe được tiếng hắn cười
gằn."
"Ông làm chi cho địch?"
"Ðịch nào?"
"Mỹ Ngụy."
"Giọng ông Võ Thành Minh ngạo nghễ:
"Nói gì tầm bậy vậy! Tao mà theo Mỹ, mi về hỏi ông Hồ Chí Minh nhà
mi đã dám nói với tao "giọng đó chưa. Tao không đi nghe không. Muốn
mời tao họp phải có giấy Hồ chủ tịch chớ cái "mặt trận giải phóng
của tụi bây mà ăn nhằm gì. Tụi bây biết tao là ai không?"
"Có lẽ tên tổ trưởng nể ông già gân thật, tôi không nghe hắn nói
thêm gì hết. Một giọng khác đỡ "lời:
"Bác đi theo chúng cháu tới gặp cấp chỉ huy. Gần đây là bộ chỉ huy
mà bác."
"Như sực nhớ tới hoàn cảnh, Trúc nín bặt. Oanh kể cho tôi nghe
chuyện ông Minh. Nó nói:
"Khi em lên em thấy ôn thắp đèn đánh máy. Ôn viết thư gửi ông Hồ Chí
Minh, gửi tổng thống Mỹ, yêu cầu ngưng chiến. Ôn viết : Nhà thờ Phan
tiên sinh ngày... tháng... năm... Khi tôi viết thư nầy gửi tới các
ông thì trên đầu tôi máy bay rền rĩ, súng đạn gầm thét long trời lở
đất, thành phố Huế chìm trong tiếng khóc than oán hận... Ôn viết rồi
ôn xé, ôn đọc cho em nghe, ôn nói ôn kêu gọi cả thế giới nữa..."
* * *
Năm 1975, ngay khi
chế độ do Mỹ ủng hộ bị tan rã ở miền Nam, người hùng của Hà Nội, Lê
Đức Thọ, chỉ định người em của ông là Mai Chí Thọ - trong dịp nầy
được thăng cấp tướng công an - phải chiếm cho được những vị trí hàng
đầu trong chánh quyền Sài Gòn. Anh muốn thì em làm, bất chấp những
ước muốn của cán bộ địa phương thuộc MTGP.
Đỗ Mười, Ủy Viên Bộ Chánh Trị, lãnh phần mở chiến dịch cải tạo tư
sản, là thành phần bị coi như ăn nên làm ra nhờ chi viện Mỹ, nhờ lợi
lộc chiến tranh, nhờ thương mãi và kỹ nghệ. Bây giờ phải đưa họ trở
vào "đường ngay nẻo chánh" của đường hướng "cải tạo xã hội chủ
nghĩa". Ở Sài Gòn, nhà nước tổ chức 11 nhóm hành động, gồm có bộ đội
với công an kiểm soát các phần tử có "máu mặt" và kiểm kê tài sản
của họ.
Giới tư sản bị "đánh", bị tịch thu của cải vốn liếng "được" cho ở
lại làm nhơn viên tại cơ sở của mình, nay đã được tập thể hóa. Còn
những loại tư sản khác thì tiền bạc, vòng vàng bị tịch thâu, nhà cửa
bị trưng dụng để làm chỗ ở cho lũ cán bộ từ Bắc vô Nam (trong những
năm 1975-1979, đã có 500.000 cán bộ ngoài Bắc vào Nam). Phần đông
những nạn nhơn bị chiến dịch chống "tư sản mại bản" đánh đều bị đày
đi khu "kinh tế mới" để làm cho "sỏi đá cũng thành cơm" như thơ Tố
Hữu đã nói. Nhưng họ đâu có cái tài biến hóa như Tố Hữu nên họ đành
làm "thuyền nhơn" để di tản sang vùng trời tự do văn minh mà trở
thành "khúc ruột ngàn dậm" để nhà nước cộng sản muối mặt o bế trở
lại.
Trong Chợ Lớn - thành phố tỉ muội với Sài Gòn, một thành phố tương
đối sầm uất của người Hoa - chiến dịch làm được một mẻ khá to vì ở
đó là ổ "má chính" (compradore), lắm bạc nhiều vàng, và sào huyệt
của các con buôn, của những nhà thương mại lớn, tiền vô như nước,
bạc vào chẳng khác nào thác đổ trên cao. Như vậy là, chiến lợi phẩm,
thiên hạ nộp cho trung ương một, còn dính tay dính túi phần còn lại.
Làm bánh đâu có cách nào cho bột khỏi dính tay?
Ở miền Bắc, chánh quyền Hà Nội cũng trục xuất những thợ mỏ người Hoa
của mỏ than Quảng Ninh, dân chài người Tàu trong vùng Vịnh Bắc Việt
và những "khách trú" làm nghề gốm ở Mong Cái. Ngay những Đảng viên
gốc Trung Quốc cũng không thoát khỏi nạn trù dập. Đó là hậu quả của
sự tuyệt giao giữa Bắc Kinh và Hà Nội, sau khi Mao Trạch Đông bắt
tay "hữu hảo" với Nixon, mà nhơn vật "Tứ đại" (bốn
cái "vĩ đại": Người thầy vĩ đại, Lãnh tụ vĩ đại, Thống soái vĩ đại,
Người cầm lái vĩ đại)
đã mời tới hoàng cung của mình hồi 1972, trong khi Hà Nội đương đánh
nhau với Mỹ.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn cũ, các "quan to màu đỏ" thay thế
những tên tư sản bị truất phế, cầm đầu các xí nghiệp bị đưa vào hợp
tác xã. Bọn đầu sỏ nầy phải sống kham khổ ngoài Bắc vì nền kinh tế
chiến tranh. Nay vào thành phố mang tên bác của họ, được vinh thân
phì da, nhờ đâu, nếu không biết và không chịu tham ô nhũng lạm và vơ
vét, mà cứ "cần kiệm liêm chính" theo tư tưởng của Bác.
Đất nước rơi vào một thời hỗn mang kinh tế vô tiền khoáng hậu. Mở
màn là thảm kịch "thuyền nhơn". Hàng ngàn, hàng ngàn người chạy ra
biển, thử thời vận, nhảy vào khoảng không, nhảy đại vào cửa tử, với
hy vọng đến được bên kia bến bờ mà họ hy vọng là ít khắc nghiệt hơn.
Vì họ thường tâm niệm rằng "cột đèn mà có chưn, nó cũng đi", huống
hồ gì mình là con người có óc, biết suy nghĩ. Và họ tự nhủ "thà chết
cũng sướng hơn sống với bọn cộng sản". Phần lớn họ chết ở biển khơi,
bị chìm tàu, bị cướp biển giết chết, hãm hiếp. Ai bị bắt trở lại thì
công an tước lột tất cả, cho vào tù hoặc đưa đi cải tạo, công an lại
được đút lót chạy chọt.
Có nhu cầu là có phương cách. Mai Chí Thọ, chúa tể công an phía Nam,
rồi Bí Thơ Thành Ủy Hồ Chí Minh, bày ra "Phương Án B", một chương
trình móc ngoặc mật kín để hốt những cây vàng của ai muốn vượt biên.
Có người phải mất đôi ba "cây" (lượng) vàng, có kẻ mất cả chục. Được
sự ưng ý của công an, họ đóng tàu tổ chức chuyến đi hay qua trung
gian những người Hoa phối họp với công an. Công an cấp chứng minh
nhơn dân với họ tên "ba tàu" ngụy tạo, khi ra khơi rồi thì vứt đi.
Thời bấy giờ, Mười Vân là cán bộ chủ chốt từ Bắc vô làm Giám Đốc
công an Tỉnh Đồng Nai quán xuyến chuyện đi chui. Trước khi đi, người
vượt biên phải lột hết vàng, bạc, châu báu, nhẫn, nữ trang, đồng hồ
bỏ lại hết. Về lâu về dài, chuyện làm ăn của y bị lộ nên Mười Vân
lãnh án tử hình và bị đưa ra pháp trường. Hình phạt của Mười Vân là
một cuộc thanh toán kiểu "mafia nhà nước" vì ăn chia không đồng đều.
Cho mình thì "phần sư tử" kết xù, còn thượng cấp thì phần nào thôi.
Chiến dịch "Cải tạo
tư sản nông thôn" được phát động trong những năm 1978-1979 quyết
định số phận của nông dân phía Nam. Theo tuyên bố của nhà nước thì
ruộng đất tịch thu của địa chủ, của phú nông phải được đem ra phân
chia cho bần nông và bần cố nông. Vậy mà, cán bộ Đảng thừa cơ chiếm
lấy ruộng đất ngon lành cho mình và cho gia đình mình. Lũ chiếm đoạt
của người đó trở thành bọn cường hào ác bá ở nông thôn.
Hai năm sau chiến dịch phân chia ruộng đất, nhà nước bắt đầu bắt
buộc nông dân phải vào hợp tác xã. Dùng áp lực hành chánh và tâm lý
chiến, bọn đầu sỏ ép buộc nông dân đưa đất đai, ruộng vườn, trâu bò
và nông cụ vào hợp tác xã và góp phần vô tập đoàn sản xuất. Rồi họ
thành ra những người làm công ăn lương cho họp tác xã, rập khuôn
công xã nhơn dân Trung Quốc. Đảng và nhà nước quyết định chiến dịch
khởi sự từ 1978 và hoàn tất vào năm 1980 trên khắp phía Nam.
Người dân đồng ruộng đầu tắt mặt tối ở hợp tác xã mà không được làm
chủ mảnh đất, trâu bò, dụng cụ canh tác, thậm chí giờ giấc của mình.
Lao động mà chẳng có một động cơ cổ võ. Họ làm việc theo lịnh của
cán bộ, những người có quyền có thế và ham trục lợi. Bọn người quan
lại, từ các bộ phận thanh niên, phụ nữ và bộ máy hành chánh xã thôn,
do Đảng đưa về nắm xã viên, rút rỉa ngân quỷ hợp tác xã, hưởng lấy
công lao mồ hôi xã viên.
Nông dân bất mãn, phản kháng. Đàn trâu bò, sức kéo chủ yếu của hợp
tác xã, chết lần chết mòn, đàn ông đàn bà phải thay trâu bò làm "máy
kéo". Lao động tập thể như vậy, với một tinh thần "kệ xác" tới đâu
hay đó, kiểu "sáng vác ô đi, chiều vác ô về" thì lấy đâu ra năng
suất cao? Nên chi mùa màng thất bát, lúa thóc vào kho chẳng có bao
nhiêu, nạn đói ăn đe dọa đến nơi. Một chánh sách kéo dài từ 1968 đến
1987, có rất nhiều triển vọng thất bại, nên Đảng và nhà nước bèn
tính chuyện "đổi mới".
Tháng 8 năm 1988, trên 300 người cày miền Châu Thổ sông Cữu Long kéo
nhau lên thành phố Hồ Chí Minh phản đối cán bộ địa phương vòi vĩnh
mè nheo, chống lại chuyện bắt bớ vô tội vạ và đòi rút ra khỏi hợp
tác xã và tập đoàn sản xuất. Ruộng đất trả lại nông dân, để cho họ
canh tác lấy rồi nộp tô tức cho nhà nước. Trên lý thuyết, ruộng đất
là của nhà nước, cho nông dân thuê mướn dài hạn và được quyền chuyển
nhượng cho hậu duệ. Hết người cày tới dân đánh cá Thuận Hải biểu
tình đòi dẹp bỏ hình thức tập họp sản xuất.
* * *
Tháng 4 năm 1975,
Pol Pot cầm đầu nhóm Khmer Đỏ, đứng lên hạ bệ Lon Nol, một Tướng
Lãnh được Mỹ ủng hộ, người đã từng truất phế Hoàng Thân Sihanouk hồi
tháng 3 năm 1970. Quân Khmer Đỏ tiến vào Nam Vang, đuổi hết dân
chúng ra ngoại thành.
Đảng
cộng sản Cam Pu Chéa thành lập Cam Pu Chéa dân chủ, với Khieu
Samphan làm
Tổng Thống
còn Pol Pot chỉ làm Thủ Tướng.
Pol Pot nắm quân sự và kinh tế. Ông bổ nhiệm người anh vợ Ieng Sari
làm Ngoại Trưởng, đồng chí Son Sen, Bộ Trưởng Quốc Phòng và người
liên minh của ông, Vorn Vet, vào Bộ Công Nghiệp. Nuon Chen, Phó Tổng
Bí Thơ
Đảng Cộng Sản
Cam Pu Chéa phụ trách "công việc của
Đảng và
công tác tuyên huấn". Non Suon, Bí Thơ
Đảng
của vùng bao quanh thủ đô kiêm luôn Bộ Nông Nghiệp. Còn vợ Ieng Sari
là Khieu Thirit, đuợc giao ngành Văn Hóa Xã Hội, phụ tá cho chồng bà
ở Bộ Ngoại Giao.
Pol Pot, tên khai sanh là Saloth Sar, sanh năm 1928 tại Kompong Thom
(phía Bắc Nam Vang). Năm 1948, ông được học bổng ngành vô tuyến điện
tại Paris. Ông sang Pháp năm 1949, sinh sống tại Paris và gia nhập
Đảng Cộng Sản Pháp. Trở về nước năm 1953. Trong kháng chiến, Pol Pot
cầm đầu Đảng Cộng Sản Cam Pu Chéa năm 1963, lật đổ Lon Nol và đánh
đuổi Mỹ năm 1975. Pol Pot thanh trừng những ai không thuộc phe cánh
và thanh lọc đẫm máu trong nội bộ Đảng.
Tháng 6 năm 1997, Pol Pot ra lịnh thủ tiêu Bộ Trưởng Quốc Phòng Son
Sen cùng bà vợ và mươi người trong gia đình của ông nầy. Nhưng đồng
bọn của Pol Pot là Kieu Samphan, Mok và Noun Chea cho lịnh bắt giam
Pol Pot về tội phản bội. Trong phiên tòa ngày 25.7.1997, Pol Pot bị
quản thúc tại gia, gần Thái Lan. Thời gian sau, bịnh hoạn ông từ
trần ngày 15.4.1998 ở tuổi 69.
Cùng với Pol Pot, Noun Chen nắm quyền lực tối cao – Angkar - đứng
đầu Ủy Ban Trung Ương
Đảng
– Angkar Loeu. Pol Pot đặt Hoàng Thân Sihanouk vào một chức vụ ngồi
chơi xơi nước, Nguyên Thủ Quốc Gia. Pol Pot xóa sạch dĩ vãng của Cam
Pu Chéa, giải tỏa thành phố và làng mạc, làm tan biến chợ búa, nhà
thương, trường học và đốt sách trong thơ viện. Đàn em cuồng tín của
Pol Pot đóng cửa chùa chiền, bắt sư sải ra lao động ngoài đồng
ruộng. Bọn cuồng tín đó phá hủy mọi loại xe cộ.
Kiểm soát quần chúng nhơn dân thật gắt gao, vung tay thảm sát đồng
bào, giết hết những ai bị coi là dính líu đến chế độ cũ. Dân tộc
thiểu số, dân Chàm Hồi Giáo, người Việt Nam chánh gốc, người Hoa
chánh gốc cũng như người Khmer Krom – sanh ở Nam Việt Nam - đều bị
tiêu diệt. Bọn Khmer Đỏ giết người bằng cuốc, bằng búa tạ, bằng gậy
gộc rồi liệng xuống hố chôn tập thể. Về sau, người ta phát giác ra
nào sọ người bị đập bể, nào những bộ xương cột chùm trong những hố
tập thể, rải rác khắp rừng rú và đồng ruộng.
Ở Nam Vang, trường trung học cũ Toul Sleng biến thành trại giam, tra
khảo và thủ tiêu, dưới ám số S21, là nơi Khmer Đỏ thủ tiêu những
người chống đối. Trước khi đem ra hành quyết, tử tội nào cũng phải
viết bản tự thú là mật vụ CIA, hoặc KGB hay là của Việt Nam. Đa số
trong 16.000 người bị xử tử thuộc trung tâm S21 là cán bộ Angkar
Loeu, nạn nhơn các vụ thanh trừng nội bộ từ 1973, dưới quyền điều
khiển của phe Pol Pot-Ieng Sary. Số còn lại có hàng trăm công chức
và viên chức của chế độ Lol Nol thân Mỹ, hàng trăm người hành nghề
tự do, sanh viên, nhơn viên ngành ngoại giao của Sihanouk từ Pháp,
từ Bắc Kinh và từ Mạc Tư Khoa trở về sau 1975 và 59 bác sĩ và y tá.
Trên 300 công nhơn Công Ty Thủy Điện và Hỏa Xa bị giết hại, sau khi
đã đào tạo Khmer Đỏ thành thợ rành nghề. Trong số 87 người ngoại
quốc bị hành xử vì tội gián điệp, có 3 người Pháp, mươi người Mỹ, Úc
và Tân Tây Lan, bị bắt trên du thuyền ở vùng biển Cam Bốt. Pol Pot
chủ trương loại bỏ những phần tử trí thức "thối nát", "chứa chấp nộc
độc", không những riêng người có tội, mà tận diệt cả dòng họ.
Cùng khắp trên đất nước Cam Pu Chéa, bọn Khmer Đỏ mở ra hàng loạt
công trường xây dựng và sản xuất. Ngần ấy
công trường mà chẳng có chút dụng cụ khoa học tiên tiến hay máy móc
nào. Thậm chí chẳng có một công cụ kỷ thuật sơ đẳng gì hết, nông dân
bị bắt "đi làm xâu" phải tự ý "khắc phục" đem sang kiến ra tìm lấy
cung cách lao động. Họ phải nghe lời nhà thơ lớn của cách mạng Việt
Nam, Tố Hữu, "bàn tay ta làm nên tất cả", vận dụng có hai bàn tay mà
cày xới ruộng đất, xây đập đấp bờ, đào ao vét kinh rạch. Những công
trình nầy không được hướng dẫn đến nơi đến chốn nên làm cho nông dân
lăn ra chết và đau đớn bộn bàng. Nhà cửa làng xóm cũ được thay thế
bằng những xã ấp mới kiểu Pol Pot, toàn là nhà sàn giống hệt nhau,
cái nào như cái nào. Như vậy để dễ kiểm soát.
Theo tạp chí "Tung Padevat" (Ngọn cờ cách mạng) của Khmer Đỏ, thì
Pol Pot muốn tạo dựng một xã hội cộng sản hoàn toàn sạch sẻ, công
bằng và tinh khiết. Nhưng than ôi, cứ nhìn vào thành quả của ông sau
bốn năm ngự trị thì đủ rõ. Từ một dân số gần 8 triệu người, gần 2
triệu bị giết hại, số còn lại bị hạ xuống thành người nô lệ.
Với bàn tay chìa ra để nắm lấy bàn tay lông lá của Nixon hồi 1972,
Mao Trạch Đông đã bỏ rơi tập đoàn Hà Nội và ôm lấy Pol Pot. Ngọn gió
hữu nghị đã xoay chiều, những quan lớn của Hà Nội chạy theo cầu cạnh
Mạc Tư Khoa một cách thẳng thừng, không cần ngượng. Thế liên minh
nội bộ cộng sản bị đảo ngược đưa đến một cuộc choảng nhau giữa hai
nước chư hầu, đều là cộng sản cả.
Sau khi Pol Pot đã lên ngôi quyền lực ở Nam Vang hồi tháng 4 năm
1974, Bắc Kinh cam kết sẽ chi viện quân sự, võ khí và thiết bị cần
thiết để trang bị các trung đoàn pháo binh, công binh, thiết giáp,
truyền tin, phòng không, radar,... Ngoài ra, Trung Cộng còn hứa sẽ
xây dựng sân bay quân sự cho máy bay chiến đấu và phi cơ ném bom do
Trung Quốc cung cấp sau nầy. Về mặt hải quân, Trung Quốc sẽ cung cấp
cho Cam Pu Chéa tuần dương hạm và tàu phóng ngư lôi. Rồi đây, khoảng
500 cố vấn và cán bộ đào tạo quân sự sẽ đến Cam Pu Chéa để tăng
cường cho lực lượng võ trang Khmer Đỏ. Biết được tin tức đó Hà Nội
bắt đầu lo sợ.
Lợi dụng tình hình rối ren sau khi quân Bắc Việt tiến chiếm Sài Gòn
hồi tháng 4, 1975, quân Khmer Đỏ, dùng tàu của Trung Quốc viện trợ,
tấn công đảo Phú Quốc, trong Vịnh Thái Lan. Những cuộc chạm súng
càng ngày càng gia tăng. Ngày 30.4.1977, nhơn dịp kỷ niệm chiến
thắng lần thứ nhì của "Chiến Dịch Hồ Chí Minh lịch sử", quân Khmer
Đỏ, có pháo binh và súng cối yểm trợ, thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam
chừng mươi cây số, ở tỉnh liên ranh Châu Đốc, làm cho dân chúng phải
chạy toán loạn, rồi rút quân ra không chiếm đóng.
Tháng 9, 1977, trong khi Pol Pot được triều đình Bắc Kinh ngợi khen
về việc loại bỏ chế độ địa chủ và khai trừ bọn tham ô nhũng lạm Cam
Bốt, Khmer Đỏ bắt đầu giết chóc và hãm hại dọc theo biên giới Tây
Ninh, Long An, An Giang. Lòng căm thù truyền kiếp của người Khmer
đối với người "Youn" (Việt Nam) lại hồi sinh mãnh liệt.
Cuối tháng 12, 1978, nước Việt Nam Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa phản
công ồ ạt. Mươi sư đoàn bộ binh, pháo binh có thiết giáp hộ tống và
không quân hỗ trợ, vượt qua biên giới và thọc sâu đến thủ đô Nam
Vang. Cuộc tấn kích, có phối họp với các đơn vị Khmer Đỏ ly khai,
gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân Pol Pot.
Sau 12 ngày tác chiến, Nam Vang thất thủ ngày 7.1.1979. Cố vấn Trung
Quốc biến đi đâu mất. Đại sứ quán Trung Quốc kéo nhau chạy trốn sang
Thái Lan. Hoàng Thân Sihanouk, được Pol Pot phóng thích, sang Liên
Hiệp Quốc để binh vực cho "Cam Pu Chéa dân chủ" của Pol Pot trước
diễn đàn quốc tế. Nhà vua không biết ngượng!
Lúc bấy giờ, Pol Pot vẫn còn đại diện ở Liên Hiệp Quốc được các
cường quốc Tây Phương hậu thuẩn. Về sau, năm 1991, Khmer Đỏ có mặt
với tư cách là thành phần nguyên vẹn đầy đủ trong Hiệp Định hòa bình
Cam Bốt ở Paris.
Lê Đức Thọ, người hùng của Hà Nội, nuôi mộng có được một Liên Hiệp
Đông Dương, quy tụ dưới trướng của Việt Nam (sáu mươi triệu dân),
hai nước "bạn" là Cam Pu Chéa (sáu triệu) và Ai Lao (ba triệu). Thọ
dựng lên Đảng Cộng Sản Cam Pu Chéa và tổ chức cơ cấu chánh quyền nhà
nước, dĩ nhiên một nhà nước Cam Pu Chéa thuần phục Hà Nội. Thọ đưa
Chan Si, một đảng viên cũ của Đảng Cộng Sản Việt Nam, lên ghế Thủ
Tướng. Thọ bổ nhiệm Pen Sovan, cựu chỉ huy trưởng trong lực lượng võ
trang Việt Nam, làm Bộ Trưởng Quốc Phòng, về sau trở thành Tổng Bí
Thơ Đảng Cộng Sản Cam Pu Chéa.
Lê Đức Thọ đóng đô trong một biệt thự nằm sau Hoàng Cung Nam Vang,
triệu gọi những giới chức của chánh phủ và trong Đảng hạch hỏi không
biết ngượng. Vì vậy, những giới chức có máu mặt của Cam Pu Chéa tỏ
ra không bằng lòng. Tổng Bí Thơ Pen Sovan, được Brejnev tiếp kiến
trọng thể ở Mạc Tư Khoa, đã báo cáo thái độ bất bình của ông đối với
hành động trịch thượng của Việt Nam.
Năm 1981, Thủ Tướng Chan Si bị hạ bệ, đưa về Việt Nam, 10 năm quản
thúc tại gia ở ngoại ô Hà Nội, rồi chết đột ngột hồi 1983. Trên
3.000 chuyên viên Việt Nam thuộc mọi ngành nghề, can thiệp vào nội
bộ Cam Pu Chéa. Có người được dân chúng Cam Pu Chéa thương mến vì
khả năng của họ nhưng cũng có không ít người bất tài vô tướng lại
tham nhũng.
Mạc Tư Khoa hậu thuẫn Hà Nội, tạo điều kiện cho Việt Nam có thế mạnh
trong khu vực Đông Nam Á, làm cho Trung Quốc mất thể diện và thế
lực. Việc Việt Nam chiếm đóng Cam Pu Chéa nằm trong chiến lược của
Mạc Tư Khoa.
Để trả đũa, ngày
17.2.1979, Đặng Tiểu Bình xua quân tấn công Hà Nội để dạy Việt Nam
"một bài học". Quân Trung Quốc tấn công 5 tỉnh giáp biên giới như
Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng và Lạng Sơn, nhưng không thèm
chiếm đóng.
Bên Cam Pu Chéa, quân chiếm đóng Việt Nam tỏ ra ngạo nghễ, độc tài
và làm cho dân chúng khiếp sợ. Công chức tỉnh Siêm Rệp, bị nghi ngờ
câu kết với Khmer Đỏ nên bị bắt giam, bị quân báo Việt Nam tra khảo
theo cung cách của KGB thời Staline. Khi sĩ quan và quân lính Việt
Nam đến bắt, Bí Thơ Đảng Cộng Sản ở Siêm Rệp viết vội lên mảnh giấy:
"Các ông lầm rồi! Cách Mạng và Đảng Cộng Sản Cam Pu Chéa muôn năm!"
Rồi ông tự bắn vào đầu chết tươi.
Tham vọng thôn tính Cam Pu Chéa của Lê Đức Thọ gặp phải sự chống đối
của Khmer Đỏ, được Trung Quốc và Thái Lan ủng hộ, khiến cho Việt Nam
phải sa lầy về quân sự. Quân chiếm đóng Việt Nam gặp nhiều khó khăn
trên hiện trường vì Khmer Đỏ đã nắm quần chúng nên Việt Nam phải
chịu tổn thất nặng nề. Trong 10 năm chiếm đóng (1979-1989), Việt Nam
thiệt mất 52.000 người tử thương và 200.000 thương vong, nhiều người
bị mất tay mất chưn vì mìn Trung Cộng.
Đa số "quân tình nguyện" thuộc gia đình nông dân hoặc những gia đình
nghéo khó phía Nam. Làm gì mà có "con ông cháu cha" của cán bộ và
công nhơn viên nhà nước có của ăn của để đánh giặc ở Cam Pu Chéa.
Thí dụ như các con của Tổng Bí Thơ Lê Duẫn thì đứa du học ở Liên Xô,
đứa làm công an, tránh né nghĩa vụ quân sự và đánh nhau.
Trung Quốc ngưng viện trợ Việt Nam thì Nga thế vô. Năm 1980, chi
viện Nga giảm đi một nửa, nhưng quân viện vẫn còn hậu hĩ cho nhu cầu
chiếm đóng Cam Pu Chéa. Để bồi hoàn lại, Việt Nam xuất khẩu hàng
ngàn lao động sang Liên Xô và mấy nước chư hầu Đông Âu. Đất nước
thiếu viện trợ nước ngoài, sống lây lất nhờ một thứ kinh tế chợ đen.
Năm 1988, lạm phát lên đến 1.000% và trên ba triệu người gần như đói
ăn.
Trong chiến tranh lạnh, vì muốn phân chia vùng ảnh hưởng nên các
cường quốc, mượn tay của những dân tộc nhược tiểu, với sự đồng lõa
của các tập đoàn lãnh đạo, đã đưa Cam Pu Chéa và Việt Nam vào những
cuộc chiến huynh đệ tương tàn trong vòng bốn thập niên qua của Thế
Kỷ XX.
Hết Bài
4
-
xem bài cuối cùng
Xem lại bài trước
Phan Quân |