Phan
Quân |
Chuyện thời cải tạo
|
Nỗi Buồn Côi Cút
1. Sài
Gòn :
Những ngày trăn trở.
ấy mươi năm chiến
tranh mà lại kết thúc như một chuyện đùa! Như một trận mưa rào của Sài
Gòn, ồ ạt đó rồi tạnh ráo đó. Chỉ qua một đêm sáng ngày, người dân thành
phố thủ đô hay tin Ban Mê Thuột thất thủ, tưởng đâu tầm thường như những
tin tức tương tự thường nghe được trước kia. Nhưng khi ngẩm nghĩ lại
bỗng giựt mình. Làm sao như vậy được? Ban Mê Thuột đâu phải là một thị
trấn tầm thường của Việt Nam Cộng Hòa? Hơn nữa, trước đó người ta đã
từng chứng kiến và nghe thấy một "Mậu Thân", một "Mùa Hè Ðỏ Lửa", một
"Bình Long Anh Dũng", một "An Lộc Oai Hùng", mất đó rồi lấy lại đó.
Nhưng, buồn thay, bây giờ lại là một sự thật, nghĩa là thành phố chiến
lược đó của Cao Nguyên đã lọt vào tay cộng sản chỉ qua một đêm giao
chiến! Trước đó mấy ngày, không có tin tức nào cho biết Ban Mê Thuột bị
đe dọa hoặc bị bao vây hay bị áp lực nặng của đối phương, vậy mà chỉ qua
một đêm thôi! Với bao nhiêu nỗi lo toan khác cho cuộc sống - vốn đã bắt
đầu khó khăn vì nền kinh tế quốc gia đang gặp trở ngại sau khi hiệp định
Paris được ký kết và, do đó, Mỹ giảm quân trên chiến trường Việt Nam -
người dân thành phố vẫn thản nhiên tiếp tục các sinh hoạt thường ngày
của họ, thầm nghĩ rằng rồi ra chiến cuộc sẽ bình thường trở lại như
trong dĩ vãng. Trong nội chiến - một cuộc nội chiến triền miên và dai
dẳng như cảnh huynh đệ tương tàn ở Việt Nam - một mảnh đất, một thị trấn
thay ngôi đổi chủ cũng chỉ là chuyện tầm thường trong tâm tư quần chúng
đã quá mệt mỏi vì chiến tranh, một tâm trạng dửng dưng với thời sự, một
trạng thái tinh thần phủ nhận trách nhiệm, cho rằng đó không phải là
chuyện của mình, và chuyện ai người ấy lo, một khi quyền yêu nước đã bị
cho là lãnh vực riêng tư của một hạng người trong xã hội.
Việc Ban Mê Thuột
thất thủ làm cho người ta nhớ lại một lời nói trước kia của Võ Nguyên
Giáp, đọc được đâu đó trong sách báo Tây phương, một lời nói có tính
cách địa lý chiến lược :"Ai làm chủ Tây Nguyên, người ấy khống chế Ðông
Dương". Một phát hiện cá nhân hay là một nhận định rút ra từ chiến lược
của Pháp, qua cung cách họ chiếm lĩnh Ðông Dương ngày xưa? Từ suy nghĩ
đó, một nỗi lo ngại khá lớn lao xuất hiện trong dư luận. Nhưng liệu quần
chúng sẽ làm được gì trong tình hình đó, khi mà hơn mười năm qua các
tướng lãnh đã thao túng chính trường để biến nó thành chiến trường của
những cuộc tranh chấp quyền lợi trong tình "quynh đệ chi binh"? Thậm chí
hai tướng lãnh được chiến hữu của mình tuyển chọn đứng ra đại diện để
lèo lái con thuyền đất nước trên tuyến chánh trị hợp hiến và hợp pháp
cũng không bảo được với nhau nên đã đưa áo quần dơ bẩn nhà mình giặt giũ
trước mắt hàng xóm! Hai cánh tay không đưa ra phía trước để đánh đối thủ
mà tay mặt lại đánh tay trái, để cho đối thủ rảnh tay lộng hành. Chiến
trường thì tơi tả còn chính trường thì lại tả tơi!
Sai lầm là một thứ
bịnh hay lây. Sai lầm này lôi kéo theo sai lầm khác. Một tỉnh lỵ mất đi
trong bối cảnh sau Hiệp Ðịnh Paris không đơn giản như hồi Tết Mậu Thân
hay trong Mùa Hè Ðỏ Lửa trước kia. Lúc bấy giờ, Hoa Kỳ đã "Việt Nam hóa"
cuộc chiến mà họ đã từng coi như là mũi nhọn của tuyến chế ngự làn sóng
cộng sản ở châu Á. Cho nên Việt Nam đành phải chiến đấu với những phương
tiện hạn chế và trong hoàn cảnh tự lực cánh sinh. Thế là những bộ óc
quân sự lỗi lạc của Việt Nam Cộng Hòa ngồi lại với nhau bàn tính. Lãnh
thổ quá rộng, quân số eo hẹp, phương tiện hạn chế, thôi thì liệu cơm gắp
mắm ta hãy tạm thời thu hẹp vòng đai chiến lược, trong chiều hướng lý
luận lùi một để rồi sẽ tiến hai. Thoáng nghe thì vô cùng hợp lý, luận
điểm chiến thuật chiến lược đó của các đỉnh cao quân sự đem đối chiếu
với di cảo của Trần Hưng Ðạo, Tôn Tử hay Clausewitz thì cũng đúng. Cho
nên, đất nước từ từ thu hẹp lại để củng cố chiến tuyến phòng ngự. Trong
binh thư cũng đã dạy rằng "Phòng ngự là tấn công" kia mà. Thế là một nửa
bên dưới vĩ tuyến 17 ngày một giống như "mảnh da sầu muộn", cứ thu hẹp
và thu hẹp! Tuy nhiên, trong lãnh đạo quân sự, thế rút lui thường được
coi như là điều gần như cấm kỵ vì rất khó thành công. Rút quân đâu phải
dễ dàng như rút một con cờ, mà cũng không thể là lùi một để tiến hai. Từ
những trang giấy đến chiến lũy chiến hào là cả một trời cách biệt, vì
còn có những yếu tố không lường trước được trên ba bình diện thiên thời,
địa lợi và nhơn hòa.
Ðất nước đã bị cộng
sản cướp mất Ban Mê Thuột, một tỉnh lỵ then chốt của Cao Nguyên, các
tướng lãnh lại bỏ ngỏ Pleiku, đưa một phần quân và dân vùng cao xuống
duyên hải qua một cuộc di chuyển gay go, kham khổ, đầy đau thương với
máu và nước mắt vì gặp phải những trở ngại và sai lầm không thấy trước.
Ðập nước đã có một chỗ lở, sức tàn phá của nước từ mực cao đổ xuống cứ ì
ầm. Thêm vào đó lại còn sức ép quân sự của cộng sản từ phía Bắc, từ sườn
phía Tây. Rồi như những con cờ đô-mi-nô, các tỉnh duyên hải miền Trung
đất nước tuần tự rơi rụng như lá vàng vào những ngày thu lộng gió! Tỉnh
này kế tiếp tỉnh kia thi nhau thất thủ, thậm chí có tỉnh, như Nha Trang,
không có chạm súng vẫn bị bỏ ngỏ khiến cho quân cộng sản tiến vào tỉnh
mà năm nghi mười ngờ, sợ bị mắc bẫy! Hậu quả của một tâm lý đang cơn
khủng hoảng lại mang mặc cảm bị bỏ rơi và thêm vào đó là những tin tức
quá đổi nhanh chóng của những đài ngoại quốc vốn được dư luận tin tưởng
trước kia. Một thứ tin tức gần như có khuynh hướng làm lợi cho cộng sản.
Tỉnh và tỉnh lỵ lần
hồi rơi rụng vào tay đối phương. Tâm lý quần chúng đang bị lung lay
trước viễn ảnh không hay, với tin tức của chồng, con, anh, em, cha,
chú,… đang trên đường di tản ra khỏi những nơi sinh sống thường lệ cùng
với những đơn vị quân đội, một thời chống đỡ đất nước quê hương, lại
càng lung lạc hơn nữa với những hình ảnh chẳng mấy gì tốt đẹp của báo
chí Tây phương về quá trình "bỏ của chạy lấy người", với những bản tin
làm nản lòng người của các đài phát thanh từng được tin tưởng như BBC
của Anh và VOA của Hoa Kỳ. Những bức ảnh báo chí trưng bày cảnh quần
chúng tỵ nạn được đưa lên tàu thủy bằng một cái lưới bốc hàng hóa, hay
một quả đấm thẳng tay của một ông Mỹ lực lưỡng để chận đứng một người
Việt Nam ốm yếu toan leo lên một chiếc máy bay đã đầy hành khách, hoặc
một người tỵ nạn bị kẹt đến chết trong hốc bánh xe của phi cơ đang bay,…
đã đánh thức tâm trạng sợ hãi của những người đang chuẩn bị bỏ chạy rất
nhiều. Thế là, như một ổ kiến bị quấy rầy, quần chúng bắt đầu có những
hành động vô trật tự, phản ảnh hết sức trung thực tâm tư rối loạn của
họ. Yếu tố thúc đẩy tâm trạng rối loạn kia là số lượng đông đảo dân tỵ
nạn từ các tỉnh đã bị chiếm ở phía Bắc đổ về thành phố thủ đô. Chánh
quyền phải ra lịnh cho những thuyền và tàu chở người di tản miền Trung
không được cặp bến Sài Gòn mà phải đưa thẳng ra đảo Phú Quốc, để cho
thành phố thủ đô khỏi gặp tình trạng của một số tỉnh miền Trung mấy ngày
trước đó. Trong quá trình rút lui theo kiểu "cuốn chiếu", hết tỉnh này
đến tỉnh kia dọc theo duyên hải, dân tỵ nạn của tỉnh mất trước dồn sang
tỉnh kế tiếp làm cho mọi thứ đều gia tăng một cách đáng ngại, số lượng
người tỵ nạn cũng như mọi thứ tệ nạn. Thế nhưng, điều tệ nhứt là kẻ tạo
ra tệ nạn không ai khác hơn là quân nhân của một vài đơn vị thiện chiến
nổi danh trong quá khứ!
ß
Trong những ngày đầy
xao xuyến của tháng tư bi đát đó, đất nước như một bàn cờ đến hồi nguy
kịch của một bên, với số lượng con cờ quan trọng chẳng còn lại bao
nhiêu, trong khi các con cờ, nặng cân cũng như nhẹ ký, của đối phương
lại lấn sân khá nhiều. Thêm vào đó là tin tức về những trường hợp "đỏ
hóa" của Lào và Cam Bốt láng giềng. Việt Nam bắt đầu thấy ngộp thở về
chánh trị. Chánh khách của Sài Gòn không chịu nhìn xa để thấy rộng và
tính trước nên phải có những phản ứng tùy tiện vào những giây phút cuối
cùng, khi nước đã đến chân. Quyết định dụng tính và tai hại hơn hết,
nhưng lại có giá trị như một tiếng nổ long trời lở đất phát động cơn dịa
chấn chánh trị miền Nam là sự từ chức của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ai có thể chấp nhận trường hợp một con tàu đang trăn trở giữa trùng
dương bão tố mà ông thuyền trưởng lại ung dung leo lên trực thăng cất
cánh bay đi một thân, một mình chẳng cần quan tâm đến số phận sắp tới
của con tàu cũng như của những người còn lại trên tàu? Ðúng sai chưa
biết, thế nhưng trường hợp "giã từ vũ khí" như vậy của tổng thống được
đa số quân nhân và chánh khách phê phán ngay là "đâm sau lưng chiến sĩ".
Ngoài chuyện bỏ bè bạn ra đi trong khi chiến trường đang sôi động, dư
luận còn cho rằng tổng thống đã đem theo một số quý kim quan trọng,
không phải của riêng ông mà lại là của đất nước! Còn ai để đính chánh
nên người ra đi thì mang lấy tiếng chẳng đẹp còn kẻ ở lại thì nặng lòng
với trách móc và hoài nghi nhằm vào giới chánh trị miền Nam. Không những
thế mà còn phải gánh chịu khối tuyết băng đang đổ dốc của tình hình
chánh trị và quân sự Sài Gòn.
Trong bối cảnh "ta
đã ra đi, mặc tình cho bão tố", tình hình chánh trị của Sài Gòn dĩ nhiên
phải tan rã như băng tuyết gặp nắng nóng sa mạc. Một sa mạc cho quần
chúng miền Nam và cũng là một sa mạc cho chánh trị và quân sự Sài Gòn.
Hàng trăm ngàn người tỵ nạn từ các tỉnh duyên hải miền Trung đổ vào Sài
Gòn với hy vọng là rồi đây Việt Nam Cộng Hòa sẽ chuyển bại thành thắng,
lật ngược thế cờ, chiếm lại những vùng đất đã bị cướp. Hy vọng chưa tròn
trong tâm tư, thân phận tỵ nạn còn đang bơ vơ trên vùng đất lạ quê người
thì điểm tựa của họ đã tan thành mây khói. Trước những rối ren trăm gút
ngàn mối của tình hình chánh trị và quân sự ngày một sôi động, quân,
cán, chính đang nhìn về phía lãnh đạo để hy vọng có được một chỉ thị từ
trung ương may ra đem đến một lối thoát nào đó thì, than ôi, nguồn gốc
của chỉ thị kia lại đã biền biệt phương trời. Thôi thì còn nước, còn
tát, những người lãnh đạo còn xót lại đành cố gắng gom góp những mảnh
vụn chánh trị và quân sự đang rệu rã để cố gắng xoay chuyển khuynh hướng
của tình hình, chớ chẳng lẽ buông xuôi.
Tổng thống ra đi thì
còn ông phó. Thế nhưng việc chuyển nhượng quyền hành chánh trị đâu phải
là điều giản dị, nhứt là trong tình hình đó. Thông thường trong chánh
trị của môi trường chậm tiến, hệ thống quyền hành hoạt động dựa trên sự
phục tùng giữa con người và con người, không phải giữa chức vụ và chức
vụ. Nên chi, khó khăn xuất phát từ đó. Ở những nước của thế giới thứ ba,
ông số một thường có một số đàn em của riêng mình và cứ như thế xuống
đến nhân vật quyền thế cuối cùng, theo đà diễn biến lùi về số lượng đàn
em. Càng có thế có quyền, càng có lắm đàn em. Do đó cho nên khi ông phó
lên làm tổng thống thì không thể nào mặc nhiên lãnh đạo đất nước một
cách hoàn hảo như chính tổng thống, nhứt là trong cảnh chánh trường đã
về chiều. Hơn nữa, trong tình hình "mạnh ai nấy thoát thân" thì nhân tâm
làm sao khỏi xao xuyến khi nhìn về nguồn phát sinh của ánh đèn pha lại
nhận ra ánh đèn đã đổi màu? Cảnh chợ chiều chánh trị rối ren như vậy rất
thuận lợi cho những chánh khách nặng óc thời cơ chủ nghĩa. Như vậy là
chánh trường Sài Gòn sôi động hẳn lên, sôi động hơn cả chiến trường
ngoài kia. Và, dư luận cũng như tin đồn đua nhau chạy nước rút với nội
dung như đảo chánh, thay đổi thủ tướng, thay đổi tổng trưởng quốc phòng,
vĩ tuyến thứ 17 tụt xuống 13, chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc,... Ðâu
đâu, thiên hạ cũng xao xuyến, nửa lo cứu vãn tình hình, nửa lo tìm đường
thoát thân, nếu chẳng may... Trong tình huống "thân này ví xẻ làm đôi
được" như vậy thì chuyện lớn làm sao thành tựu được?
Trong khi
chánh trị rối bời và chánh khách của chuyến tàu cuối cùng đang ngược
xuôi thành phố như con thoi thì đường phố Sài Gòn cũng rộn rịp không
kém, có thể còn hơn nhiều qua các vận động nhằm chạy trốn cộng sản một
lần nữa. Năm 1954, sau khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết, đồng bào Việt
Nam miền Bắc đã phải rời bỏ quê hương mình trên một nửa đất nước để đi
tìm tự do ở phía Nam vĩ tuyến 17. Giờ đây, một nửa đất nước đó lại đang
bị thu hẹp và tiếp tục co lại. Trước kia, người ta có dự trù không gian
và thời gian cho những ai không muốn chung sống với cộng sản, còn ngày
nay những ai không chấp nhận cộng sản chỉ còn có mỗi một cách là nhanh
chân tìm đường của kế thứ ba mươi sáu. Dân thường thì chẳng nói làm gì,
rộng quyền hành động, nhưng quân nhân và công chức thì cũng rất khó giải
quyết trong những ngày nguy kịch đó, khi phải đối diện với một sự chọn
lựa gay go và phải quyết định trong tinh thần trách nhiệm. Thực ra thì
cũng chẳng có gì phải đắn đo vì trước họ đã có không biết bao nhiêu giới
chức có thẩm quyền và trách nhiệm to lớn hơn gấp bội đã bỏ chạy rồi.
Trong những trường hợp đặc biệt như vậy, gương mẫu lãnh đạo có một giá
trị rất cao và cho thấy rõ điển hình về một người cầm đầu chân chính.
Chuyện đã qua rồi, người ta càng thấy những kẻ ăn trên, ngồi trước mà
biết cách và bạo gan thực hành phương châm "cẩn tắc vô ưu" là những
người có lý khi họ dám nhắm mắt làm liều. Thà bỏ chạy trước mà được tự
do, no ấm còn hơn là tôn trọng kỷ luật và trách nhiệm mà phải nếm mùi
cơm tù và nằm nhà đá cộng sản. Cũng là một dạng thức hành động trong
tinh thần "vì tự do, cho tự do và bởi tự do"! Cho nên, trong những ngày
đó, bến tàu và sân bay là hai điểm hội tụ quan trọng nhứt của Sài Gòn,
là nơi mà rất nhiều gia đình của các nhân vật quyền thế ăn chực nằm chờ
để may ra tìm được một hướng thoát thân. Giặc
đã đến
trước cửa ngõ vậy mà chuyện chiến đấu không còn là đề tài quan trọng nữa
nên tư tưởng chủ đạo của thời điểm đó là di tản. Khi điệu nhạc "Giáng
Sinh Trắng"
đã vang lên trên tầng số của đài phát thanh Mỹ ở Sài Gòn và khi ông đại
sứ Martin của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã cuốn lá cờ năm mươi sao và mười ba
sọc trịnh trọng mang đi thì mọi chuyện kể như xong, và hình ảnh tiêu
biểu lưu lại đời đời là hàng người nối đuôi trên cầu thang lên sân
thượng tòa đại sứ Mỹ, nơi có chiếc trực thăng đang nằm chờ một cách ngạo
nghễ!
ß
Một chương lịch sử
của chánh trị miền Nam đã được lật qua. Muốn hay không gì thì "chiếc
khăn tay" cũng đã được trao đi để cho ông đại tướng có thêm một cơ hội
phất cờ lần nữa. Ðể chứng minh thiện chí hòa hợp hòa giải, với hy vọng
làm đẹp lòng "người anh em bên kia", chánh phủ của thủ tướng Vũ Văn Mẫu,
vừa được tổng thống Dương Văn Minh chỉ định, lên tiếng yêu cầu Mỹ rời
khỏi Việt Nam. Ðược lời, như cỡi tấm lòng, Hoa Kỳ cũng chẳng mong muốn
gì khác hơn. Một cái cớ vô cùng chánh đáng lại phù hợp với nguyện vọng
của họ. Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau đó, vùng trời Sài Gòn không
ngớt tiếng máy bay chiến đấu yểm trợ từng cao và tiếng phi cơ trực thăng
chuyển vận ở từng thấp trên trục bay từ thủ đô ra vùng hoạt động của Hạm
Ðội 7. Nhịp độ di tản của quần chúng lại nhanh chóng leo thang vì quả
thật tấn thảm kịch gọi là "Chiến Tranh Việt Nam" đã đến hồi chót của màn
cuối. Và giống như thói quen coi thường nghệ thuật của khán giả cải
lương và hát bộ Việt Nam cứ đứng lên ra về khi tuồng hát còn năm ba phút
nữa là kết thúc, thiên hạ Sài Gòn bắt đầu bỏ của chạy lấy người. Ở thời
điểm đó, giữa sinh hoạt thường tình của đời sống và hành động có tính
cách quyết định của cuộc đời, sự khác biệt chẳng mấy lớn lao. Trong giây
phút bấy giờ, mỗi hạng người trong xã hội Sài Gòn đều có một hành động
phản ảnh rất trung thực bản chất cá nhân và phù hợp với tình hình thời
cuộc đang diễn ra. Chánh khách cơ hội chủ nghĩa chạy đôn, chạy đáo tìm
địa vị, quân nhân quyết định chớp thời cơ tìm lấy chức vụ lâu nay hằng
mơ ước, người lo tháo chạy tìm lối và phương tiện để ra đi, kẻ đầu cơ
tích trử tìm mua hàng hóa bán như cho không và thậm chí những người hôi
của cũng bận rộn không kém.
Ðường phố Sài Gòn
hôm đó xe cộ cứ ngược xuôi một cách vô trật tự nhưng vẫn an toàn dù rằng
không ai thấy bóng một thầy cảnh sát nào cả. Kẻ chạy đôn, chạy đáo,
người đi dọc về ngang, dung nhan thẫn thờ với suy nghĩ tập trung vào
những lo âu cấp bách. Trong khi đó, những con người xưa nay đầu tắt, mặt
tối, miếng ăn không đủ, quần áo chẳng lành, lại cứ hiên ngang và bình
tỉnh lôi đi trên đường phố những chiếc máy điều hòa không khí vừa mới
tháo ra ở đâu đó, những bàn máy chữ mà chưa chắc họ biết được cách sử
dụng, những chiếc quạt trần, những chiếc ghế ngồi xoay tròn của các văn
phòng sang trọng... Nỗi buồn thảm của một số người lại là niềm vui của
một số người khác. Sài Gòn, được tiếng là "hòn ngọc Viễn Ðông" mà như
vậy sao? Một "hòn ngọc" chẳng còn biết liêm sỉ là gì nữa! Bệ rạc đến mức
đó à? Ðang trăn trở để giãy chết thì tiêu chuẩn luân lý còn nghĩa lý gì
nữa đâu và ao đã cạn thì bèo cũng đến đất thôi. Chánh quyền đã bối rối
thì quần chúng thao túng sinh hoạt đời sống, thế nên những kho hàng của
Mỹ được mở rộng và gạo, đường cũng như các mặt hàng khác trong kho được
tuông ra ngoài bán thoải mái. Của không vốn nên bán giá nào chẳng được
và những người không bận rộn với chuyện di tản và biết lo xa thì không
ngần ngại gì mà không mua tích trữ. Chợ trời mọc lên như nấm gặp cơn mưa
để thiên hạ mua sắm hàng bán tháo bán đổ và đồng thời cũng để những ai
lo ngại cho giá trị tương lai của đồng bạc Sài Gòn tìm cách lấy hàng hóa
làm trữ kim. Quang cảnh của thành phố thủ đô, trong những ngày này, làm
cho người ta nhớ lại sinh hoạt của Hà Nội và Hải Phòng vào những tháng
ngày xưa kia của thời di cư sau hiệp định Genève. Như là một xí nghiệp
làm ăn thua lỗ, nợ nần ngập đến đầu, đang thanh lý tài sản.
Ðang thất thế mà
nhượng bộ thì cũng chẳng khác nào một bước trên hành trình thua cuộc!
Ông đại tướng, đóng vai tổng thống, đã lùi khá nhiều trước những đòi hỏi
của "người anh em bên kia" của ông, thế nhưng cuộc đối thoại đã biến
thành lời tự thú khi phía thắng thế không chấp nhận vai trò trao đổi của
họ. Như vậy là ý định tiết kiệm máu xương quần chúng của ông đại tướng
đã bị bắt buộc phải biến thể thành hình thức đầu hàng vô điều kiện. Khi
lời nói không còn hiệu lực thì người ta phải cầu viện lực lượng võ
trang, thế nhưng trong giờ phút đó ông tướng hoàng thân nhiều nghệ sĩ
tính - vừa mới kết tội những người tiền nhiệm của ông đã bỏ "chạy như
chuột" khi ông đảm nhận chức vụ tổng tham mưu trưởng – đã yên thân trên
một chiếc tàu của hải quân để ra khơi. Như là để chuẩn bị một trận hải
chiến quyết định, nhưng thật ra là để "vĩ đào vi thượng" như những "con
chuột" trước kia.
Thế là ông "đại
tướng-tổng thống" đương nhiên đóng vai Vua Lear trong bi kịch của
Shakespeare. Sáng ngày 30 tháng 4 khó quên đó, ông và nội các chánh phủ
đã khăn áo chỉnh tề, túc trực ở dinh Ðộc Lập để mở rộng vòng tay đón
"người anh em bên kia" của ông. Nhưng, vốn là những con người có bộ óc
hằn sâu thái độ hoài nghi, lại nắm thế chủ động vào thời điểm lúc bấy
giờ của lịch sử, giới chỉ huy phía cộng sản cứ cho xe tăng hùng hục tiến
vào đẩy ngã cánh cửa sắt lớn của dinh Ðộc Lập, dù cho những người bên
trong đang sẵn sàng để tiếp đón với nhiều thiện ý. Cũng chỉ là một hành
động trình diễn để cho thiên hạ thấy rằng họ đang chiến thắng. Trước
kia, trên chiến trường Ðiện Biên Phủ, họ đã có một bức ảnh chụp anh bộ
đội phất cờ trên nóc hầm chỉ huy của tướng De Castrie, người chịu trách
nhiệm cứ điểm, thì nay chẳng lẽ họ lại không có một bức ảnh độc đáo nào
của "chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử" hay sao? Hoặc giả họ muốn cho người
đời hôm nay và lịch sử ngày mai thấy rằng họ đã chiến thắng bằng mồ hôi,
nước mắt và máu của chính họ chớ không phải qua một cuộc tiếp đón mang
tính cách nghi lễ ngoại giao. Thế nhưng, khách đến không chấp nhận một
cuộc tiếp đón như vậy mà lại đòi hỏi một hành động chính thống nên ông
"đại tướng tổng thống" được "người anh em bên kia" mời lên xe và áp tải
đến đài phát thanh để đọc văn bản đầu hàng! Ðúng là khi người anh em ngỗ
nghịch và du đãng đã trở về!
Như
một tiếng sấm giữa lúc trời đang trong xanh, chẳng một bóng mây! Một lần
nữa, lịch sử lại trớ trêu, mượn danh của ông đại tướng đã hơn một lần có
cờ trong tay mà không phất được. Ðường phố Sài Gòn bắt đầu mang một sắc
thái bất thường. Trên những ngã đường từ ngoại ô vào, nhiều đoàn xe cộng
sản chở đầy bộ đội tiến vô trung tâm thành phố. Chiến xa cũng ồ ạt kéo
vào. Có một vài cuộc chạm súng lẻ tẻ, hậu quả của những người chiến binh
mang tâm trạng bất bình. Kẻ chiến thắng, người thua cuộc lẫn lộn nhau,
chiến tuyến không còn rõ nét nữa. Trên các nẻo đường thành phố, nơi này
nơi nọ, có những đống quân trang nằm ngổn ngang. Thậm chí có cả những
chiếc xe Jeep chất đầy súng đạn nằm bơ vơ trên một vài ngõ hẻm, máy vô
tuyến vẫn chạy rè rè nhưng không nghe âm thanh đối thoại. Ngày đó, đường
phố Sài Gòn có khá nhiều thanh niên chỉ có quần đùi, áo thun ngược xuôi
mọi hướng, dung nhan mệt mỏi, lo âu. Chẳng mấy lúc mà ở nhiều ngã tư
đường thành phố có những đống tài liệu, hình ảnh, giấy tờ bốc cháy mà
chẳng ai buồn dập tắt. Những toán bộ đội, tự cho mình ở thế người chiến
thắng kia, ngồi trên xe tải tiến vào thành phố với những bộ quân phục
sạch sẽ, đưa tay vẫy chào quần chúng hai bên đường, nhưng nét mặt lại
ngỡ ngàng. Những dáng dấp của một vai kịch có lẽ vừa mới được huấn luyện
đêm qua thôi nên không được tự nhiên và nhuần nhuyễn. Những tưởng rằng
nhân dân Sài Gòn "nổi dậy" đón mừng bộ đội Bác Hồ về giải phóng, như
chính ủy đã nói, thì phải niềm nở hân hoan cớ sao lại lạnh lùng xa lạ,
ngoại trừ một vài đứa bé ngỗ nghịch đáp chào lấy lệ? Bên trong những nhà
phố hai bên đường, các bà nhiều tuổi núp sau cánh cửa hé mở để nhìn tận
mắt những việt cộng lâu nay từng nghe tiếng tăm ghê gớm mà chưa thấy mặt
mày. Ở mặt tiền nhà trên đường phố, những lá cờ vàng ba sọc đỏ xưa kia,
nay đã hết nhiệm kỳ lịch sử của nó. Thay thế vào đó là những lá cờ Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam, hoặc cờ cộng sản miền Bắc được sơn vội sơn
vàng, màu sắc tạm bợ, không trung thực, miễn sao đỏ đỏ, xanh xanh. Có
nhà cứ lấy giấy màu làm thủ công của học trò để cắt ráp thành chiếc cờ
nho nhỏ dán chồng lên chỗ cờ quốc gia trước kia, hy vọng rằng những
người cộng sản đang vào thành phố ghi nhận một sự đổi thay nào đó. Trong
giờ phút tranh tối tranh sáng đó, nỗi lo sợ đã được thể hiện bằng những
hành động không thể giải thích được. Người dân thành phố làm đủ mọi cách
để cố gắng làm cho những chàng bộ đội kia thấy được tấm lòng "yêu quý
cách mạng" của họ hầu tránh những phiền toái xuất phát từ mối hận thù
dân tộc của giây phút ban đầu gặp gỡ. Thậm chí những người Hoa trong
vùng Chợ Lớn còn trương cả ba thứ cờ, cờ cộng sản miền Bắc, cờ Mặt Trận
và cờ Trung Quốc. Cho chắc ăn. Tưởng chừng như những hành động hời hợt
bề ngoài đó có thể tạo điều kiện để cho họ phủ nhận các quan hệ xưa cũ
với chế độ Sài Gòn đồng thời bày tỏ tình cảm với những người chiến thắng
đang tiến vào. Vốn đã quen chuyển biến theo thời thế từ bao lâu nay,
người dân thành phố cứ ngỡ rằng như vậy là họ đã phủi sạch được thái độ
chống cộng xưa nay. Và có lẽ cũng vì hình thức đó mà cộng sản đã cho
rằng nhân dân miền Nam đã nổi dậy để góp phần vào sự thành công của
"chiến dịch Hồ chí Minh lịch sử" chăng? Một hành động ngây thơ bị khai
thác để lồng vào nội dung của một ý đồ, miễn sao được lợi.
ß
Cơn trọng bịnh trầm
kha nhiều trăn trở của Việt Nam kéo dài ba mươi năm qua bỗng dưng chuyển
biến nhẹ nhàng, như gió thổi, như mây bay. Một sáng, một chiều, đất nước
tự do đã rơi vào tay cộng sản, như đi một bước qua cầu Hiền Lương bắt
ngang sông Bến Hải, chia đôi đất nước sau hiệp định Genève (1954). Ðau
khổ vì chiến tranh đã lên đến cao độ, bảo hòa trong tâm tư quần chúng
nên giờ đây Sài Gòn vào tay cộng sản còn âm thầm hơn qua những ngày đảo
chánh xưa kia. Trong khi dư luận thế giới coi chuyện Sài Gòn thất thủ
như một vùng trời sụp đổ thì người dân thành phố còn kẹt lại cứ coi thủ
đô của mình như là một cô gái đã từng dày dạn ái ân nay một lần lên xe
hoa nữa, thế thôi! Hoặc giả như là một cơ hội để phủi tay:"Bao nhiêu năm
mình đã đấu tranh để gìn giử, nay cộng sản cướp được thì để cho họ lo
liệu lấy". Hơn nữa, còn tâm trí đâu mà lo nghĩ viễn vông khi mà thân
phận mình chẳng biết sẽ ra sao đây? Trong tình huống đó, người dân Sài
Gòn bắt đầu một nếp sống mới của mình, cố gắng thích nghi đến đâu hay đó
với những đòi hỏi và cưỡng chế của những người vừa mới "chiến thắng" hôm
qua. Riêng những ai mang dấu ấn chính thức và đậm nét của chế độ vừa ra
đi thì sống đó nhưng chỉ sống bằng thể xác nhưng tâm hồn thì ở tận đâu
đâu. Làm người xa lạ trên quê hương của chính mình mà lòng nặng trĩu lo
âu và e ngại trước những viễn ảnh chẳng hay ho gì và cũng chẳng mấy tốt
đẹp mà những con người trong một chế độ cộng sản phải chấp nhận. Hơn bao
giờ hết, ý niệm "muốn sống hạnh phúc hãy sống ẩn mình" lại có ý nghĩa
đối với những người còn kẹt lại. Nhưng liệu có tự mình xóa mờ được bản
thân hay không và môi trường xung quanh có cho phép mình làm như vậy hay
không lại là một chuyện khác. Cách suy nghĩ vẩn vơ và quanh quẩn trong
những giờ phút như vậy sẽ không giải quyết được gì hết mà lại có thể đưa
con người đến chỗ tuyệt vọng đáng tội nghiệp và thương tâm. Thôi thì
"cầm bằng cho gió đưa đi", ta hãy sống cuộc sống của chính ta cho những
ai và những gì còn lại, sau mấy mươi năm sống vì đất nước, vì dân tộc mà
chẳng nên trò trống gì. Ðã sống mà không làm gì được thì giờ đây hãy
sống mà xem một thời "quỹ ám" sẽ ra sao. Một lối lập luận của kẻ cùng
đường bí lối nhưng cũng là một cách để trấn an và tự nhũ thầm.
Người dân Sài Gòn
còn kẹt lại và thoát được nạn "tắm máu" như đã qua một lần chết đi nên
không còn gì phải sợ sệt nữa và tìm cách nhanh chóng thích nghi với hoàn
cảnh để sống một cách thực tế và thực tiễn. Những ngày trước khi Sài Gòn
sụp đổ, báo chí Tây phương đã rầm rộ dự đoán một thời thô bạo dưới quyền
lãnh đạo của chế độ cộng sản. Chiến dịch truyền thông đó đã tạo dựng
được một hiệu quả răn đe khiến cho những con người cộng sản Việt Nam khi
vào thành phố phải ngại ngùng nên không lộ liễu thi hành chính sách thô
bạo cơ hữu của đường lối chuyên chính vô sản. Sau một đôi ngày trầm tư
suy tưởng, Sài Gòn gắn gượng sinh hoạt với những người khách mới để may
ra tồn tại với thời gian, không cần phải thắc mắc về tương lai mà chỉ
đơn thuần biết đến hiện tại. Ðó là những người đã dứt khoát gắn liền bản
thân mình với chế độ Sài Gòn, còn những ai trước kia đã lừng chừng hay
muốn nghĩ đến tương lai thì không ngần ngại gì mà không thử nắm lấy thời
cơ. Ngay từ xế chiều ngày 30 tháng tư, khi bộ đội cộng sản tiến vào Sài
Gòn xong, loại người thứ hai này đã xuất đầu lộ diện, như những thành
viên nằm vùng của Việt cộng từ bao giờ. Chỉ cần một băng vải đỏ cột ở
cánh tay, một chiếc tu huýt, một cây súng M-16 lượm được trên đường phố
là đã có thể tự coi mình như một thành viên của cách mạng, của phe phái
cầm quyền đang lên phiên. Thế nhưng cũng là một cái gì đó để trám vào lỗ
hổng giữa chánh phủ Sài Gòn đã tháo chạy và những người vừa mới chiến
thắng. Tuy nhiên, họ cũng là một thế lực đáng ngại vì dám có những quyết
định bất ngờ, đậm nét thù hằng cá nhân, đôi khi vô cùng tai hại trong
tình hình bất ổn đó. Họ tự động đứng ra điều chỉnh lưu thông trong thành
phố, chăm sóc trật tự và an ninh phường khóm, hướng dẫn bộ đội còn đang
ngơ ngác đi đến nơi này, nơi kia, qua hang cùng ngõ hẻm của Sài Gòn...
Nỗi hoang mang và ngại ngùng của dân chúng trước những người cầm quyền
chân ướt chân ráo đã vô tình trao cho họ một loại quyền lực bị kẻ chiến
thắng lẫn người chiến bại bỏ quên. Thiên hạ gán cho họ tên gọi "những
người cách mạng ba mươi tháng tư", một thành phần đã đóng được một vai
trò ngắn hạn trong giai đoạn lịch sử nhứt định vì cộng sản không khi nào
dễ dàng chấm nhận việc chia sẻ quyền hành như vậy. Những con người cơ
hội chủ nghĩa đó của Sài Gòn, quen với lối sống giai đoạn của họ, cứ coi
chuyện sụp đổ của thành phố lần này như là chuyện ra đi của một chánh
quyền miền Nam sau một cuộc đảo chánh, chỉnh lý hoặc biểu dương lực
lượng đã thường xảy ra trong những năm từ 1963 đến 1965. Họ cứ muốn đem
hiện tượng thay thế cho bản chất để sống và tồn tại với những con người
cộng sản vừa mới vào thành phố. Nhưng cuộc đời đâu có đơn giản như họ
tưởng một khi cộng sản giành được chánh quyền.
Trong khoảng giao
thời giữa sự vắng mặt của chế độ Sài Gòn vừa mới ra đi và sự hiện hữu
còn đang lúng túng của những con người cộng sản mới vào thành phố qua
một thành tựu quá đột ngột và thiếu chuẩn bị, quần chúng "phi liên kết
và trung lập" của Sài Gòn vẫn phải sống với nếp sống thiết thân. Sau một
đôi ngày tạm thời ngưng nghỉ sinh hoạt để dò xét tình hình và thái độ
của người mới, giới buôn bán nhỏ của thành phố lại rón rén hoạt động trở
lại một cách thận trọng. Từng bước một, Sài Gòn, nhứt là khu chợ Bến
Thành, đã rộn rịp trở lại với khách hàng mà đa số là những chàng "bộ đội
bác Hồ". Những con người về từ rừng núi đó bỗng dưng chạm trán với nền
kinh tế thị trường, mua bán tự do chẳng cần tem phiếu, đã bị choáng ngợp
trước cái mà các chính ủy của họ thường dạy là "xã hội tiêu dùng". Họ
như từ những vườn rau đơn điệu bước vào một hoa viên lộng lẫy trăm màu,
ngàn sắc. Những chiếc xe quân đội bùn đất lọ lem, hơn một lần xuôi ngược
Trường Sơn qua đường mòn Hồ Chí Minh, đậu đầy trên các con đường phụ cận
khu chợ Bến Thành và thậm chí ngay trên bùng binh trước cửa Nam của chợ.
Một lần nữa, người dân Sài Gòn lại sống với ký ức về một thời của các
quân đội viễn chinh từng nghinh ngang đậu xe theo sở thích cá nhân của
ông tài xế. Với những người bán buôn đầu chợ, cuối đường thì những chàng
bộ đội hôm nay cũng không khác gì người lính viễn chinh xưa kia. Từ một
nơi nào đó họ đã đến, rồi đầu hôm sớm mai họ lại ra đi. Cho nên mua bán
với họ người ta không cần phải quan tâm đến chuyện duy trì quan hệ về
lâu về dài. Thế là những anh chàng bộ đội ngỡ ngàng trước nếp sống dồn
dập của Sài Gòn lại có cơ hội để đối chiếu lý thuyết và thực tế của bài
học vốn dĩ cho rằng "bọn con buôn cá mập lúc nào cũng coi lợi nhuận là
trên hết". Dân chúng kháo nhau rằng không biết sao mà bộ đội có quá
nhiều tiền như vậy lại toàn giấy bạc năm trăm mới? Thế là dư luận loan
đi nào là bộ đội được thưởng sau khi chiến thắng, nào là bộ đội cướp
được kho tiền của ngân khố, của ngân hàng, của nhà giàu bỏ của chạy lấy
người,... Trong tinh thần đó, giới buôn bán sẵn sàng chủ trương "chém
đẹp" những khách hàng ngây thơ lại lắm bạc nhiều tiền kia. Bộ đội chẳng
mua hàng gì cầu kỳ. Những gì họ thích cũng chỉ là mấy chiếc máy thu
thanh mà họ gọi là "cái đài", đồng hồ đeo tay, áo len, kiếng mát, viết
máy, quần áo may sẵn. Một vài người buôn bán, khéo chớp thời cơ, mở ra
loại cửa tiệm hè phố dọc theo đường Tự Do để bán những đôi "dép râu",
lấy vỏ xe hơi làm đế và ruột xe hơi làm quai. Một loại dép không thấy
ai sử dụng trong xã hội Sài Gòn trước kia nhưng lại là một thành phần
quân trang của bộ đội. Một loại "cửa tiệm" thật ngạo nghễ nhưng hợp thời
trang, đầy thách thức và mỉa mai như một quả đấm đe dọa những hiệu buôn
sang trọng vốn có trên con đường chính này của thủ đô miền Nam. Thế
nhưng đó là một trong những đề tài độc đáo có khả năng thu hút một vài
toán thu hình của các đài ngoại quốc.
Cũng là người Việt
Nam nhưng ngôn từ mà bộ đội sử dụng nghe có phần lạ tai dù người Sài Gòn
đâu xa lạ gì với ngôn ngữ miền Bắc sau bao nhiêu năm chung sống một cách
khá phổ biến với người di cư từ 1954 đến lúc bấy giờ. Cách vận dụng ngôn
ngữ lạ tai đó của bộ đội đã tạo thành những giai thoại vui để cho người
Sài Gòn, trót đánh mất dĩ vãng, quên được phần nào nỗi niềm đau khổ chưa
được bao nhiêu tuổi đời. Tiếu lâm là một hình thức trả thù của người yếu
thế. Ðể nói về một chiếc đồng hồ đeo tay tự động, có mặt số dạ quang và
chỉ ngày trong tuần, trong tháng, họ mô tả một cách khá ngây ngô, nhưng
không kém phần thực tế là "đồng hồ không người lái, mười hai đèn và hai
cửa sổ". Cuộc chạm trán giữa hai nếp sống Việt Nam đã diễn ra trong một
bầu không khí mang sắc thái hài kịch đó đã xoa dịu một đôi chút những
chấn động, những giây phút sửng sờ mà sự sụp đổ quá đột ngột của một
vùng đất từng được coi như là "tiền đồn của thế giới tự do" ở Ðông Nam Á
đã tạo ra. Thế là tinh thần hài hước phản phất chút ít châm chọc mỉa mai
cố hữu của dân tộc Việt Nam lại có dịp trổi dậy. Một thể thức chống đối
trong tiêu cực của con người Việt Nam, được tiếng là vui thì cười đã
đành mà khổ cũng cứ cười. Những câu nói ngây ngô đó, được cho là của
những con người cách mạng từ Bắc mới vô Nam được loan truyền đi khắp
thành phố mà tính chất đích thực của nó không ai có thể xác minh được.
Mà cần gì phải xác minh, cứ cười đi cái đã cho vơi bớt nỗi khổ đau của
một giai đoạn sống. Có thể những anh chàng bộ đội từ quê ra tỉnh kia đã
nói như vậy mà cũng có thể là một vài bộ óc "Ba Giai Tú Xuất" nào đó của
Sài Gòn đã bịa đặt ra để "trả thù" người chiến thắng. Không thắng được
bằng gươm bằng súng thì ít ra cũng hạ nhục được trong tâm tư thầm kín
của bản thân mình. Dư luận thành phố trong những ngày đó cho rằng những
chàng bộ đội, vào những nhà sang trọng mà chủ nhà đã di tản, hoặc nhà
cho Mỹ thuê mướn trước kia để chiếm giữ, không biết được công dụng của
cái chậu vệ sinh tối tân. Ði chợ về, họ thả cá vào đó để rộng nước chờ
đến lúc cần sẽ làm thịt. Nhưng khi họ táy máy giựt nước thì cá chui
xuống hầm vệ sinh. Thế là mất cả tiền lẫn công! Tức giận và hối tiếc, họ
cho rằng địch và CIA (Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ) đã gài bẩy phá hoại.
Người ta cũng kháo nhau rằng bộ đội vào quán định uống cà-phê lọc thì
bảo đem "cái nồi ngồi trên cái cốc". Một gã bộ đội được ngồi trên hè phố
Sài Gòn để uống cà-phê "từ nồi sang cốc" và phì phà điếu thuốc "có cán"
lẫn "nhẫn" thì quả thật là hết ý!
Rồi thì những bài
hát được phát thanh suốt ngày đêm, nghe đến bực mình, đã được người Sài
Gòn lấy làm nền mà đặt ra những lời ca mới đầy châm chọc mỉa mai. Không
chết ai, nhưng chỉ cốt làm cho những người cách mạng và có cảm tình với
cách mạng thêm phần khó chịu. Ðược như vậy kể như thành công, chưa kể
đến những phiền hà có thể xảy đến cho người hát lên những bài hát như
vậy vì tác giả của những lời ca đó dễ gì tìm ra được. Thế nhưng, trong
thời buổi ban đầu này, những người vừa mới chiến thắng kia đang còn quá
bận rộn với những công việc to lớn hơn.
ß
Ðể lấp bằng khoảng
trống điều hành trong buổi giao thời, những nhà cai trị vừa nắm quyền đã
để cho các cơ sở tự do phát huy sáng kiến, miễn sao không tác hại đến
chủ trương của trung ương. Một trong những phương thức để chứng minh sự
hiện diện của thế lực cầm quyền là cho những cái loa ở đầu đường góc chợ
hoạt động thường xuyên, hầu như không ngơi nghỉ. Như kẻ đi đêm mà trong
lòng sợ bóng, sợ vía, sợ ma, sợ quỷ, miệng cứ huýt sáo để xác minh sự
hiện hữu của mình trong không gian và thời gian. Trước kia, nhà của bất
cứ người dân nào của Sài Gòn cũng có ít lắm là một máy thâu thanh nên
những cái loa truyền thanh công cộng không biểu lộ được trọn vẹn chức
năng của nó. Vả lại, trong thời buổi bấy giờ nếu những cái loa công cộng
có hoạt động thì cũng có giờ, có lúc, đâu phải như bây giờ cứ nói và ca
hát ra rả từ tờ mờ sáng tinh sương cho đến lúc nửa đêm về sáng. Hình
thức đã vậy mà nội dung lại còn xa lạ với dân chúng Sài Gòn hơn bao giờ
hết vì phần chủ yếu của thời gian phát thanh là tuyên truyền để phô
trương thanh thế liên hệ đến lý thuyết của chế độ. Người ta áp dụng kỷ
thuật đề cao, đánh bóng chế độ một cách rẻ tiền là cứ lập đi lập lại một
vấn đề với chủ đích nhồi nhét vào tâm trí của đối tượng cho đến khi nào
chịu nghe mới thôi. Có thực sự chấp nhận hay không lại là một vấn đề
khác. Cơ quan phụ trách công tác truyền thanh cũng biết cách làm sao cho
tai nghe của quần chúng không bị nhàm chán. Họ cho những chương trình
văn nghệ ngắn xen kẽ vào các bài lý thuyết khô khan, cố gắng nói lên cho
bằng được cái hay, cái đẹp, cái tài ba của chế độ và chủ nghĩa. Nhưng dĩ
nhiên là văn nghệ cách mạng, khác hẳn với những bài vọng cổ chứa chan
tình cảm hay những điệu hát tân nhạc, mà người thắng cuộc từng gán cho
nó một nhãn hiệu xấu xa là "nhạc vàng", tức là nhạc phản cách mạng và
phản động. Nếu là cổ nhạc thì văn nghệ cách mạng cũng chấp nhận nền nhạc
vọng cổ đầy dân tộc tính miền Nam, nhưng lời ca phải mang bản chất đấu
tranh và cách mạng. Bao lâu nay, quần chúng đã thấm nhuần những bài vọng
cổ với lời ca trữ tình, giờ đây lại phải nghe âm điệu vọng cổ trên đó
người ta đã thêu dệt những lời ca tiếng hát đấu tranh hay ca ngợi Bác và
Ðảng! Lạ tai đến sửng sờ! Nếu nhạc mới thì lại được ca bằng một giọng
kim, con đẻ của nền nhạc nhà hát cổ điển. Lời ca tiếng hát đó làm cho
người Sài Gòn ghê sợ vì nó mang một sắc thái hậm hực, như chừng đã đến
lúc ăn tươi nuốt sống đối tượng. Người dân thành phố lại nhớ đến chương
trình "Opéra Bùi Thiện" của người ca sĩ chiêu hồi đã có lúc nổi tiếng
trong các chương trình ca nhạc của Sài Gòn trên truyền thanh, truyền
hình và trên sân khấu của Maxim's cùng với nữ ca sĩ Sơn Ca. Biết đâu Bùi
Thiện lại chẳng là một chiến sĩ tiền phong của dự án mở đầu cầu văn nghệ
chiến đấu kiểu Opéra vào miền Nam, nhưng rồi chung cuộc lại bị miền Nam
thu hút? Cung cách tuyên truyền bằng loa phóng thanh thường trực của
chánh quyền mới không thu hút được quần chúng Sài Gòn lại chuốc lấy sự
ghét bõ thảm thương. Những người cộng sản mới chiến thắng có lẽ đã đinh
ninh rằng những gì họ đã làm trước kia trong mật khu, với quần chúng
nông thôn, cũng có thể đem áp dụng ở thành thị.
Trong những ngày ở
chiến khu, khi Việt cộng về làng và cho loa phóng thanh lên tiếng được
là họ có thể chứng minh cho quần chúng địa phương thấy ai là người làm
chủ vùng đất liên hệ, dù chỉ tạm bợ, một giây, một lúc nào đó. Tiếng nói
của loa một phần nào đã xác minh tư thế của Việt cộng về quyền lực đối
với vùng đất họ tạm chiếm. Hơn nữa, đối với đa số người dân nông thôn
chỗ nào ồn ào ca hát là nơi đó vui. Nhưng giờ đây, đối với người dân
thành phố, chứng minh sự hiện hữu của mình bằng những cái loa la oang
oang suốt ngày qua đêm là một sai lầm. Người thị dân, cả ngày đầu tắt
mặt tối với miếng cơm manh áo, với công ăn việc làm, nay lại gánh thêm
những niềm lo âu và nỗi băn khoăn về thân phận của chính mình khi đất
nước đã đổi chủ, đã tiếp nhận quá nhiều tiếng động ngoài đường phố, nơi
làm việc. Khi về nhà, họ mong mỏi được chút yên tĩnh để tinh thần bớt
căng thẳng thì lại phải nghe những tiếng nói không thôi và những câu ca
lời hát chói tai của những cái loa đầu phố! Biết đâu điều đó cũng là
dụng ý của những người mới lên vị thế cầm quyền ở thành phố nhằm chuẩn
bị dân chúng Sài Gòn về cung cách sinh sống trong chế độ của họ là phải
chấp nhận những gì Ðảng và Nhà Nước nói ra, chẳng có sự chọn lựa nào
khác. Người Sài Gòn không còn nhiều đài phát thanh để nghe theo sở thích
của riêng mình cũng như không còn nhiều báo để xem hàng ngày.
Trong mấy ngày đầu,
khi Việt cộng mới vào thành phố, một vài tờ báo của Sài Gòn cũ, những tờ
báo tự cho rằng mình xưa nay vốn có cảm tình với cộng sản - nếu không
muốn nói là nằm vùng - cũng liều mạng xuất hiện, dĩ nhiên là để ca ngợi
chế độ mới lên. Những tờ báo đó coi công cuộc "đại thắng mùa xuân" của
Văn Tiến Dũng cũng chẳng khác gì một thứ đảo chánh dẫy đầy và thừa mứa ở
miền Nam trong những năm 60. Cứ để ra một vài số báo tung hô chế độ lên
phiên rồi sau đó có thể ung dung tự tại, sinh hoạt bình thường bán báo
và hốt bạc. Tuy nhiên, các số báo đầu tiên đó chỉ đăng những tin tức lấy
ở đài phát thanh và hình ảnh của những người vừa thắng cuộc, mà hình ảnh
to lớn nhứt và chiếm chỗ tốt nhứt trên trang đầu báo dĩ nhiên là của Hồ
Chí Minh, có đóng khung cẩn thận. Báo loại đó đâu dám có bài xã luận,
tiết mục mà bất cứ tờ báo nào xứng đáng với chức năng của nó cũng phải
có. Nhưng, trong trường hợp này, người chủ biên một tờ báo cơ hội chủ
nghĩa như vậy liệu phải viết như thế nào đây? Cái vốn về ý thức hệ cộng
sản hay xã hội chủ nghĩa liệu họ có được bao nhiêu để viết ra cho khỏi
phiền lòng những nhà cai trị đầu hôm sớm mai này? Sự xuất hiện dè dặt
của những tờ báo đó cũng chỉ là để thăm dò chánh quyền mới và để giành
một chỗ đứng dưới ánh mặt trời trong chế độ đang lên. Nhưng những người
cộng sản hôm nay đâu phải như những ông tướng đảo chánh trước kia. Họ
không chấp nhận bất cứ một tiếng nói nào khác hơn tiếng nói của chính
họ. Cho nên, những tờ báo lạc loài và lạc lỏng kia đành mang số phận
chết non và dân chúng miền Nam chỉ phải đọc tờ "Sài Gòn Giải Phóng",
cùng với hai tờ "Nhân Dân" và "Quân Ðội Nhân Dân" của miền Bắc. Mãi về
sau, trong một lớp kịch khó hiểu, tờ "Tin Sáng" của ông Ngô Công Ðức,
dân biểu chế độ cũ, lại được phép ra mắt. Nhưng rồi cũng phải "chấm dứt
nhiệm vụ lịch sử" của nó một cách mờ ám, không thể giải thích, vã lại
cũng chẳng cần phải giải thích, như khi người ta giết một con ruồi hay
con kiến.
Phát thanh thì lý
thuyết giáo điều, còn báo chí thì như sự vụ văn thơ hành chánh nên quần
chúng lại sa vào một mê hồn trận những tin đồn. Tai hại hơn nữa là với
một chế độ mới lạ, thiếu những cơ sở để có thể suy luận về thực chất của
những tin tức nhận được qua truyền miệng nên tin đồn có những tác dụng
đáng ngại vô cùng. Tin đồn làm cho dân chúng Sài Gòn hoang mang thế là
những hành động không căn bản xác đáng đua nhau xảy ra gần như mâu thuẫn
với thực tại. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, rồi kế đến quân đội và hành
chánh Việt Nam Cộng Hòa được lịnh triệt thoái khỏi Cao Nguyên thì ở Sài
Gòn người ta bắt đầu nghe rằng những bàn tay diễm kiều của phái nữ có
móng thoa đỏ không được cộng sản chấp nhận nên dùng kềm để nhổ mà không
cần đến thuốc tê. Rồi thì những cậu trai quần loa, tóc xỏa đều bị trừng
trị một cách xứng đáng. Ðại để là phải sống khắc khổ trong chế độ của
những người "cùng khổ". Trong bối cảnh lỡ khóc lỡ cười đó của không biết
bao nhiêu là gia đình thì điều khó hiểu nỗi là Sài Gòn lại có khá nhiều
đám cưới diễn ra. Không cần phải rình rang lộng lẫy, không cần phải tiệc
tùng đình đám cao sang mà chủ yếu chỉ cần một cuộc gặp mặt gia đình hai
họ để chứng giám và tác thành cho đôi trẻ. Như kiểu đám cưới chạy tang.
Thế nhưng không, tổ chức lễ cưới như vậy nhằm tạo ra một chuyện đã rồi
để giết chết từ trong trứng nước một ý đồ độc hại của cộng sản, được dư
luận tung ra ngay sau khi Việt cộng vào thành. Người ta đồn rằng rồi đây
thế lực cầm quyền vừa mới lên ngôi sẽ ép buộc các cô gái Sài Gòn phải
chọn thương binh của họ làm chồng, gọi là để tưởng thưởng công lao cho
chiến sĩ của họ. Tin đồn nghe chừng có lý nên các cô gái Sài Gòn thấy
thương cho phận mình nếu chẳng may được Ðảng và Nhà Nước chiếu cố theo
kiểu đó. Thế là những cuộc tình duyên vừa mới hứa hẹn được đẩy mạnh và
những tình cảm vừa tạo dựng cũng được khuyến khích để nhanh chóng đi đến
hôn nhân. Yếu tố môn đăng hộ đối không còn căn cứ trên tình cảnh gia
đình nữa mà chỉ cần là những gia đình cùng một chiến tuyến hôm qua. Vì
dù thế nào đi nữa cũng còn dễ thở hơn phải gồng gánh những anh thương
binh và thậm chí cả những anh "binh tròn"
cộng sản. Cho nên, trong lúc gia đình đang trăm chuyện ngổn ngang mà còn
phải xoay xở để tổ chức một lễ cưới cho con, dù sao cũng phải coi cho
được vì là đời người có mỗi một lần quan trọng đó mà thôi.
ß
Trong lúc đang có
trăm thứ phải lo, ngàn chuyện phải tính thì báo chí, truyền thanh và
truyền hình thành phố lại phổ biến cái thông cáo chẳng ai ưa của Ủy Ban
Quân Quản thành phố Hồ Chí Minh về việc "đăng ký học tập cải tạo của
ngụy quân và ngụy quyền". Chỉ cần đem theo đồ dùng và thuốc men đủ cho
một tháng, không cần đem theo nhiều áo ấm, cơm nước đã có nhà thầu cung
cấp, đó là nội dung chính của bản thông cáo. Có ba ngày 13, 14 và 15
tháng 6 để trình diện tại những địa điểm được quy định cho từng cấp bực
quân đội hay ngạch trật hành chánh và đẳng cấp chánh trị. Thoáng nghe
qua thì vô cùng đơn giản, cứ như thông cáo của bất cứ khóa học nào của
ngày xưa. Bấy giờ, dân chúng Sài Gòn, phần lớn đều có thân nhân dính líu
trong cái mà cộng sản cho là "ngụy quân, ngụy quyền", bắt đầu cảm thấy
cái mùi của cộng sản. Trong vòng một tháng rưỡi qua, những người vừa mới
chiến thắng một cách đột ngột, vì một lý do nào đó, đã để cho quần chúng
thành phố hưởng bầu không khí thoải mái, như một chút ân huệ trước khi
gánh chịu cam go.
Những người cầm
quyền cộng sản cũng ý thức được tính chất đáng khiếp sợ của điều mà họ
gọi là học tập cải tạo nên đã tiến hành một cách hết sức thận trọng.
Trước khi có thông cáo kêu gọi công chức cao cấp và sĩ quan quân đội
cũng như cảnh sát đi học tập họ đã tiến hành đợt học tập cho công chức
cấp thấp và hạ sĩ quan. Chỉ học tại chỗ và qua một thời gian ngắn. Không
có gì gay gắt, như một cuộc ôn tập cho học sinh, sinh viên trước ngày
thi. Do đó dư luận chung chung nghĩ rằng chuyện học tập thì ra cũng
chẳng đến đổi nào, suy luận trên căn bản là ngày nay họ đã chiếm được cả
nước. Thế là những người sắp sửa lên đường học tập cải tạo cảm thấy có
phần nào yên tâm. Dù vậy, những ai quen biết hoặc họ hàng với môi trường
cách mạng mới về thành cũng không bỏ qua cơ hội tìm hiểu thêm về chuyện
học tập cải tạo đã được tiến hành ở miền Bắc sau hiệp định Genève hồi
1954. Dĩ nhiên đối với người cộng sản chuyện đó là một điều tốt, nên
làm. Thậm chí có những người anh em ruột thịt cũng khuyên bảo nên đi
trình diện càng sớm càng tốt. Thế nhưng tin nhau thì cũng bằng người
dưng nước lã tin cộng sản vậy thôi. Tuy nhiên, cũng có đôi chút thận
trọng trong việc đi trình diện học tập cải tạo.
Người trình diện đầu
tiên là tướng Lâm Văn Phát, một ông tướng lúc hưng thời đã nổi tiếng về
tánh tình nóng nảy một cách vô căn cứ. Như tài tử chính của một phim,
ông được đưa lên truyền hình và báo chí để cổ vũ khuyến khích những
người khác. Trong những ngày được quy định thời gian trình diện như vậy,
mọi phương tiện truyền thông đều được khai thác tối đa để cho thiên hạ
thấy rằng trình diện học tập cải tạo không có gì đáng sợ hết và những
người đã trình diện vẫn sinh hoạt một cách thoải mái và vui tươi. Thế
nhưng, vì tánh mê tín dị đoan truyền thống và vì muốn cùng với gia đình
tận hưởng những giây phút quý báu trước giờ chia tay nên những ngày đầu
số người trình diện không được rộn rịp. Ngày 13.6.75 là ngày thứ sáu.
Theo nếp sống của người Pháp còn để lại thì thứ sáu mười ba là một ngày
không hên. Ngày 14 kế tiếp lại nhằm ngày 14 âm lịch, ngày mà quần chúng
Việt Nam thường cho là "Mùng năm, mười bốn, hăm ba. Ði chơi còn
lỗ , nữa là đi buôn". Cho nên, dù có những
đoạn phim truyền hình dẫn chứng, những bài báo mô tả và bài nói đầy tính
thuyết phục trên đài phát thanh, con số người trình diện học tập trong
hai ngày đầu tiên đó cũng không mấy khả quan như những người phụ trách
mong muốn. Vào những ngày thứ bảy 14 và chủ nhựt 15, các quận đội và
phường đội đi lùng sục những nhà có đối tượng phải đi học tập để hỏi lý
do tại sao chưa đi trình diện. Thậm chí có những địa phương, muốn nắm
phần chắc ăn, đã bắt luôn những người nấn ná chờ đến ngày cuối cùng để
đi trình diện. Dĩ nhiên là không đúng luật, nhưng vào thời buổi đó có
thưa kiện thì cũng bằng con kiến mà kiện củ khoai. Vã lại thân phận của
người thua trận, như cá nằm trên thớt, chẳng còn gì khác hơn là tuân
hành lý lẽ của kẻ chiến thắng, dù là lý lẽ xuất phát từ một thứ luật
rừng xanh mà hậu thuẫn là họng súng AK.
Rồi ngày trình diện
cuối cùng cũng phải đến. Một túi xách tay, một chiếc chiếu cá nhân và
một phần ăn - vì bữa ăn đầu tiên ngày trình diện, cá nhân đi học tập cải
tạo phải tự lo lấy - những cựu tướng lãnh và cựu đại tá tập trung trình
diện tại đại học xá Minh Mạng (địa điểm dành cho hai cấp bực này) được
cô lập cẩn thận để đi vào một quá trình phiêu lưu mà mức đến chẳng biết
là nơi đâu. Một chiều chủ nhựt buồn, thật là buồn! Phòng nhận người
"đăng ký" cứ lưa thưa. Một vài bạn bè đồng ngũ và đồng cảnh ngộ còn đứng
xớ rớ đây đó, sau khi đã "ghi danh nhập học"! Có lẽ đây là những người
cuối cùng vì bóng đêm đã bắt đầu phủ giăng. Có một đại tá thiếu mất hai
chân, trót đã để lại ở một chiến trường nào đó, gia đình phải đưa đến
bằn chiếc xe lăn. Người phụ trách việc "đăng ký" không quyết định gì
được, bảo "chờ lãnh đạo chúng tôi quyết định". Kế đó, tướng Nguyễn Văn
Vỹ đến, cũng khai đang bịnh. Một lúc sau, có lịnh cho xe đưa ông đi đến
một bịnh viện của thành phố và về sau không ai thấy ông đâu nữa trong
các trại học tập cải tạo. Qua sự can thiệp của một tòa đại sứ nào chăng?
Trong giờ phút đó, lo cho chính phận mình cũng đã gian nan rồi, ai nghĩ
làm gì đến chuyện của người khác.
Theo thứ tự trình
diện, "khóa sinh học tập cải tạo" được đội ngũ hóa ngay. Cứ 9 người vô
một "A", 3 "A" thành một "B" và người trình diện trước tiên trong "A" là
A Trưởng và người A Trưởng thứ nhứt kiêm nhiệm chức vụ B Trưởng, một con
người được coi như là trung gian giữa "cải tạo viên" và cán bộ cai tù.
Số người trình diện sau cùng họp thành B9, với nhân số thu hẹp chỉ có 21
người thay vì 27 như những B khác. Như vậy, tổng số đại tá của Việt Nam
Cộng Hòa đi trình diện học tập tại đại Học Xá Minh Mạng là 237 người,
còn 22 tướng lãnh họp thành một B đặc biệt. Tối chủ nhựt đó, trong khi
những người trình diện cuối cùng của buổi chiều đang ngồi ăn "cơm cầm
tay", hay nói nôm na ra là gậm bánh mì thịt ở một góc âm thầm nào đó
trong tòa nhà thì những bạn bè trình diện trước xếp hàng đôi, tay muỗng
tay ca, vui vẻ tiến vào phòng ăn có nhà thầu phục vụ, mặt mày hớn hở vui
tươi.
Thời hạn trình diện
chấm dứt, bàn giấy tiếp nhận người không còn một bóng dáng nào của cán
bộ phụ trách, chỉ còn lại những người vừa mới trình diện ban chiều, ngơ
ngác, lang thang. Chẳng thấy có chỉ thị gì và cũng chẳng biết phải làm
gì dù đêm đã khuya. Mỗi người tự động tìm một vùng gạch trống vắng để
trải chiếc chiếu cá nhân của mình mà ngả lưng đỡ qua đêm. Bầy muỗi đại
học xá, đói ăn gần hai tháng qua, bắt đầu tung cánh đi tìm mồi nên tiếng
vo ve nghe rợn người. Các "khóa sinh" trễ muộn đó tìm cách mắc mùng, nếu
không thì làm sao mà yên thân được với bầy muỗi đói kia của cộng sản.
Chiếc đồng hồ treo tường của một nhà nào gần đó điểm rõ chín tiếng trong
đêm Sài Gòn, một đêm đặc biệt vào khoảng đó đã im lặng như tờ. Một vài
tiếng thở ra não nuột, như chừng tiếc nuối một quá khứ mới đó mà đã xa
xôi vạn dặm. Một đôi ba tiếng ngái, tưởng chừng như vô tư, nhưng âm
thanh đôi khi hậm hực, đầy nỗi căm hờn.
Tưởng đâu đêm đầu
tiên đi "học tập cải tạo" trong một Sài Gòn nhuộm đỏ cứ như thế trôi qua
nào ngờ đâu đến khoảng 22 giờ hơn thì một vài tiếng súng lại nổi lên.
Lại chuyện gì đây? Thắc mắc thì thắc mắc nhưng những bộ óc quân sự của
mấy mươi năm qua cũng chẳng buồn quan tâm vì đâu còn là vấn đề của họ
nữa. Tiếng súng ra hiệu kia được những tiếng súng từ nhiều phía đáp nhận
xong thì nhiều loạt tu huýt vang dội trong khu đại học xá, từ ngoài sân
vào trong nhà, từ trên lầu xuống từng trệt. Tiếp theo sau là những tiếng
ra lịnh:
- Tập hợp ở phòng
đăng ký! Tập hợp
theo từng B! Khẩn trương lên!
Những
cặp mắt ngáy ngủ và băn khoăn từ trên lầu đổ xuống, từ những phòng khác
chạy sang. Những cái nhìn đầy câu hỏi và thắc mắc.
Ai cũng muốn biết lý do của cuộc tập hợp giữa đêm đen này, nhưng chẳng
có được một câu trả lời. Xôn xao, nôn nóng, nhìn
trước ngó sau, chờ một bóng dáng cán bộ cộng sản.
Từ bóng tối họ xuất hiện khá đông, nhưng không biết
được ai là người có thẩm quyền vì cùng một thứ quân phục như nhau.
Cũng nón cối, quần dài, áo dài tay màu xanh
rêu, nhưng không một phù hiệu hay quân hàm gì hết. Cán bộ súng dài đứng
vòng ngoài, cán bộ súng ngắn đứng giữa phòng hội và cứ thế mà chờ.
Khoảng nửa giờ sau, một cán bộ tóc bạc hoa râm, cũng quân phục không ủi
nhưng thẳng nếp, cũng súng ngắn nhưng được đám đông cán bộ đứng chờ rẽ
ra nhường lối đi, hướng về chiếc bàn kê giữa phòng, làm bàn đăng ký lúc
ban chiều. Ðứng sau chiếc bàn, nét mặt đăm chiêu, người cán bộ có vẻ cao
cấp đó tuyên bố:
- Bây
giờ chúng ta làm việc. Ðêm nay, chúng ta sẽ hành quân bằng xe tải trên
một lộ trình dài khoảng 50 cây số. Giờ khởi động sẽ cho biết sau. Mục
đích, yêu cầu đối với các anh như sau:
Một là:
Tuyệt đối giữ im lặng và không được hút thuốc trên đường di chuyển;
Hai là:
Mọi ký tín ám hiệu để liên lạc nhau đều tuyệt đối bị cấm;
Ba là:
Mọi hành động đều phải được phép của bộ đội áp tải;
Bốn là:
Phải tuyệt đối giữ đội hình. A Trưởng và B Trưởng hoàn toàn chịu trách
nhiệm về mặt này;
Năm là:
Tuyệt đối giữ kỷ luật và trật tự xuyên suốt lộ trình;
Sáu là:
Bộ đội áp tải có quyền xử lý trước, báo cáo sau.
Như vậy có rõ chưa nào?
Có anh nào thắc mắc gì không?
Phòng họp im phăn phắt.
Chiếc quạt trần cũ kỹ, mỏi mệt và ngao ngán chậm rãi
quay "xệch xạc" trong khi "hàng thần lơ láo" chẳng biết phận mình rồi
đây sẽ ra sao. Thân phận đang trong tay
cộng sản mà còn di chuyển ban đêm nữa thì không biết chúng nó định đưa
mình đi đâu đây? Trong phút chốc, những hình ảnh ghê
rợn của mồ chôn tập thể ở Huế hồi Tết Mậu Thân lại xuất hiện, như một
đoạn phim kiểu liên tưởng đen trắng trong một cuộn phim màu. Thắc
mắc và tự hỏi không dám thành lời, chưa được giải đáp thì gã cán bộ "làm
việc" lại lên tiếng tiếp:
- Nếu
không ai thắc mắc thì các anh có một tiếng đồng hồ để chuẩn bị hành
trang, xong tập hợp tại đây theo từng B một.
Rõ chưa?
Một tiếng "Rõ" đồng loạt khá
to vang rền khu đại học xá giữa đêm khuya cộng sản của Sài Gòn.
Rồi như đàn ong vỡ tổ, những người đi học tập cải tạo quay về phòng ngủ
của mình để gom góp "đồ tế nhuyễn, của riêng tư", chuẩn bị hành trang
cho một đoạn đường mù mịt vùng mức đến, chẳng ai nói với ai một lời nào.
Mỗi người tự nhủ với tâm tư mình, tự đặt ra những
nghi vấn để rồi tự trả lời nhưng kết quả không bảo đảm.
Hành lý gọn gàng dưới chân mỗi người, từng B, từng B
đứng lặng như tờ trong phòng họp để chờ lịnh khởi hành.
Một tiếng đồng hồ quy định đã trôi qua, thêm chín
mươi phút nặng nề nữa cũng qua luôn mà không thấy động tĩnh gì hết.
Trời đêm đầu hạ cứ trong xanh với vầng trăng rầm
cộng sản trơ trẽn, vô duyên. Một vài cụm mây
trắng lơ lửng trôi qua như những bóng ma trên thảo nguyên hoang vắng, xa
lạ. Có những tấm lòng nặng tín ngưỡng mong muốn dâng lên Trời cao
lời lẽ nguyện cầu tha thiết nhưng cảm thấy hình như hướng lên Thượng Ðế
đã tắc tị! Ðang đêm mất ngủ, những người đi học tập
cải tạo bắt đầu thấy thấm mệt nên một số người đã bắt đầu ngồi lên hành
trang, một số người khác nằm dài. Chờ đợi mà không đối tượng là
cả một chuỗi dài ngao ngán và mông lung!
Một vài
người bắt đầu chợp mắt ngủ lấy chút nào hay chút nấy rồi tới đâu thì
tới, bỗng dưng một vài tiếng súng lại phá tan sự yên lặng của đêm Sài
Gòn. Lại tiếng súng! Kinh nghiệm đầu tiên về sinh hoạt cộng sản là ra
lịnh bằng tiếng súng. Có thể nay đã chiến thắng rồi họ lấy tiếng súng
làm oai với "bọn ngụy" chơi chăng? Sau tiếng súng đó, bộ đội súng dài
lẫn súng ngắn ở đâu mà xuất hiện ra đông vô số. Bộ đội súng dài đến bố
trí ở các xe tải đang nằm chờ ngoài đường
vắng, còn bộ đội súng ngắn thì mỗi người phụ trách một B thành viên học
tập cải tạo. Bộ đội phụ trách B hướng dẫn toán liên hệ đến chiếc
xe tải được ấn định mà chỉ có ông ta biết.
Hàng đôi của B được tách ra làm hai, mỗi hàng đứng dọc
theo một phía của xe. Bửng sau của
xe được mở ra, mỗi bên có một bộ đội súng
dài, ngón trỏ đặt trên cò súng trong tư thế sẵn sàng bóp cò. Hai cải tạo
viên đầu hàng được lịnh lên xe trước để chuyển và xếp hành lý cho cả B.
Chất xếp xong xuôi, hai người này được lịnh nhảy xuống đất để bắt đầu
leo trở lên cùng với cả B, có bộ đội đếm đầu cẩn thận. Sau khi cả B lên
hết trên xe, hai bộ đội lên sau cùng, khóa
bửng xe lại, ngồi ở hai góc cuối xe, súng chĩa nòng vào cải tạo viên.
Như vậy là xong, kể từ giây
phút này những cải tạo viên đã trở thành tù học tập cải tạo.
Lên xe xong, tù học tập cải tạo được lịnh phải ngồi lên trên đống hành
lý và được nhắc lại sáu điều quy định đã được công bố trong lúc "làm
việc" ban nãy. Chiếc xe được che vải bạt bít
bùng, chỉ thoáng nhìn thấy được bên ngoài qua kẽ hở của hai tấm vải bạt
phủ phía sau xe. Chỉ dấu của một thời đen tối đang
bắt đầu.
Sau
khoảng 30 phút để ổn định, chiếc xe nổ máy và
bắt đầu chuyển bánh. Vận dụng trí nhớ và óc tưởng tượng, những người nằm
trong lòng xe tối đen cố phác họa trong tâm
tư lộ trình của chiếc xe tải đang đưa họ đi trong đêm yên vắng của thành
phố Sài Gòn giờ giới nghiêm. Cũng khá gay go vì
thiếu mất những điểm chuẩn. Qua khe hở của
hai tấm vải bạt phe phẩy dưới sức gió họ chỉ thấy phần lớn của những
ngọn cây và những bóng đèn đường. Thỉnh
thoảng một vài cao ốc đặc biệt, một vài bảng hiệu các cửa tiệm buôn bắt
đầu cho họ có một ý niệm về lộ trình. Xe
quanh đi quẩn lại trên nhiều nẻo đường thành phố như cố tình đánh lạc
hướng, đưa họ vào một mê cung nào đó. Dựa
theo tiếng nổ của động cơ trong đêm thanh vắng thì xe đi thành
đoàn. Khoảng trên một tiếng đồng hồ di chuyển, họ
nhận thấy ánh đèn trắng xanh màu băng tuyết của loại đèn cao áp đặc
biệt, lúc bấy giờ chỉ có trên xa lộ Sài Gòn-Biên Hòa. Qua khỏi
ngã tư Hàng Xanh (Thị Nghè), đoàn xe ngừng
lại. Những tù học tập cải tạo vẫn trong thế án
binh bất động, đâu ngồi yên đó. Hai họng súng AK của bộ đội cứ trực diện
lom lom nhìn họ như thôi miên. Hai chàng bộ đội, nét
mặt nặng căm thù, không chấp nhận bất cứ một cử động nào không được
phép. Có tiếng động cơ của một chiếc xe
nhỏ, loại xe du lịch, chạy từ xe này đến xe khác để kiểm điểm tình huống
của mỗi xe. Người bộ đội súng ngắn, ngồi trước xe
với tài xế, báo cáo tình hình của xe mình cho thủ trưởng của ông ta đi
trên chiếc xe du lịch kia. Rồi một tiếng súng AK và chiếc
xe tải lại nổ máy. Xe di
chuyển với một tốc độ chậm, khoảng 30 cây số một giờ, mặc dù xa lộ gần
như hoang vắng. Thỉnh thoảng có tiếng xe
Jeep chạy tới chạy lui, vừa canh chừng vừa hộ tống đoàn xe. Gần một đêm
thức trắng và căng thẳng, những người tù học tập cải tạo bắt đầu bớt
quan tâm đến việc theo dõi lộ trình để lấy
lại giấc ngủ dở dang. Không biết được bao lâu thì xe
lại ngừng. Qua kẽ hở của tấm vải bạt, vùng trời bên ngoài đã bắt đầu
sáng. Dưới đường đã nghe có tiếng người, của phụ nữ có mà của thiếu niên
cũng có. Người dân đang trên đường đi chợ chăng? Có
tiếng động cơ của máy kéo chạy trên đường và tiếng nói của những người
đàn ông kêu gọi nhau. Như vậy là thời gian đã bình minh về sáng,
kẻ đi chợ, người ra đồng ruộng. Nhưng đây là đâu?
Những người tù học tập cải tạo chẳng còn một ý niệm
nào nữa về không gian họ đang sống. Bỗng có một anh bạn, mặt mày
nhăn nhó, đưa ngón tay trỏ lên phát biểu:
- Tôi
xin đi ngoài!
- Anh
khắc phục! Chưa phải chỗ, không giải quyết. Tiếng người bộ đội đáp lại.
Một người tù học tập cải tạo
cần phải cấp bách cho ra ngoài những thứ không cần thiết của cơ thế
nhưng không được phép.
Cố đè nén một khó khăn sinh lý nên mặt mày anh tái mét, mồ hôi lạnh cứ
tuôn ra mặc dầu trời buổi sáng đang mát. Có nhu cầu
khẩn cấp, nhưng không biết đến lúc nào mới phải chỗ đây? Chỉ có
mỗi khó khăn tự nhiên không đè nén được như vậy mà cũng không được tự do
giải quyết!
Rồi
xe lại chuyển bánh tiếp tục di chuyển, đi về
một nơi vô định. Người trông cho mau tới được mức đến đó nhiều nhứt hiện
giờ phải là anh bạn có nhu cầu kia. Giá trị
của tự do lại được nhận ra trong một tình huống hết sức mỉa mai. Trong
những ngày cộng sản vừa chiếm được Sài Gòn thì đâu đâu, khắp hang cùng
ngõ hẻm, người ta cũng thấy câu nói được coi như là bất hủ của Hồ Chí
Minh nhan nhản trên các bích chương, biểu ngữ:"Không có gì quý hơn độc
lập tự do". Chỉ là một sự ghép chữ thông thường nhưng có giá trị vì do
"Bác" đưa ra. Thoạt đầu câu nói đó cũng chỉ có giá
trị cổ động và tuyên truyền, không tác dụng gì đến tâm tư một ai.
Cũng chỉ là một khẩu hiệu trong số nhiều khẩu hiệu
khác nhan nhản trên đường phố. Giờ đây, trong bóng tối của thùng
xe tải, trước điều nhỏ nhoi không đè nén được
mà người bộ đội kia bắt anh bạn đồng hành phải khắc phục thì câu nói
trên bắt đầu thắm thía. Trong cuộc sống, có những
cái nhỏ nhoi bị coi tầm thường vì cá nhân nhận được hay làm được mà
chẳng cần phải ý thức. Khi mất đi rồi, mới
thấy được cái tính nhứt thiết của nó. Thậm chí chế độ tự do
kia, vì đã sẵn có trong xã hội miền Nam trước
kia, được coi như hơi thở, như gió thoảng mây bay nên người ta cứ tận
hưởng nhưng lại quên rằng cần phải bảo vệ. Có bao giờ ai khuyên giữ gió,
có khi nào ai dặn gìn mây, nhưng mây gió mất đi rồi mới thấy tiếc ơi là
tiếc! Trên chiếc xe tải đi tù hôm đó có thể
có nhiều người cũng bâng khuâng với một nỗi niềm hối tiếc khôn nguôi.
------------------------
Ghi chú :
|