Phan
Quân |
Chuyện thời cải tạo
|
Nỗi Buồn Côi Cút
3. Tam Hiệp : Nửa từng địa ngục.
rong
đời thường, phút chia tay nào cũng buồn thảm dù là cuộc giả từ được mong
muốn, nhưng với nếp sống tù đày mỗi lần chia tay là cả một sự mất mát
lớn lao của tình cảm, tuy rằng trong âm thầm, không có những cái bắt tay
từ giả hay những bàn tay vẫy chào tạm biệt. Sau tập hợp và được biết sẽ
chuyển trại, tù cải tạo không còn thì giờ để chạy sang khu này, khu nọ
thông báo cho nhau nữa vì chỉ đủ thời gian để chuẩn bị hành trang. Ðoàn
tù cải tạo khu đại tá lặng lẽ, âm thầm di chuyển giữa đêm đen ra đến chỗ
đoàn xe đậu chờ, đi ngang qua khu thiếu tá.
Có những câu hỏi lửng lơ, không chủ từ, muốn biết
nơi đến của cuộc chuyển trại. Nhưng làm thế nào để trả lời được
khi chính những đương sự cũng không biết mình đi đâu. Mà có biết cũng
không thể trả lời được vì rải rác trên đường di chuyển đầy dẫy những bộ
đội súng dài.
Người đi thì câm nín, kẻ ở
lại bên trong vòng rào kẽm gai cũng chẳng nói được gì hơn khi không nhận
được lời đáp lại thì biết rằng có trở ngại ngoài ý muốn.
Thế nhưng, trong cưỡng chế như vậy tình cảm tâm tư bị dồn ép cũng tìm
mọi cách để nói lên lời tâm sự qua tiếng đàn Mandoline đơn lẽ trổi lên
nhạc khúc "Tạm Biệt" nổi tiếng ai cũng biết, như tiếng gáy của một con
dế mèn gọi bạn giữa đêm khuya. Một lời giả từ gởi đến mọi người đi mà
như chừng không gởi đến một ai, dành riêng cho những người trong cuộc và
những chàng bộ đội súng dài kia có nghe được
cũng cứ ngỡ là tiếng đàn trong đêm. Tiếng đàn cứ thản nhiên tỉ tê không
thôi suốt thời gian đoàn tù cải tạo qua ngang khu trại và có lẽ chỉ chấm
dứt khi tiếng máy nổ của đoàn xe đã chìm lắng
trong đêm đen. Lòng buồn rười rượi vì cái bấp bên của số phận mình ở đầu
bên kia của chuyến đi nhưng cũng cảm thấy được an ủi với tiếng nhạc, khi
thầm hiểu rằng người bạn tù còn ở lại kia, dù chưa yên phận mình nhưng
cũng cố gắng an ủi người ra đi qua nội dung của bài hát:"Dù ta phải xa
nhau, không mong gì gặp lại thì, bạn ơi, cũng chỉ là một cuộc chia tay".
Lại một
chuyến đi "dạo mát" nữa, dưới vòm trời đầy sao bằng
xe tải trên những lộ trình theo tuyến mê đạo cố hữu của cộng sản.
Trước tiên, đoàn xe chở tù cải tạo đi về
hướng Tân Cảng, nhưng không ngừng lại mà trở về hướng Biên Hòa, rồi đi
theo đường lên Ðà Lạt và cuối cùng đổ tù cải tạo xuống một trại đầy dẫy
kẽm gai. Dưới ánh đèn rọi trực diện vào mình, đoàn tù cải tạo chỉ thấy
những khoanh kẽm gai tròn dọc theo lối đi và
những hàng rào kẽm gai "dàn chào" hai bên. Mắt bị
chóa đèn không thấy được bối cảnh xung quanh, tù cải tạo cứ người sau
tiếp nối người trước tiến đến địa điểm nhứt định, dưới sự hướng dẫn của
bộ đội. Do tương phản cực mạnh giữa ánh sáng đèn rọi và bóng đêm
đen, tù cải tạo chỉ thấy mặt đất để đặt bước chân, còn ngoài kia chỉ là
bóng đen tuyệt đối, không sao nhận diện được nơi đến, mà cũng chẳng biết
trong bóng đen đó có những gì. Nhóm tù cải tạo mới đến được "bố trí" vào
những gian nhà trống đúng nghĩa của nó, vỏn vẹn chỉ có nền xi măng, kích
cỡ khoảng 5 mét ngang, 10 mét dài. Cơ cấu B của trại
Long Giao không còn nữa và người ta cứ dồn tù vào đầy một nhà rồi tuần
tự như vậy cho đến hết số người mới đến. Gian
nhà, sườn sắt, nóc và vách đều bằng thiếc dợn sóng, phía dưới chân vách
có chừa một khoảng trống chừng năm tấc chạy dài quanh nhà, đóng hay mở
bằng một cánh cửa liếp chống lên, sập xuống.
Mỗi người cũng một chiếc chiếu trải ra, đầu nằm hướng về vách nhà.
Tù cải tạo nằm thành hai hàng dài, ở giữa là lối đi xuyên suốt từ đầu
nhà đến cuối nhà. Trong không gian nhà tù, có được một chỗ để trải chiếc
chiếu cá nhân đúng như quy định là có thể được yên thân, như có được
công ăn việc làm ở xã hội bên ngoài.
Trại mới này đích thật là một
trại tù chính cống, không còn lấp lửng ngụy trang dưới danh nghĩa này nọ
được nữa. Những
dãy nhà kích thước và hình thức như nhau tập hợp thành từng khu một, khu
này cách khu kia bằng hai lớp hàng rào kẽm
gai, cao hai mét, cách xa nhau khoảng bốn mét. Xa
xa, vượt khỏi đầu rào có những chòi canh sừng sững với bộ đội bên trong
ngày đêm nhìn xuống xã hội tù cải tạo. Nhìn
quanh bốn bề đâu đâu cũng nhà thiếc và rào kẽm gai.
Dường như những khu trại tù đâu lưng vào nhau, quay
mặt ra khu doanh trại của bộ phận quản lý, gồm có nhà gạch, mái thiếc
dợn sóng khác hẳn với nhà ở của tù. Căn nguyên của trại này, có
lẽ, bắt nguồn từ thời đệ nhứt cộng hòa, dưới tên gọi "Trại tù phiến cộng
Tam Hiệp". Danh xưng này đã tạo nhiều tranh luận vì
có người cho là Tân Hiệp và cũng có dư luận gọi là Suối Máu, nghe rùng
rợn hơn để nói lên điều ghê gớm của một trại tù.
Có thể cả ba địa danh đều đúng vì trại này trải dài
trên một diện tích khá rộng lớn, biết đâu nó chẳng chiếm một phần không
gian địa lý của ba xã ấp nói trên? Trại nằm bên cạnh con đường
cái quan nối liền Sài Gòn với Ðà Lạt, giữa nhà thương điên Biên Hòa và
Hố Nai. Ðiểm nổi bật của trại này là nhìn đâu cũng
thấy sắt, thiếc và kẽm gai. Trên đất cát khô
cằn của sân trại, cỏ cũng không buồn mọc. Dọc
theo hiên nhà là những cây trứng cá rộng tàn che mát, có lẽ do tù
chăm sóc để tìm lấy chút êm dịu vào những ngày nắng hạ.
Loại hoa phổ biến trên những khu vườn bông là hoa
mười giờ, một loài hoa có sức sống rất mạnh và không đòi hỏi nhiều chăm
sóc cũng như nước tưới.
Sáng
hôm sau, những khu tù kế cận chăm chú nhìn sang khu tù mới đến đêm qua
để nhận diện và tìm những đối tượng thân quen. Nhóm
tù cải tạo mới đến được "cách ly" với nhóm tù cũ đã ở trại này trước,
những người mặc bộ đồng phục kỳ lạ. Quần áo bà ba màu xanh dương,
dài theo đường sống lưng áo và dọc theo hai
ống quần là những đường vải trắng, trông như đồng phục của đạo tỳ, của
nhân viên phường đòn các công ty mai táng. Trong khi đó, tù mới đến vẫn
ăn mặc như người thường ngoài xã hội. Sau khi cán bộ trại đến "làm
việc", nhóm tù cải tạo Long Giao được "biên chế" thành những đơn vị gọi
là "Nhà": Nhà1, Nhà2,... mà thành viên là
những người ở cùng một gian nhà. Ðứng đầu là nhà
trưởng, một tù cải tạo làm trung gian giữa trại và tù, như B Trưởng ở
trại Long Giao. Một "Nhà" gồm khoảng 40
người. Sau khi đã được tổ chức thành cơ cấu, tù cải tạo Long Giao
mặc nhiên hòa mình vào nếp sống mới của trại, tay bắt mặt mừng với những
bạn bè đã ở đây từ trước, phần lớn là những người bị cộng sản bắt trong
chiến dịch ngăn ngừa trốn học tập cải tạo, mặc dầu chưa hết hạn kỳ trình
diện. Những dư luận, những tin đồn thế nọ, thế kia
về một vài chiến hữu lúc bấy giờ mới được xác minh phần nào khi những
đương sự gặp nhau bên trong vòng rào kẽm gai.
ß
Sau mấy tháng bị lừa
dối trong hoàn cảnh gọi là học tập cải tạo để rồi nhận thức ra rằng cũng
chỉ là tù thì tinh thần của tù cải tạo bắt đầu lắng xuống trong một thái
độ trầm ngâm. Mức độ ồn ào và lăng xăng trong sinh hoạt với hy vọng học
vài ba tháng rồi lại ra về bắt đầu tan biến và thay vào đó là một nỗi
thắc mắc âu lo mà lời giải đáp lại chẳng thấy đâu. Không còn thấy được
chút ánh sáng nào ở cuối đường hầm nữa! Một quãng đời như trong sương mù
dày đặt và người trong cuộc cứ mò mẫm mà vùng trời trong sáng lại quá
mông lung! Tâm tư đang nghẽn lối thì niềm trăn trở vật chất, qua cảnh
đói ăn, lại như một quả đấm giáng xuống người võ sĩ đã thấm vì trận đòn
đối phương.
Trong thời gian ở
trại Long Giao, gạo "Ðại Mễ" trại phát thừa mứa, ngày nào cơm cũng dư,
đem cung cấp cho bộ phận chăn nuôi. Nay về trại này, gạo ăn của tù là
gạo Mỹ, có lẽ tịch thu từ những kho tiếp tế của Sài Gòn, nhưng lượng gạo
không đủ. Ở đây, lần đầu tiên tù cải tạo mới nghe đến số lượng gạo tiêu
chuẩn được quy định cho mỗi người. Xưa kia, vào thời Pháp thuộc, dưới
chế độ Quốc Gia Việt Nam hoặc trong hai chánh thể cộng hòa có ai tính
toán chi li số lượng gạo cho từng miệng ăn bao giờ. Thậm chí có gia đình
còn coi cơm là thành phần thực phẩm phụ thuộc trong bữa ăn. Với số lượng
lương thực được quy định như vậy, phần ăn cá nhân nào cũng thiếu trước
hụt sau và người trực cơm phải phân chia phiền phức. Bữa ăn nào vừa nuốt
xong cũng thấy chưa no, vẫn thòm thèm muốn ăn nữa và mơ tưởng đến bữa ăn
tới. Tâm trí của người thiếu ăn như cùng quẫn, chỉ lanh quanh nghĩ đến
phần cơm sắp đến, những vấn đề to lớn và quan trọng đã trở nên xa lạ.
Cũng may là trong thời gian ở trại này lao động không phải là sinh hoạt
chính của tù cải tạo.
Không muốn cho tù ăn
không ngồi rồi, trại bắt tù cải tạo chăm sóc vấn đề trật tự và vệ sinh
quanh nhà ở. Công tác chính ở trại này là "chà láng", nghĩa là làm cho
mặt đất cát của đường mương bao quanh căn nhà ở được láng mịn, không
loang lổ. Vì là đất cát cho nên sau mỗi cơn mưa mặt đất bị xói mòn và lỗ
chỗ, như vậy là tù có chuyện làm. Với một miếng ván, một miếng miểng
sành hay một cái chai rồi cứ như vậy mà ép cát ẩm ướt xuống cho láng.
Một việc làm hết sức phi lý, không có ý nghĩa gì hết, một thứ công dã
tràng. Công việc làm nhẹ nhàng, nhưng cái đói hoành hành không ít. Túng
thì phải tính, ngoài thời gian lao động ra, tù cải tạo mở chiến dịch
lùng bắt miếng ăn phụ trội để trám đầy lỗ hổng của bao tử, một chiến
dịch rất đa dạng. Dễ dàng nhứt là hứng nước vo gạo ở nhà bếp đem nấu cô
đọng lại sệt sệt để uống cầm hơi giữa hai bữa ăn. Một thức uống được cho
là có nhiều sinh tố B1, ngừa được chứng phù thũng. Hình thức chống đói
này thích hợp với những ai không đủ khả năng làm những điều phức tạp,
thế nhưng phong trào càng ngày càng lan rộng nên nước vo gạo cũng không
đáp ứng được nhu cầu. Vả lại chuyện nấu nướng trong tù không phải đơn
giản vì đâu phải cá nhân nào cũng được phép nổi lửa nên nhà bếp tập thể
đầy nghẹt những người nấu nướng lẻ tẻ. Mỗi người một lon Guigoz, treo
lủng lẳng ở đầu một cái cây dài có móc sắt để đưa vào bếp lửa, như trẻ
con chơi đèn giấy vào dịp Trung Thu. Tình trạng chộn rộn người ở bếp vào
giờ nấu ăn làm trở ngại công tác của các đội nấu ăn chánh thức, lại dẫn
đến những rủi ro phỏng người nên trại có lịnh cấm những tù cải tạo vào
bếp nếu không có nhiệm vụ. Dĩ nhiên, lịnh cấm nào cũng bị vi phạm, nhứt
là trong trại tù, nên chỉ hạn chế được phần nào thôi, khi cái đói ăn
thường đưa người ta đến chỗ liều mạng. Nhưng, nhân tố chính khiến cho
chiến dịch lấy nước vo gạo bớt phần hấp dẫn là người lấy càng đông thì
nước vo gạo càng khan hiếm.
|
...muốn có chất thịt
thì chỉ cần một loại thòng lọng thật nhạy và làm bằng dây thật nhỏ
sợi để đi câu cổ lũ kỳ nhông, một loài thú có điểm độc đáo là biết
đổi màu của cái đầu tùy theo môi trường liên hệ, nhưng lại sửng sờ
với tiếng huýt sáo của con người. Nghe tiếng sáo miệng của "thợ săn"
là kỳ nhông cứ đứng yên, ngẩn cao đầu, lắc qua lắc lại, đôi mắt lim
dim, chừng như muốn tìm nơi xuất phát tiếng sáo hoặc đánh giá âm
hưởng của nó để rồi chui đầu vào thòng lọng mà giãy giụa một cách
thảm thương... |
Một số tù cải tạo
chuyển sang hướng chống đói bằng chất thịt. Nếu hợp lực thành một "công
ty" vài ba người thì rủ nhau đi đào hang, xông khói bắt chuột. Ðược
chuột đồng lông mướt thì càng tốt mà chuột cống còi lông hay ghẻ lở cũng
chẳng được tha. Chuột đã lột da, thêm chút gia vị vào rồi xào nấu thì
chất Protéine của phần ăn kể cũng quan trọng. Vả lại, tình cảnh thiếu
đói làm cho con người dễ tính đi và làm ngơ trước những gì mà lúc bình
thường cho là không thể chấp nhận được. Nếu không hình thành được "công
ty" mà vẫn muốn có chất thịt thì chỉ cần một loại thòng lọng thật nhạy
và làm bằng dây thật nhỏ sợi để đi câu cổ lũ kỳ nhông, một loài thú có
điểm độc đáo là biết đổi màu của cái đầu tùy theo môi trường liên hệ,
nhưng lại sửng sờ với tiếng huýt sáo của con người. Nghe tiếng sáo miệng
của "thợ săn" là kỳ nhông cứ đứng yên, ngẩn cao đầu, lắc qua lắc lại,
đôi mắt lim dim, chừng như muốn tìm nơi xuất phát tiếng sáo hoặc đánh
giá âm hưởng của nó để rồi chui đầu vào thòng lọng mà giãy giụa một cách
thảm thương. Thịt kỳ nhông được cho là ăn giống như thịt gà, nhưng mức
độ dinh dưỡng của nó chưa thấy sách báo khoa học nào xác định. Tuy
nhiên, chắc là cũng không mấy hấp dẫn vì ở xã hội đời thường chưa nghe
nói ai ăn thịt kỳ nhông, kể cả những bợm nhậu nặng ký.
Cố tìm tòi mọi nguồn
thực phẩm bổ túc qua nhiều ngõ ngách quanh co, mà cán bộ cộng sản gọi là
"cải thiện linh tinh", dĩ nhiên bị cấm đoán trong tù nên việc nấu nướng
phải lén lút, đôi khi nấu giữa chừng bị động thì cứ thế mà ăn vào. Do đó
bịnh đường ruột rất phổ biến, thông thường nhứt là bịnh kiết lỵ. Thuốc
của trại thì phân phát hạn chế, thuốc cá nhân mang theo thì cũng có mức
độ vì thông cáo của Ủy Ban Quân Quản thành phố cho biết nên đem theo đủ
dùng trong một tháng mà lúc bấy giờ đã trên năm tháng. Thuốc bạn bè chi
viện cũng khó khăn vì ai cũng lo cho phận mình, nếu một mai... Ðã vậy mà
điều kiện vệ sinh tập thể của trại lại quá kém. Cái gọi là nhà vệ sinh
tập thể cho toàn khu là một hố lộ thiên hình hộp lối 2 mét ngang, 4 mét
dài và 2 mét chiều sâu, bên trên có những đòn bắt ngang. Có những trường
hợp người già yếu hay bịnh hoạn, chân run gối mỏi đã rơi tòm xuống hố
này, tắm rửa bao nhiêu lần, tốn hao bao nhiêu xà phòng vẫn thấy tởm
người. Hố này vừa là cái nôi, vừa là môi trường nuôi sống lũ ruồi nhặn
đủ loại có khả năng chuyên chở bịnh hoạn đến toàn khu trại tù, đó là
chưa kể những hố của các khu trại khác. Trầm trọng hơn nữa là nước thông
dụng của trại là nước giếng, có cái không tôn trọng được tiêu chuẩn an
toàn về mặt khoảng cách so với hố vệ sinh. Như vậy mới thấy rằng thành
ngữ "ở dơ như tù" cũng có lý do hiện hữu. Có thể bản thân người tù không
ở dơ, sống bẩn, nhưng hoàn cảnh vật chất của nhà tù đã đặt họ vào tình
thế chẳng còn cách nào khác hơn dù cho chính đương sự cũng không chấp
nhận. Tập thể tù cải tạo nghĩ rằng trước kia những chánh thể đã qua
không thể giam tù phiến cộng trong những điều kiện như vậy được, khi mà
trại giam thời đó thường được Hồng Thập Tự Quốc Tế quan tâm cũng như
được hành pháp và lập pháp Hoa Kỳ chú ý. Do đó mới có những vụ tai tiếng
mệnh danh là "Chuồng cọp Côn Ðảo", mới có đề tài để cho những ủy ban
tranh đấu cho chế độ lao tù phê phán.
Cùng với thời gian
trôi qua, phương tiện vật chất ở trại ngày một tồi tệ, bịnh tật của tù
cải tạo ngày một gia tăng dù trại thường xuyên đưa ra khẩu hiệu "ăn
chín, uống sôi". Chỉ ban hành khẩu hiệu mà không có một biện pháp thực
tế nào hết và đường lối quản lý cũng mù mờ, như chừng đang chờ đợi một
điều gì đó nên kỷ luật cũng nới lỏng lần hồi. Lao động bên trong vòng
rào trại thì không có gì, ngoài chuyện luân phiên làm bếp và chà láng,
nhưng không thấy đưa tù cải tạo đi lao động bên ngoài trại. Người ta cho
tù tập hợp lại học những bài hát vớ vẩn, lơ mơ, học xong rồi cũng chẳng
để làm gì hết. Cán bộ coi tù bắt đầu lúng túng, để mặc cho tù sinh sống
một cách tùy ý, không có sinh hoạt hướng dẫn, miễn sao đừng gây xáo trộn
và đừng trốn trại. Ðể cảnh cáo, răn đe và dằn mặt tù cải tạo về vấn đề
trốn trại, cộng sản đưa những người tù mà họ cho là đã toan đào thoát ở
một nơi nào đó về Tam Hiệp tổ chức một phiên xử đầy tính chất trình
diễn. Ngày hôm trước phiên xử, tù cải tạo được lịnh đề cử đại diện cho
mỗi phân trại đi dự "phiên tòa". Ngoài ra, diễn tiến của phiên xử cũng
được phát thanh qua hệ thống loa cho toàn trại. Phiên xử kéo dài từ sáng
cho đến xế chiều mà phần kết tội ai cũng có thể biết trước. "Phiên tòa"
kết thúc và trong khi những người tham dự đang kéo nhau ra về thì có mấy
tiếng súng AK, chỉ dấu cho thấy rằng bản án đã được thi hành. Một con
ngựa đau, cả tàu chê cỏ, huống chi những người bạn cùng cảnh ngộ phải từ
giả cõi đời một cách đau thương. Trại tù chiều hôm đó rười rượi buồn
trong một bầu không khí im lặng khác thường. Trời đang đẹp nắng, bỗng
dưng có một cơn dông ập đến và mưa rào nặng hột thoáng qua, như chừng
thiên nhiên cũng chia sẻ cái tang chung, khoảng nửa giờ sau tiếng súng
hành quyết.
Gần như bị quên đi,
được phó mặc cho thời gian, tù cải tạo tìm cách để quên được phần nào
thân phận của mình qua những sinh hoạt tự tạo. Người thì nghiền ngẫm mấy
quyển sách châm cứu và đem ra thực hành trên thân xác của bạn bè cùng
cảnh ngộ lại thiếu hụt thuốc men. Nếu có sai lầm thì một mũi kim nhỏ đâm
vào da thịt cũng chẳng chết ai và biết đâu trong cảnh "phước chủ, may
thầy" lại có thể qua được các bịnh lặt vặt như đau nhức thường tình.
Nhóm khác trở thành tụ điểm của những chiêm tinh gia mầm non, nói chuyện
dĩ vãng để suy đoán tương lai, dưới nhiều hình thức khác nhau như xem
nét chữ, bói chữ ký, coi chỉ tay hoặc bấm tử vi Tàu cũng như Tây. Chuyện
quá khứ tương đối cũng dễ vì đời binh nghiệp của bạn bè nhiều khi chẳng
dấu được ai, nhưng chuyện tương lai duy nhứt mà ai cũng muốn biết là
ngày ra tù, tiếc thay, chính người tiên đoán cũng không thấy nổi ngày ra
tù của chính mình thì làm sao thấy được của người khác. Thôi thì cũng
dăm ba phút trước mua vui, sau vỗ về an ủi phần lương tâm nôn nóng chẳng
mất tiền mà cũng chẳng thiệt hại uy tín của một ai. Có những người còn
nặng tình với thú vui bài bạc, dĩ nhiên là bị cấm đoán trong tù, nhưng
riêng mạt chược, được tù giải thích với trại là thú tiêu khiển phải vận
dụng lý trí nên được chấp nhận. Nhưng vấn đề là những con bài, lấy đâu
ra? Với ngày rộng tháng dài của tù, những thanh củi rồi cũng lần hồi
biến thành một trăm mấy mươi con mạt chược. Biểu hiệu cho lòng kiên nhẫn
của những con người chẳng biết làm gì với thời gian dư thừa. Củi được
cắt nhỏ thành những khúc cây ngang hai phân, dài ba và dày một rưỡi, đem
mài trên nền xi măng thật láng để vẻ hay khắc những chữ hay hình dáng
của con bài. Quả thật trò chơi cũng lắm công phu và như vậy khi ngồi vào
bàn mạt chược tự tay mình làm ra những đương sự đã cho thấy rõ nét niềm
hãnh diện của họ so với công lao đã bỏ ra. Tình huống khó khăn nhưng dư
thừa thời giờ trong tù cho thấy những con người của chế độ Sài Gòn rất
khéo tay. Thế nhưng, nếp sống trước kia không thể để cho họ có cơ hội
phát hiện khả năng thiên bẩm của mình vì thời gian của họ đã phải dành
cho những công việc cần thiết và hữu ích hơn cho xã hội. Có một quân y
sĩ ngành giải phẫu, được biết là xưa kia rất mát tay, đã làm được từ đầu
đến cuối một cây đàn Banjo với những vật liệu và dụng cụ thu lượm trong
trại tù. Một số người khác lao vào những sinh hoạt riêng lẻ, như may mặc
làm nên những chiếc mũ nhiều kiểu loại bằng bao đựng cát đấp chiến lũy,
như lấy kẽm gai hình thành những sợi dây gào dài hàng chục thước, như
tháo Tôle gò nên những thùng xô múc nước, như ngồi viết nhựt ký dù biết
rằng khi bị kiểm tra hay chuyển trại thì cũng phải vứt đi. Người ta cứ
phải làm một điều gì đó để quên thời gian đang trêu ghẹo và thử thách,
quên cái đói đang giày vò thân xác, quên những ước mơ không thấy đến. Từ
nếp sống bình thường của chính mình, người tù cải tạo cũng thấy rằng đó
là thái độ bất thường, gần như của một người mất trí. Thế nhưng, cái
cùng quẫn của tâm trí người tù cũng chẳng khác gì tâm trạng của người
điên. Nói cho đẹp ra thì cũng chỉ là một dạng rối loạn thần kinh mà
thôi.
ß
Có vẻ như bị động
trước lối sống tự phát của tù cải tạo và dường như chỉ có khả năng đưa
ra những khẩu hiệu về vệ sinh trước tình huống bịnh hoạn gia tăng, ban
chỉ huy trại đã để lộ thế lúng túng của họ. Dường như họ đang chờ đợi
một biến chuyển gì đó, qua cung cách đối xử với tù cải tạo. Lần hồi lao
động chà láng cũng không được ai quan tâm đến nữa, tù lơ là, cán bộ trại
không buồn nhắc nhở. Khu ăn ở của tù cải tạo gần như độc lập, cán bộ
trại không bén mảng đến và như vậy là tù tha hồ sinh sống, không cần
phải đề cao cảnh giác, nhìn trước ngó sau để báo động bằng những ám hiệu
như "tà lọt đến" hay "Tây tới" nữa.
Những "ký tín ám
hiệu" này trước đó đã là những đề tài để cán bộ trại đem ra làm bài học
cho tù cải tạo. Thời kỳ mới về trại, lịnh cấm nấu nướng rất nghiêm ngặt.
Nhưng muốn "cải thiện linh tinh" biến những chiến lợi phẩm săn bắt được
như chuột, kỳ nhông, nước vo gạo thì phải nổi lửa lẻ tẻ dưới đường mương
quanh nhà ở hoặc trong hốc kẹt nào đó. Một người nấu, một người canh
chừng và khi thấy bóng dáng cán bộ thì la to lên một trong những ám hiệu
kể trên một cách bâng quơ, như chẳng nói với ai hết. Ban đầu cán bộ
không để ý, nhưng lần hồi về sau họ nhận ra rằng những câu nói kỳ lạ đó
nhằm vào họ nên họ dò hỏi để tìm hiểu ý nghĩa của những từ đó. "Tà lọt"
không rõ thuộc ngôn ngữ nào - có người cho là tiếng Cam Bốt - thường
được sĩ quan Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa sử dụng để nói về người quân
nhân phục dịch cho mình. Còn tiếng báo động "Tây tới" thường được người
dân nông thôn sử dụng để báo động khi có quân lính Tây đi bố ráp. Những
ám hiệu đó tù cải tạo áp dụng một cách thường tình, không ác ý gì hết,
chỉ nhằm mục đích lưu ý người bạn đang nấu nướng liệu tìm cách che giấu.
Thế nhưng, cán bộ trại lại suy diễn với thành kiến coi đó là một điều sỉ
nhục họ. Nhân một cuộc tập hợp toàn khu, họ đã hằn học cho rằng tù cải
tạo đã miệt thị cán bộ, xếp họ vào hàng ngũ của những người phục dịch
hoặc bọn thực dân. Tù mà khinh thường cai tù dĩ nhiên là mang tội khá
nặng, thế nhưng làm sao họ truy nguyên được người đã sáng tạo ra những
ám hiệu đó vì chính tù cải tạo cũng không biết những từ đó xuất phát từ
đâu và xuất hiện từ lúc nào nữa.
Lao động thì thu hẹp
vào những công tác xuống hàng từ những xe tải chở lương thực và thực
phẩm đến cung cấp cho trại. Tuy gạo không đủ ăn nhưng lại có một số ít
thực phẩm như cá biển, thịt hộp, thịt chà bông Trung Quốc, trái su, cà
chua, hành lá, ớt,... Chất lượng và số lượng thực phẩm theo tỷ lệ nghịch
với thời gian, càng về sau càng kém đi, thậm chí chỉ còn những thứ khô
làm bằng loại cá mà thời trước người ta dùng làm phân bón. Sinh hoạt ăn
uống kém đi thì bịnh hoạn lại leo thang và kiết lỵ là thứ bịnh phổ biến
nhứt ở trại này. Người ta bắt đầu thấy xuất hiện một vài tù cải tạo còn
ít tuổi mà phải chỏi gậy đi tới đi lui, mặt mày hốc hác, da mặt xám xịt,
môi thâm đen khô khốc, đôi mắt lờ đờ, tròng mắt muốn đi ra. Có một số
người trải giấy, trải tấm nhựa hoặc mắc võng lên những cây trứng cá ở
khu cạnh hố vệ sinh để tiện đi lại, vì một ngày phải di chuyển hàng chục
lần trong tình trạng mất sức và mất nước trong cơ thể như vậy thì làm
sao chịu nổi. Một vài người không còn đủ quần để che bộ phận không cần
khoe ra của mình đành phải lấy vải bao cát quấn tạm, nhưng cũng tiện lợi
vì khi thảy bỏ chất dư thừa đỡ phải cổi, tuột lôi thôi. Số lượng những
"lão già chõi gậy đi lang thang" trong trại cứ gia tăng một cách đáng
sợ mà thuốc của trại thì chẳng có gì, ngoài mấy viên màu trắng khả nghi,
với khả năng chữa trị mang tính chất tâm lý nhiều hơn là y học. Những
quân y sĩ tù cải tạo nhìn mãi cũng không nhận diện được những viên thuốc
xuất phát từ những nước xã hội chủ nghĩa. May mắn thay, trong số tù cải
tạo có những người biết dự phòng và chịu đáp ứng lời kêu gọi cứu nguy
của bạn bè nên số thuốc mang theo đã chận đứng kịp lúc những trường hợp
khó khăn nhứt. Trong giờ phút lâm nguy đó, thuốc men trị bịnh đã bất
chấp những điều ngăn cấm của cộng sản để vượt qua hàng rào kẽm gai ngăn
cách những khu trại. Khá nhiều người mất sức vì kiết lỵ nhưng rất may
mắn là không ai mất mạng, phải vĩnh viễn ra đi vì cơn bịnh ngặt nghèo
đó.
Vì túng nên phải
tính, trại xoay xở và công bố biện pháp "có lý, có tình", cho phép "trại
viên"
viết thơ về gia đình yêu cầu gởi quà, mỗi gói hạn chế 5kg và 20 đồng bạc
(lúc bấy giờ là tiền chánh phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam). Ðồng thời
trại cũng tổ chức bán hàng tiêu dùng cho tù cải tạo qua hệ thống quày
hàng mà họ gọi là "căn tin".
Dĩ nhiên là không phải chỉ có yêu cầu thực phẩm mà còn có thuốc men trị
bịnh, đặc biệt là thuốc trị kiết lỵ mà thực tế đã gây ra một xúc động
không nhỏ. Loại thực phẩm tù cải tạo xin gia đình nhiều nhứt là chất
ngọt. Số lượng hàng căn tin bán chạy nhứt cũng là chất ngọt như đường
táng và kẹo linh tinh, loại kẹo mà trước kia trẻ con cũng chê. Qua chế
độ quày hàng này trại đã có cách để móc túi tù cải tạo, lợi dụng tình
cảnh thiếu đói của họ. Thế nhưng, tính cách khai thác của họ càng thấy
rõ hơn khi họ bán cả chiếu cá nhân, một mặt hàng lẽ ra trại phải phát
cho tù cải tạo.
Bán thực phẩm cho tù
cải tạo, trại giải quyết được phần nào khía cạnh bao tử của tù, còn vấn
đề tâm trạng hoang mang bất ổn thì trại tìm cách giải quyết bằng cách
đặt một chiếc máy thu hình ở sân tập hợp. Máy thu hình được đặt trong
một cái chòi lá nhỏ, sát vòng rào kẽm gai phân chia khu tù với khu cán
bộ. Hàng đêm, khán giả ngồi trên những chiếc ghế con, theo kiểu ngồi
chồm chỗm, ngang dọc trên khắp sân tập hợp. Không có thứ tiêu khiển nào
khác hơn, vả lại tù cải tạo cũng muốn biết tình hình sinh hoạt bên
ngoài, nên những phiên xem truyền hình cũng khá đông. Thế nhưng, không
phải là toàn diện vì có những người tuyệt đối dị ứng một cách máy móc
với lượng thông tin cộng sản. Trái lại, một số người khác rất tích cực,
cơm chiều vừa xong, khoảng 17 giờ họ đã mang chiếc ghế con làm bằng ba
mảnh ván đặt vào hàng khán giả trên đầu để giữ chỗ tốt. Số khán thính
giả lên đông cao độ vào thời gian của những bản tin, nhứt là tin quốc
tế. Khi bước sang chương trình văn nghệ, một số đông lục tục rút lui,
kéo nhau tụ năm tụ ba ở một nơi khác để suy luận và bàn rộng tán dài về
những thông tin vừa thu lượm được. Tù cố gắng phân tích thời sự với hy
vọng tìm ra một tia sáng nhỏ nhoi nào đó liên quan đến thân phận tù đày
của chính mình, một tia sáng biết đâu sẽ tạo được một ngọn lửa như tia
lửa ở chiếc hộp quẹt ga?
Chưa có được dịp để
hy vọng thì cũng chính những chương trình truyền hình này đã đem lại
những thông tin sản sinh ra niềm ngao ngán cho tập thể tù cải tạo. Qua
truyền hình, tù cải tạo được biết rằng đã có quy định về việc cải tạo
"ngụy quân, ngụy quyền", căn cứ trên chánh sách khoan hồng của chánh phủ
lâm thời cộng hòa miền Nam, mà điều khó nuốt trôi là thời gian 3 năm.
Như vậy, mức đến của tù cải tạo cứ xa lần và xa lần, như miếng mồi để dụ
một con thú cho nó chạy mãi, chạy mãi đến tận cùng. Ngao ngán thì có
ngao ngán, nhưng những điều dằn vật nhỏ nhặt nhưng thực tế hơn của sinh
hoạt trước mắt trong nhà tù đang tác động quá mạnh khiến cho tù cải tạo
không còn đủ sức để quan tâm đến những chuyện xa xôi nên đành tạm thời
cho vào vùng lưu trữ thầm kín của tâm tư.
Cái đói ăn, sự thiếu
thốn chất lượng dinh dưỡng đưa chiều hướng quan tâm của họ vào thời gian
di chuyển của những gói quà gia đình mà họ đang trông chờ, sau khi thơ
yêu cầu đã được trại chuyển đi, một thời gian được cho là phải lâu dài
vì trước nay, thơ đi và tin đến giữa tù cải tạo và gia đình gần như phải
mất hàng tháng trời. Thời gian trì trệ đó là một điều cố tình vì trại
không muốn mối liên hệ giữa tù cải tạo và gia đình giữ được thời gian
tính. Một phương thức để đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra, trên cơ sở
của những thông tin qua thơ từ. Nhưng, lạ thay, thơ xin quà vừa mới gởi
đi khoảng mươi ngày vậy mà những kiện quà đầu tiên đã tới trại rồi. Thì
ra, khi "trại muốn" thì chẳng có gì ngăn cản được.
Sinh hoạt phát và
nhận bưu kiện, bưu phẩm là một trường hợp vui mắt, vui lòng cho tù cải
tạo. Nhờ vậy mà lo ngại và ưu tư của họ nằm yên trong một xó xỉn nào đó
của tâm thức. Về mặt này, kể như trại đã đạt được mục đích và yêu cầu vì
đã trấn an được để cho tù cải tạo khỏi gây những biến động bất lợi cho
uy tín của trại. Ngày nào cũng như có một cuộc xổ số ở trại. Sáng ra,
gần như toàn thể tù (ngoại trừ những toán "anh nuôi") đều tập trung
quanh ống loa để nghe gọi tên sang khu cán bộ nhận bưu kiện mãi cho đến
giờ tan việc buổi trưa. Và đến xế chiều, sau giờ ngủ trưa, họ lại lắng
tai nghe loa để hy vọng nhận được số hên. Mỗi khi nghe gọi tên, người tù
cải tạo đi ra cổng khu, đứng nghiêm, mũ cầm tay, cách xa chòi canh của
bộ đội tối thiểu 6 bước và hô to:"Báo cáo bộ đội! Tôi đi nhận bưu phẩm".
Hôm nào vui trong người thì người bộ đội đáp lại:"Anh ra". Ngày nào buồn
thì chỉ một tiếng "ừ" cộc lốc, thậm chí có hôm tù còn bị sửa sai điều
này, điều nọ, quần áo không chỉnh tề, tóc tai không hớt, đứng cách chòi
canh quá xa hay quá gần,... Tù thì sơ hở lúc nào cũng có thừa, vả lại
còn có một thái độ đố kỵ, phẫn nộ trước thực tế mà kết quả tù phải gánh
chịu. Tù mà lại nhận quà nhiều hơn bộ đội cai tù là nghĩa lý gì? Ngày
nào cũng phải huy động xe tải và ít ra là hai bộ đội để đi nhận bưu kiện
ở bưu điện. Chỉ riêng cảm nghĩ phải phục vụ tù cũng làm cho mức độ bực
tức của chàng bộ đội gia tăng, nói làm gì đến nội dung của những gói
quà.
Gói quà đầu tiên của
gia đình, sau gần 6 tháng dài xa cách, đem đến cho tù cải tạo một xúc
động tâm lý khá mạnh, lấn át cả niềm vui tiếp nhận. Khi đã xác minh rằng
bưu phẩm đúng của mình rồi, tù phải đích thân mở gói quà ra trước mặt bộ
đội kiểm tra, đề phòng những món cấm kỵ, hoặc thơ từ ngoài quy định. Một
gói đường, một cây kem đánh răng, một cục xà phòng,... thứ nào cũng mang
một tâm tình nhắn gởi nào đó. Cả một quãng đời được xây dựng, giờ đây
sụp đổ như một lâu đài bằng giấy! Ra đi bước vào vòng lao lý, chẳng để
lại nhà cho vợ con được gì lại còn tan biến qua một trận đổi tiền hạn
chế. Hôm nay đây, giá trị của gói quà phải là cả một sự thắt lưng buộc
bụng quan trọng của gia đình. Vợ con phải hy sinh bao nhiêu để mua sắm
cho mình ngần ấy trong gói bưu kiện? Cứ mỗi con khô cá sặt, mỗi gói muối
tiêu, muối mè,... là mỗi lần tâm tư người tù cải tạo thêm xúc động, lòng
bồi hồi, mắt cay cay, mũi hăng nồng. Thực tế trước mắt nhắc cho người tù
cái cảnh bi đát của chính mình vì trước kia những thứ đó chẳng là gì hết
đối với họ và biết đâu rồi đây sẽ gây ra những thiếu hụt trong gia đình
vì phải dồn cho chồng, cho cha trong tù. Chút gì trong gói bưu kiện cũng
được trân trọng, từng khoanh dây thun, từng mảnh giấy vở học trò mang
giòng chữ nguệch ngoạc của con thơ những ngày mới tập viết, từng miếng
giấy xi măng gói quà,... đều được tù thu hết đem về để ngắm nhìn cho vơi
nỗi lòng hoài niệm. Thậm chí có anh đem giấy gói bưu kiện lót dưới chiếu
nằm, vừa gián tiếp ôm ấp chút tình cảm gia đình, vừa ngăn được cái lạnh
của nền đất.
ß
Tiếp tế của gia đình
đã phần nào cho tù cải tạo có được chút yên tâm về hoàn cảnh của gia
đình ở ngoài xã hội và làm vơi đi đôi chút nỗi thiếu ăn của cá nhân mình
trong tù. Trong những gói quà thường có những lá thơ kèm theo, dĩ nhiên
là những "bài làm văn" nặng tính bình phong, khuyên bảo chồng, cha nên
"yên tâm và tin tưởng để học tập tốt", để làm đẹp lòng người cán bộ kiểm
duyệt thơ nhiều hơn là để cung cấp tin tức. Thế nhưng, những gì quan
trọng và thiết thực gia đình muốn thông báo cho tù cải tạo thì được ghi
ở một chỗ nào khác trong gói quà, chỉ có tù và gia đình liên hệ biết
được thôi. Thơ đi, tin lại giữa tù và gia đình phải qua một kỷ thuật mã
hóa thông tin. Ðây cũng là một trong những nguyên nhân để cho tù cải tạo
gom nhặt thật kỹ tất cả những mẩu giấy gói quà trong bưu kiện. Lần hồi,
trại cũng phát hiện được nên tịch thu tất cả giấy gói quà. Thế nhưng,
muốn sống trọn vẹn trong tù thì mắt nhìn phải thật nhạy bén và tay chân
phải lanh lẹ.
Thực phẩm bổ túc
trong những bưu kiện, tuy không hoàn toàn giải quyết được nạn đói nhưng
cũng làm giảm thiểu được phần nào. Một ít chất ngọt, một vài muỗng cám
rang trộn đường, một vài muỗng bột dinh dưỡng cũng vỗ về được bao tử
trong một khoảng thời gian nào đó để chờ hai bữa ăn chính. Thế là những
chiến dịch xông khói bắt chuột, thòng lọng câu kỳ nhông và hứng nước vo
gạo để "chế biến B1" đã chấm dứt, tạo điều kiện cho tù có được ngày rộng
tháng dài mà suy tính nọ kia.
Trong tinh thần "phú
quý sinh lễ nghĩa" và nhờ bớt bị nạn thiếu ăn giày vò, tù cải tạo lại
bắt đầu nhớ đến nếp sống truyền thống của mình bên ngoài xã hội trước
kia khi những ngày lạnh cuối năm dẫn đến lễ Giáng Sinh. Chịu ảnh hưởng
nếp sống Tây phương, lần hồi xã hội Việt Nam đã xem ngày lễ này như một
ngày vui của quần chúng chớ không còn mang nặng tính cách thuần túy tôn
giáo. Thế nhưng, giờ đây trong nhà tù cộng sản, một chủ nghĩa không chấp
nhận tôn giáo, nhứt là Thiên Chúa giáo, thì phải xử sự như thế nào đây
khi mà những trường hợp tụ tập đông người đều bị ngăn cấm. Trong số tù
cải tạo cấp đại tá, có hai linh mục tuyên úy, một đã giải ngũ, một còn
tại chức. Hai ông này dĩ nhiên là mục tiêu dược theo dõi ráo riết những
ngày cận lễ. Thế nhưng, biết rõ thân phận và tầm mức "quan trọng" của
chính mình, hai ông cứ thản nhiên trầm tư mặc tưởng, sinh hoạt như những
người tù khác trong trại. Do đó, không ai dám khơi mào chuyện tổ chức
thánh lễ nửa đêm và cũng không ai biết được là có sự kiện đó hay không.
Tuy nhiên, nếu để ý một chút người ta sẽ thấy rằng trong ngày 24 tháng
12 năm 1976 có những cặp tù cải tạo gặp nhau to nhỏ trong một giây lúc
rồi bỏ đi, gây từng cặp từng cặp đối thoại khác, như những con kiến trao
đổi thông tin với nhau trên tuyến dài di chuyển. Sinh hoạt trao đổi
thông tin đó rất năng nổ và tích cực trong suốt ngày hôm đó.
Sau bữa ăn chiều
ngày 24, nhiều người tắm rửa và quần áo chỉnh tề rồi lửng thửng dạo chơi
trong sân trại như thường lệ. Sân tập hợp cũng đã có những hàng ghế con
chờ giờ truyền hình buổi tối. Khi một số khán thính giả chăm chú theo
dõi diễn biến của chương trình thì một số khác, như đã hẹn hò, kéo nhau
đi về phía sau khu nhà ở. Họ họp thành hai nhóm đứng vòng tròn, mỗi nhóm
với một linh mục tuyên úy, như đang kể chuyện cho nhau nghe, nếu như cán
bộ trại bắt gặp. Tham dự buổi lễ ngoài trời đó có những người Ky Tô giáo
lẫn người ngoại đạo. Trong khó khăn và đau khổ, những người tin tưởng ở
Thượng Ðế muốn có một cơ hội để dâng lời nguyện cầu của mình lên cõi cao
xa với hy vọng là thân phận mình sớm được sáng sủa. Năm đó, do một sự
trùng hợp không sao giải thích được, thời tiết của những ngày cuối năm
lạnh hơn mọi năm khá nhiều. Có thể cảm giác lạnh đó mang tính cách chủ
quan, nhưng cái lạnh này đã làm cho lễ tôn giáo kỷ niệm Giáng Sinh đầu
tiên trong chốn lao tù thêm phần ý nghĩa. Lời kinh của linh mục tuyên úy
như thì thầm trên một nền nhạc thánh ca tưởng tượng trong tâm tư của
những người tham dự để cho "Ðêm đông lạnh lẽo, Chúa sinh ra đời..." càng
được cảm nhận một cách gần với thực tế.
Lễ mi sa mừng Chúa
Giáng Sinh đầu tiên trong cảnh tù đày đó đã diễn ra một cách tốt đẹp,
không bị "Tây bố" mà cũng không bị "Việt cộng ném lựu đạn" phá đám. Có
lẽ trại chưa có hệ thống tình báo hữu hiệu và họ tin tưởng ở sức hấp dẫn
của chiếc máy thu hình đặt ở sân tập hợp. Lễ tan trước giờ chấm dứt của
chương trình truyền hình nên không nằm vào khoảng thời gian cán bộ trại
đi tuần tra. Lúc mới đặt máy thu hình, mỗi khi tù cải tạo đang theo dõi
chương trình thì thỉnh thoảng có cán bộ trại ăn mặc thường phục lẫn lộn
vào đám đông khán thính giả để thăm dò phản ứng của tù đối với những
thông tin chiếu trên máy. Những nhận thức lệch lạc, không đúng với tiêu
chuẩn của trại hay có tính cách chống đối hoặc châm biếm và mỉa mai chế
độ đều được làm đề tài để "lên lớp" tù cải tạo nhân một phiên sinh hoạt
nào gần đó. Một cách phê bình chung chung gián tiếp cho tù biết rằng cán
bộ thấu hiểu tâm tư tình cảm của đối tượng và do đó tù phải đề cao cảnh
giác. Tuổi tác cán bộ "lên lớp" tù cải tạo tròm trèm tuổi con cái của
một số tù, thế mà lối ăn nói của cán bộ cứ như kẻ trên trước nói
xuống:"Các anh đừng có đóng kịch, bên ngoài giả vờ vâng dạ, hoan hô chế
độ mà trong lòng lại đả kích, phản động và có ý đồ phục thù giai cấp.
Các anh đừng tưởng rằng chúng tôi không nắm được các anh. Ðảng cộng sản
là một đảng có tính khoa học, là người tổ chức mọi cuộc thắng lợi, cho
nên phẩm chất kiệt xuất của Ðảng đã làm cho Ðảng trở thành vô địch. Nhờ
vậy mà lệch lạc nào của các anh chúng tôi cũng biết được hết. Chúng tôi
không đi vào chi tiết, thế nhưng có người, có lúc, có nơi có vấn đề
thiếu tính cách xây dựng và không tiến bộ thì các anh phải tự biết lấy
mà sửa sai". Một lối răn đe, dè chừng để hối thúc kẻ nhát gan thò mặt
ra, theo kiểu lạy ông, tôi ở bụi này, một cung cách tìm người tự thú rẻ
tiền.
Tuy nhiên, khi cán
bộ bật mí kiểu đó tù cải tạo thấy cần phải đề cao cảnh giác vì như vậy
họ cũng có phần nào xâm nhập vào hàng ngũ tù. Thế nhưng sai quấy chưa
đến đổi trầm trọng nên họ không đi vào chi tiết của từng trường hợp cụ
thể để có những biện pháp mạnh và gay gắt. Nét chính của ban chỉ huy
trại Tam Hiệp là giữ tù cải tạo cho vén khéo, đừng ai trốn trại, đừng có
một biến cố nào làm xáo trộn nếp sống của trại trong khi chờ đợi một
quyết định nào đó của trên. Với tuổi đời và với kinh nghiệm sống, tập
thể tù cải tạo muốn được yên thân, không muốn để cho những chàng cán bộ,
đáng tuổi con cháu mình, đưa ra những tiếng bấc, tiếng chì quấy rầy
thính giác, dù rằng tù cải tạo thường chủ trương để cho những gì cán bộ
cộng sản nói lãnh cái số phận "nước gạo tắm cho voi". Hai ý hướng tương
tự gặp nhau cho nên nếp sống gọi là "học tập cải tạo" ở trại này rất
bình thản đến độ lừng khừng.
Tù ăn rồi chờ, không
biết chờ gì, lửng thửng lang thang trong sân trại như những con gà đi
tìm hột thóc, hột gạo trên một sân tráng xi măng của một nông gia giàu
có. Sân đẹp nhưng được quét dọn quá kỹ nên chẳng có tí gạo tí thóc nào
rơi rớt lại nên lũ gà đành ngơ ngác, thẫn thờ. Nhìn gần thì buồn chán,
vì tầm mắt hướng vào đâu cũng chỉ là kẽm gai, tù cải tạo thả mắt nhìn xa
hơn và xa hơn để tìm những quang cảnh rộng mở hơn. Khu trại nằm trên mỏm
đồi con nên cảnh trí thoải mái chạy dài theo dốc xuống, nơi thấp nhứt là
tỉnh lộ nối liền Biên Hòa với Ðà Lạt. Xa hơn nữa, ở con đồi đối diện có
lẽ là phi trường quân sự, thỉnh thoảng thấy có một vài chiếc máy bay lên
xuống. Xế xế về phía mặt của trại là Hố Nai, một khu có khá nhiều thánh
đường, biểu tượng của nhiều giáo khu từ Bắc vào Nam năm 1954. Chuyển
trại về đây được vài ba tháng gì đó, một hôm tù cải tạo nhìn thấy trên
tỉnh lộ kia nhiều đoàn người đi tới đi lui, ngang qua khu trại. Từ điểm
đứng nhìn đến tỉnh lộ có lẽ cũng tròm trèm một cây số ngàn nên không
thấy rõ mặt người, nhưng qua dáng điệu và y phục - quần đen, áo bà ba
màu không sặc sở và nón lá - thì hẳn là phụ nữ. Những đoàn người đó ngày
nào cũng đi tới đi lui trong buổi ban mai từ lúc trời chưa nắng gắt đến
độ gần trưa thì dứt, buổi chiều thì không thấy. Nhìn được nếp sống bên
ngoài như vậy nỗi lòng của những con người bị rào kẽm bao vây cũng thấy
thanh thoát phần nào, tưởng chừng như mình đang ở ngoài kia. Thân xác bị
gò bó nhưng tâm tư còn vượt thoát là còn cảm nhận được một chút nào của
không gian tự do. Nhưng điều đáng buồn là chỉ một chút nào đó thôi mà
vẫn không với tới được! Cung cách xuất hiện và xê dịch của những người
phụ nữ đó làm cho tù cải tạo thắc mắc mãi và cũng là đề tài cho dư luận
xôn xao. Cho đến khi tù nhận được thơ nhà, gởi qua bưu phẩm mới vỡ lẽ
ra. Một trong những bức thơ như vậy viết đại để:
"... Hôm đó, em
và các con có đi thăm Chú Tư ở Long Biên. Xe đò dạo này đông khách quá
mà chiếc cầu ọp ẹp ở gần quán Bà Ba Hiệp không chịu nổi nên hành khách
phải xuống đi bộ, rã cả chân. Ðến nơi, không gặp được Chú Tư nên các con
cũng buồn mà em thì cũng chẳng vui gì! ..."
Qua những thông tin
kín đáo như vậy, tù cải tạo ngầm hiểu rằng gia đình biết được địa điểm
giam cầm họ nên đã lặn lội tìm đến, nhưng chắc là trại không chấp thuận
cho thăm gặp. Ðiều hiểu biết đó tuy không giải quyết được gì nhưng cũng
an ủi được những người tù và cũng là một cơ hội để khêu gợi lòng cảm
phục của những ông chồng, những người cha khi biết vợ con mình đã bằng
mọi cách tìm hiểu cho kỳ được những diễn biến kể như là mật kín của tù
cải tạo. Trước kia, cộng sản được lợi thế là dựa vào điều mà họ gọi là
"tình báo nhân dân", nhưng giờ đây những người phụ nữ miền Nam đã có
được một hệ thống tin tức khá chính xác.
Sự hiện diện của
những đoàn người phụ nữ và trẻ em đó càng ngày càng đông giống như cảnh
đường cái quan thôn dã những ngày cận Tết. Vào những ngày gần cuối năm
âm lịch, sau ngày đưa Ông Táo, trên quãng đường chạy ngang qua trước
cổng trại người qua kẻ lại càng rộn rịp hơn, với những bộ quần áo trẻ
con nhiều màu sắc rực rỡ. Có lẽ những thân nhân của tù cải tạo hy vọng
rằng những ngày cận Tết trại sẽ dễ dãi hơn và như vậy họ có thể được
thăm gặp. Hình ảnh đó đem lại một ít niềm vui trong lòng tù cải tạo vì
ai cũng nghĩ rằng ngoài đó có vợ con mình. Xa cách trên thực tế mà gần
gũi trong tâm tư.
Vào ba ngày Tết,
cảnh tượng kẻ qua người lại kia không còn nữa, nhưng thay vào đó là ở
lưng chừng đồi con bên kia đường có một mái nhà tranh bé nhỏ lại nhắc
nhở tù cải tạo một khung cảnh gia đình trong ngày Nguyên Ðán. Một gian
nhà bé nhỏ thô sơ, trơ trọi giữa đồng mà ngoài sân có một vài chiếc áo
màu trẻ con chạy nhảy tung tăng dưới nắng, những chiếc áo màu làm tươi
hẳn quang cảnh u buồn của môi trường. Cảnh tượng mừng xuân đón Tết của
thiên hạ ngoài xã hội đã làm nhói tim của những con người bên trong
những hàng rào kẽm gai. Ðêm hôm trước, vào giờ giao thừa, chuông các
thánh đường khu Hố Nai đã ngân vang và sau đó là điệu nhạc mừng xuân xưa
cũ lại vang lên qua hệ thống phóng thanh của xóm đạo. Trong đêm đen của
nhà tù, không biết bao nhiêu nỗi lòng đang thổn thức vì cái Tết đầu tiên
trong tù và lời ca nét nhạc kia lại làm tăng cao cường độ! Bản nhạc "Ly
Rượu Mừng" của Phạm Ðình Chương lôi tù cải tạo trở lại những ngày dĩ
vãng, vừa mới đó đã xa xôi. Nhưng, sự kiện người ta cho hát to lên một
bài hát như vậy trong thời điểm đó làm cho tù cải tạo ngạc nhiên rất
nhiều và tự hỏi tại sao xóm đạo lại còn sử dụng được sản phẩm văn hóa mà
cộng sản cho là "nhạc vàng", "đồi trụy"? Dẫu cho lời ca không chống chế
độ, nhưng bản nhạc kia đã được ra đời dưới thời kỳ không phải của chế
độ. Có thể xóm đạo, đã lợi dụng thời kỳ tranh tối tranh sáng, liều lĩnh
làm một chuyện bất ngờ, nếu bị phê phán thì cũng đã xong. Không biết có
chủ quan hay không nhưng tập thể tù cải tạo nghĩ rằng xóm đạo đã tặng họ
"ly rượu mừng" kia, nhân dịp năm hết, Tết về vì âm thanh được hướng về
phía trại một cách rõ rệt. Trong ngày đầu năm âm lịch, trại đã cung cấp
cho tù cải tạo mấy bữa ăn đặc biệt, ăn không thấy thiếu, ăn rồi không mơ
tưởng đến bữa ăn kế tiếp. Thế nhưng, vào giai đoạn tù đã được gia đình
tiếp tế, vấn đề thiếu ăn không còn quan trọng nữa.
ß
"Ðặc ân" của trại
trong chuyện cho phép tù cải tạo nhận quà gia đình tuy có ưu điểm nhưng
cũng làm nổi bật những khuyết điểm. Lượng người nhận được quà và thơ của
gia đình kể như số đông, nhưng cũng không sao tránh được tình trạng một
số ít người không nhận được gì hết vì đã mất liên lạc với gia đình bởi
một lý do nào đó, xuất phát từ những xáo trộn của tình hình đất nước.
Không nhận được gì hết của gia đình tất nhiên phải đâm ra hoang mang và
buồn tủi trước niềm vui của bạn bè, dẫu cho niềm vui kia cũng được san
sẻ phần nào trong tinh thần tương trợ của những người cùng cảnh ngộ. Thế
nhưng, trong khu B của trại có hai người bất chấp điều đó, một thái độ
bất chấp không nói lên cung cách bất cần đời của họ mà lại tố giác một
sự vụng về ngoan cố của cộng sản. Hai người này lẽ ra phải là những kẻ
có quyền thụ hưởng qua cuộc thay đổi mang tính lịch sử của miền Nam Việt
Nam. Họ là những con người "vô sản", theo đúng nghĩa đen của từ này.
Người thứ nhứt, danh
tánh chánh thức không ai biết - kể cả cán bộ trại - nhưng thường phản
ứng khi được gọi là Huệ. Phản ứng như vậy không có nghĩa là anh tên Huệ
vì khi được hỏi một cách chính xác thì anh chỉ mỉm cười mà không trả lời
thẳng vào vấn đề. Bảy ngày trong tuần và 24 giờ trong ngày, anh chẳng
nói một lời nào hết nhưng như vậy không phải vì anh câm vì những lúc cán
bộ trại truy hỏi thật gắt gao thì anh cũng trả lời một đôi tiếng "có"
hoặc "không" mà thôi. Anh thường hành động bất ngờ chớ không thưa trước,
không có lời nói đi kèm và cũng không cần phải giải thích lôi thôi sau
khi đã hành động. Diện mạo của anh trông rất thẩn thờ, đôi mắt ngơ ngác,
giống như những người thính giác kém, ít tiếp nhận được tiếng động bên
ngoài nên lúc nào cũng phản ứng chậm đi một nhịp. Của cải vật chất của
anh thật gọn nhẹ vì chỉ vỏn vẹn những gì do trại phát. Với một bộ đồ bà
ba có sọc trắng quái gở, một loại thời trang của tù cải tạo, anh "ăn
diện" quanh năm, suốt tháng, lúc nóng cũng như khi lạnh. Tài sản riêng
tư của anh có lẽ là chiếc nón vải kiểu nón hướng đạo, chẳng biết sắm
được trong tình huống như thế nào, luôn luôn như ngồi xổm trên đỉnh đầu
vì chiếc nón hơi bé. Nếu có một người tù cải tạo nào gan dạ, khinh
thường cán bộ cộng sản và nhứt quyết không khai báo một chi tiết nào với
cộng sản thì người đó phải là anh Huệ. Thực vậy, nội quy, quy định gì
của trại hay bất cứ chỉ thị gì của cán bộ anh cũng bất chấp. Nhưng,
không vì vậy mà anh có những hành động xằng bậy, sai quấy. Anh cứ xử sự
như đa số. Ðối với tập thể anh không có gì để cho họ buồn lòng, phật ý.
Trái lại tập thể rất thương mến anh, chỉ có mỗi một điều tập thể không
hài lòng ở anh là không thấy anh tắm bao giờ hết!
Những người bị
phường đội bắt cùng một lúc với anh mới hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện của
anh. Một câu chuyện lần hồi được thêm thắt tình tiết nên biến thành một
đề tài tiếu lâm, khôi hài trong bối cảnh đau thương của đời tù cải tạo.
Căn bịnh tâm thần của anh Huệ thuộc về khía cạnh hoang tưởng theo chiều
hướng anh hùng hóa bản thân, có thể đã trở nên trầm trọng hơn khi cộng
sản vào thành cho loa phóng thanh ngày đêm ra rả luận điệu "nhân dân ta
anh hùng", trẻ em nào cũng là một Thánh Giống. Cho nên, khi bị phường
đội chận bắt ngoài đường phố anh tự xưng là "trung tướng Nguyễn Huệ, tư
lịnh sư đoàn 23B. Một sĩ quan cấp tướng không hiện diện trong hàng ngũ
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và một đơn vị không có trên bảng trận liệt
miền Nam. Thà bắt lầm hơn tha lầm, đơn vị bộ đội kia đã bắt anh về để
lập thành tích càn quét "bọn âm mưu chống đối, phản cách mạng và phục
thù giai cấp". Ðược cho vào diện "ngụy quân", anh Huệ bị đưa đi học tập
cải tạo nên hôm nay mới có mặt nơi đây.
Nhân vật thứ hai,
càng tệ hơn anh Huệ, chẳng biết danh tánh là gì hết, thường được cán bộ
trại gọi một cách chung chung là "anh kia". Theo dư luận được coi như
đầy đủ thông tin thì anh này là con người của phố phường, cái ăn, cái
mặc đều nhờ ở lòng nhân ái của bá tánh, của khách qua đường. Không cố
tình làm khách lãng du, lấy bốn biển năm châu làm nhà, nhưng anh cứ rày
đây mai đó, nơi nào anh cũng sống được, không thấy gia đình nào nhìn anh
mà anh cũng chẳng có ai là thân tình quyến thuộc. Cũng như anh Huệ,
không phải là người mất khả năng ngôn ngữ nhưng không có khi nào ai nghe
anh nói một lời gì, chỉ mỉm cười thay lời đáp lại. Dẫu thuộc dạng người
thiếu vắng tâm trí, anh rất hiền lành, không khuấy phá, chỉ ăn, ngủ rồi
lang thang dạo chơi. Vóc người anh rất tròn trịa, béo tốt, chớ không gầy
ốm và khô cằn như anh Huệ, do đó dường như có nhiều nhiệt lượng trong
người nên ít khi thấy anh mặc nguyên bộ quần áo của trại phát mà lúc nào
cũng chỉ độc nhứt chiếc quần đùi trong mọi thời tiết. Trường hợp anh bị
đưa đi tập trung học tập cải tạo phản ảnh đúng câu nói dân gian "ách
giữa đàng mang quàng vào cổ". Số là ngày cộng sản vào thành phố Sài Gòn,
đường phố thủ đô đầy dẫy những quần áo trận bị bỏ chất đống ngoài những
lối đi vì hết nhiệm vụ. Anh lượm mặc vào, không để ý là trên quân phục
đó còn có phù hiệu và cấp bực đã thêu sẵn. Thấy hiện tượng cứ cho là bản
chất, cộng sản liệt anh vào diện sĩ quan Sài Gòn giả ngơ, giả dại, đóng
kịch, trá hình nên cứ cho vào trại tập trung, hạ hồi phân giải. Phải
chăng vì vậy mà anh này đâm ra dị ứng với quần áo đủ bộ?
"Ðồng nát lại về Cầu
Nôm" nên người ta thường thấy anh Huệ và "anh kia" đi chung với nhau,
lúc nào cũng như hình với bóng. Ðiểm đặc biệt là hai anh này sinh hoạt
rất bình thường, làm những gì người khác làm nên trại cũng không phải có
lối xử sự gì dành riêng cho họ. Người ta có cảm tưởng hai anh sống còn
thoải mái hơn những ngày ở ngoài xã hội. Họ không phải mất công xuôi
ngược phố phường để kêu gọi và nhờ vả vào lòng từ thiện của những ông đi
qua và các bà đi lại. Ở trại họ đã được Ðảng và Nhà Nước lo đầy đủ cơm
ăn, áo mặc và chiếu mùng để ngủ. Vả lại, họ không bị những điều lệ của
trại hay chỉ thị của cán bộ chi phối vì con người của họ chỉ có một nửa,
thân xác ở trong trại nhưng tâm trí đã thiếu vắng từ thuở nào. Nhận thức
từ một lập trường khách quan thì có lẽ thân phận của hai anh này đã nói
lên một điều mâu thuẫn là cộng sản về thành lại đem "vô sản" nhốt vào
tù. Hay thực tế hơn thì những con người cộng sản đã quá thiển cận vì hay
đa nghi, không còn phân biệt điều hư lẽ thực của đối tượng. Nhận thức
của họ chỉ thuần túy nhị nguyên giữa ta và địch, không phải ta thì là
địch chớ không còn gì khác. Ðã thiển cận, lại còn ngoan cố, không chịu
thấy chỗ sai quấy của mình nên "trung tướng Nguyễn Huệ" đã phải bị đưa
ra miền Bắc học tập cải tạo để rồi hơn 12 năm sau mới được tha về cùng
một lúc với những tướng tá của Sài Gòn! Về phần "anh kia" thì không nghe
ai nói đã đi về đâu.
ß
Bối cảnh chờ bưu
kiện lâu dài quá cũng hóa nhàm và tù cải tạo không thấy được người ta sẽ
dành cho mình một cái bất ngờ nào đây. Thông tin về một thời hạn học tập
cải tạo ba năm đã được loan báo trên các phương tiện truyền thông, nằm
trong cái gọi là "chính sách khoan hồng" của chánh phủ lâm thời cộng hòa
miền Nam, báo trước một điều chẳng lành. Thế nhưng, phương thức tiến
hành cụ thể sẽ như thế nào thì không ai đoán được khi mà cung cách sinh
hoạt không mang dáng dấp gì của chủ trương đó hết. Quanh đi quẩn lại mà
thời gian qua đã gần một năm. Trong khi chờ đợi không đối tượng như vậy,
tù cải tạo giống như tuổi bé thơ lầm lỗi khi người lớn vắng mặt. Một thứ
lỗi lầm không sao ém nhẹm được nên muốn sớm gặp người lớn để được dứt
khoát với sự trừng phạt dành cho mình.
Bỗng nhiên, có một
hôm, khi phát lương thực và thực phẩm để nấu ăn cho ngày hôm sau, hậu
cần của trại cân đong đo đếm thế nào mà số lượng nhận về nhiều gấp đôi,
dẫu rằng không có ngày lễ lớn. Những người phụ trách nghĩ rằng hậu cần
đã lầm lẫn, nhưng khi đối chiếu với những nơi khác thì đều như nhau.
Hiện tượng có vẻ bất thường nhưng cụ thể thì không ai biết được chuyện
gì sẽ xảy ra. Những nhóm săn tin thông thạo nhứt cũng chào thua. Mấy
ngày trước đó, mỗi người tù cải tạo được cấp phát một bộ quân phục tác
chiến ngụy trang trước kia của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa. Ngoài ra,
trại cũng phát mền mùng cho những ai có mền mùng hư rách. Tối đến sinh
hoạt cũng bình thường, chương trình truyền hình cũng như thường lệ rồi
cũng kẻng ngủ như hằng đêm. Thế nhưng, khoảng một giờ sau thì có tiếng
còi vang lên trong bóng đêm và tiếng cán bộ gọi tất cả tù cải tạo khu B
tập hợp. Hàng ngũ vừa ổn định thì một cán bộ đọc lên một danh sách và
những người được gọi phải đứng qua một bên. Sau đó, nhóm người này vào
nhà ở "chuẩn bị tư trang, nhanh và gọn nhẹ. Những gì bằng sắt không được
mang theo". Một lần nữa, những người bạn tù vừa quen biết nhau, vừa bắt
đầu kết tình thân thiết lại tay bắt, mặt buồn từ giả nhau mà không thể
hứa hẹn ngày tái ngộ.
Tuy là nếp sống tù
tội, thế nhưng qua thu lượm tài sản cứ tăng lên sau mỗi lần sinh sống ở
trại mới vì kinh nghiệm dạy rằng phải chuẩn bị cho nếp sống ở đầu bên
kia của lần chuyển trại. Khi trình diện học tập cải tạo, thông cáo của
ủy ban quân quản thành phố cho biết là "ăn uống đã có nhà thầu cung cấp"
cho nên khi đến trại Long Giao, trại đầu tiên, có người không có dụng cụ
để ăn uống. May mà nơi đó còn có những dụng cụ quân nhu của đơn vị cũ bỏ
lại. Hơn nữa, trải qua một cuộc đổi đời dâu bể, có nhiều người, đã trắng
tay sau khi cộng sản vào chiếm nhà ở cư xá quân đội, như chừng mang lấy
một mặc cảm thiếu thốn cần được bù trừ nên sanh ra một thói tật mệnh
danh là "săn nhặt" hay "ve chai". Nghĩa là hay thu lượm những gì họ thấy
có thể hữu dụng. Do đó, mặc dầu trại đã chỉ thị tư trang gọn nhẹ nhưng
nhiều người phải lúng túng, không nỡ bỏ cái này, không đành để lại món
kia. Bõ đi thì khi đến trại mới chính vật đó là cần thiết, thế mới tai
hại. Vì sợ phải bực tức trong tương lai, vì hối tiếc công khó tìm kiếm,
lượm lặt trong quá khứ nên trước giờ phút lên đường chuyển trại người tù
thường có những nỗi khổ tâm không đâu. Tầm quan trọng của mỗi đồ vật tùy
thuộc vào tình thế hiện thực của người chiếm hữu nó mà thôi.
Tiếng còi tu huýt
nổi lên lần nữa và những người đã được gọi tên, tay xách tay mang đem
hành trang ra tập hợp ở sân. Những người chưa được gọi chỉ được phép
xách hộ hành trang cho bạn bè ra sân rồi phải trở vào nhà ngay. Những
người ra đi được tổ chức lại từng nhóm với số lượng vừa đủ cho một xe
tải. Thế rồi, từng nhóm, từng nhóm họ đi ra phía ngoài vòng rào kẽm gai.
Những người ở lại, trên nguyên tắc là phải tắt đèn đi ngủ vì đã quá
khuya, nhưng cứ thao thức mãi thâu đêm. Thao thức vì bạn bè và trằn trọc
vì thân phận của chính mình trong nay mai đây. Với một tập thể đông đảo
cùng chung số phận thì nỗi lo âu dường như được chia sẻ nên cảm thấy nhẹ
nhàng hơn. Nhưng, khi đám dông bị chia năm xẻ bảy, bị cắt xén thì sự lo
ngại như tăng đôi, nhơn ba. Hơn nữa, những gì cần biết liên hệ đến thân
phận tù đày chưa được giải quyết, còn bị xếp xó thì giờ đây những thắc
mắc mới lại xuất hiện. Tâm tư chưa kịp ổn định thì đã phải tiếp nhận
những dữ kiện mới. Toàn là những điều bất ngờ khó chịu mà hướng đi của
nó không thể dẫn đến một lối thoát, dẫu nhỏ bé, cho sự mong ước của tù
cải tạo.
Sáng hôm sau, những
người còn ở lại thức dậy với một nỗi ngỡ ngàng trước việc hàng ngũ của
mình bị thiếu vắng kẻ này, người nọ. Kiểm điểm lại nhơn sự thì đã ra đi
khoảng một nửa. Rồi đây, chắc phải sắp xếp lại qua biên chế đội ngũ.
Lương thực, thực phẩm lãnh về hôm trước nay vẫn dư thừa nằm đó, như
chừng những ngày thiếu đói vừa qua là chuyện bịa đặt và không tưởng, là
hiện tượng của dĩ vãng xa xưa. Con đường cạnh bộ chỉ huy trại, bên kia
rào kẽm gai, đầy dẫy những gì bị bỏ lại sau cuộc kiểm tra đêm qua, trước
khi tù cải tạo bị đưa lên xe tải chở đi. Những lon nhôm củ hiệu sữa bột
Guigoz, những vỏ thiếc của thức ăn đóng hộp được dùng làm tô chén ăn
cơm, những giấy gói và giấy báo được tích trữ qua các lần nhận bưu phẩm
gia đình gởi đến, những thứ vặt vãnh chẳng đáng gì, nhưng là cả một phần
tâm tư tình cảm của những con người đang góp nhặt để làm lại cuộc đời từ
số không. Cái ngày sau biến cố rồi cũng qua đi với nỗi tâm tư gần như
trống không ở những người còn lại. Cán bộ trại cũng chẳng buồn ngó ngàng
đến khu ở của tù và việc biên chế lại cũng không thấy diễn ra, theo "lô
gíc" của trại tù, một sự kiện lẽ ra phải có sau mỗi lần có nhiều người
chuyển trại. Trại tù hôm nay là một thực tế nhưng hai hoàn cảnh chia cắt
bằng mấy lớp rào kẽm gai. Phía khu cán bộ thì im lìm, phía nhà ở của tù
thì trầm lặng với những con người lang thang, trầm tư mặc tưởng, khu này
thăm hỏi khu kia để tìm hiểu về biến cố đêm qua. Kẻng báo hiệu giờ giấc
sinh hoạt cũng không buồn lên tiếng và vào buổi chiều chương trình chiếu
hình hàng đêm cũng mất đi phần hấp dẫn. Tình cảnh này nếu cứ thế kéo dài
chắc chắn sẽ tác động không nhỏ đến tinh thần của nhóm tù còn lại. Thế
nhưng, sự kiện đó chưa kịp đến thì đoàn người còn lại cũng phải khăn gói
lên đường.
Về đâu đây, về đâu
đây, khi đã bước xuống nửa từng địa ngục? Nỗi khổ tâm của những người tù
là ra đi mà lòng cứ hoang mang về nơi đến. Những người con của đất nước
Do Thái, mắc nạn ở Ai Cập, khi rời khỏi nơi này hay những người di tản
mới đây còn biết được nơi sắp đến nên dù có trăm cay ngàn đắng cũng cam
tâm chịu đựng để đến được vùng sáng rực ở chân mây, cuối trời. Những
người tù cải tạo thì chỉ có rời một nơi đen tối để đi đến một miền tối
đen hơn mà thôi!
------------------------
Ghi chú :
|