hác với những chuyến
ra trại trước kia, lần này, thay vì khởi hành từ Hà Nội, đoàn người vừa
được tự do phải lên xe lửa tại ga Nam Ðịnh vì lúc bấy giờ thủ đô đang
trải qua một giai đoạn căng thẳng gì đó của Trung Ương Ðảng. Sự hiện
diện của khoảng trên một trăm tù cải tạo vừa được tự do làm nặng thêm
những âu lo về an ninh. Trước khi những người mới được tự do lên xe rời
trại, đích thân cán bộ trại trưởng thông báo:"Khi về đến thành phố Hồ
Chí Minh, các anh sẽ được xe ca của Mặt Trận Tổ Quốc đón tại nhà ga".
Lại một trường hợp đặc biệt, nhưng càng đặc biệt hơn nữa là giấy ra trại
của những người về thành phố đều bị cán bộ tháp tùng thu lại. Một thắc
mắc không nhỏ. Lại một trường hợp ăn gian nói dối nữa chăng? Biết đâu
giữa đường xuôi Nam, những người vừa chập chững với tự do xã hội chủ
nghĩa lại được đưa vào một trại khác để học tập làm người tự do? Tuy
nhiên, còn một chút yếu tố để yên tâm là giấy ra trại của những ai về
các tỉnh dọc tuyến đường sắt như Huế, Ðà Nẳng, Nha Trang,... thì không
bị thu lại.
Ðoàn xe vừa vào ga
Nam Ðịnh, mặc dầu đã có công an cơ sở đến tăng cường nhưng khi vừa bước
xuống xe là đã có một anh bị mất bóp và giấy tờ. Nhưng, không bao lâu
sau đó, thủ phạm đã bị bắt. Mười mấy năm xa lạ với tự do, đoàn người vừa
bước qua ngưỡng cửa tự do để chạm trán với đời thường chẳng khác nào như
một đàn gà công nghiệp sút chuồng, tưởng mình được miễn nhiễm với các
thủ đoạn của xã hội bon chen, dù là xã hội xã hội chủ nghĩa. Thế là
những con gà ngơ ngác kia lang thang đây đó trên các con đường nhỏ bé,
bụi bậm của thị xã, dọ dẫm làm quen với chút sinh hoạt tự do.
Thành phố Nam Ðịnh,
một trong những thành phố lớn của miền Bắc, sau hơn bốn mươi năm dân chủ
cộng hòa và xã hội chủ nghĩa, mang một dung nhan về chiều của một lão bà
nặng gánh gian truân với cuộc đời. Có cảm tưởng như một quận nhỏ của
miền Nam những ngày trước năm 1954. Nhà cửa u buồn, tường vôi loan lở
chẳng ai buồn trét trám, nước sơn phai màu như trách móc thời gian. Quần
chúng đăm chiêu hiện diện trên đường phố, trên sân ga mà tâm tư ở tận
đâu đâu thể hiện qua những cặp mắt không hồn và những nét mặt ngẩn ngơ.
Bước đầu trong nếp sống tự do nhưng sao cảm thấy tù túng, bực bội hơn
những ngày trong trại? Một thứ không khí khó thở đến ngột ngạt. Sống
trong cảnh tù đày mười hai năm có lẻ, xa cách đời thường lâu lơ lâu lắc,
ấy thế mà cảnh quang thị xã chẳng mấy hấp dẫn, những toán người vừa gặp
mặt tự do đã thấy chán chường. Ði quanh, đi quẩn chẳng mấy chốc đã thấy
chán bèn kéo nhau vô bưu điện đánh điện tín báo tin vui về gia đình. Xe
lửa còn lâu mới đến, họ kéo nhau vào quán phở nếm thử bát đầu tiên của
thời ra trại. Kéo nhau vào quán ngồi hoài chẳng ai buồn nói đến mặt.
Nóng lòng gọi cô hàng đến đặt món ăn thì được hỏi:"Phiếu ăn đâu?" Thì
ra, phải mua phiếu trước mới có được tô phở. Lỗi ở thời học tập cải tạo
đã làm cho con người không biết phương thức sinh hoạt ngoài đời, nhứt là
sinh hoạt xã hội chủ nghĩa, một thứ sinh hoạt không giống như thời "ngụy
quân, ngụy quyền". Thế là làm người Việt Nam mà đã bắt đầu xa lạ trên
chính quê hương mình. Ăn không được, tạm thời uống nước cho mát lòng bỡ
ngỡ, cho hạ cơn buồn cười. Nhưng gặp phải nước đá làm bằng nước xa lạ
với bụng dạ từng quen thói "ăn chín, uống sôi" nên suốt mấy ngày đêm
trên xe lửa bị Tào Tháo đuổi, không chạy đâu xa mà phờ cả người.
Con tàu từ Hà Nội
đến lù lù tiến vào ke ga như một cấp lãnh đạo, hùng hổ, hiên ngang lướt
qua đoàn người đứng chờ như dàn chào. Toa xe thật nghèo nàn, bên ngoài,
bên trong gì nước sơn cũng đã cũ, trông như lượm lặt ở một đống vật liệu
phế thải của một nước tư bản chậm tiến. Băng ngồi đóng nẹp bằng cây có
kẽ hở để thoát hơi, lưng dựa lên đến ngang đầu, nước vẹc-ni chỉ còn là
dấu vết vì bị cọ sát lâu ngày nên thân cây ngã màu xam xám của mồ hôi
người hòa với bụi đường xa. Ðoàn người từ Nam Hà chiếm gần trọn một toa
xe, được sắp xếp vào chỗ ngồi nhờ sự can thiệp của cán bộ trại, của công
an cơ sở và cán bộ tháp tùng. Nếu không có sự sắp xếp của cán bộ công an
hợp tác với nhân viên hỏa xa thì những người mới làm quen với tự do sẽ
không có chỗ ngồi. Không hiểu vé xe bán ra như thế nào mà xe vào ga là
hành khách cứ tràn lên giành chỗ như đi xem hát thí.
Tuyến đường sắt phía
Bắc Bến Hải chưa được hoàn chỉnh nên xe không giữ được tốc độ đều đặn,
lúc chạy khi ngừng, lúc nhanh khi chậm. Thậm chí có những đoạn nhân công
sửa chữa đường rầy phải đeo theo tàu, thỉnh thoảng xe dừng lại để điều
chỉnh rồi tàu mới đi tiếp. Con tàu chạy gập ghềnh như tàu thủy nhảy sóng
nhỏ. Ở một vài đoạn đường, nhân viên an ninh đường sắt yêu cầu hành
khách nên thận trọng che bớt cửa sổ toa lại vì có nguy cơ bị người dưới
đường ném đá hoặc ném phân trâu. Dẫu vậy vẫn có một anh bị thương nhẹ.
Tại sao lại có lối thù hằn gì lạ đời, hay là một cung cách đùa nghịch
xuất phát từ thói quen đánh Tây, diệt Mỹ ngày xưa. Lấy "văn minh nông
thôn xã hội chủ nghĩa" đánh phá "tiến bộ cơ giới đế quốc tư bản" chăng?
Hay là một thủ đoạn phục thù giai cấp, người nông thôn nghèo nàn đánh
trả dân thành thị có của ăn của để, đi tàu hỏa tung tăng, không chịu đi
chưn đất đường bộ như ta? Cảnh quang đồng ruộng khô cằn như chừng đất
chết, bị khai thác đến tận cùng xương tủy.
Qua sông Bến Hải,
phong cảnh bên ngoài đổi khác thấy rõ. Biết đâu chẳng là chủ quan? Từ
đây, xe lửa chạy với một tốc độ tương đối nhanh hơn và xao động theo
chiều ngang nhiều hơn là theo chiều dọc như đoạn phía Bắc. Từ ga Vinh
trở vào phía Nam, khi tàu ngừng lại các ga lớn, khách con buôn tràn lên
tàu rất đông hỏi mua mền và nhiều mặt hàng khác. Tàu đến Lăng Cô phải
nằm lại giữa đồng nội chờ hiệu qua đèo Hải Vân, vào một đêm trăng đẹp
thơ mộng. Cảnh trí gợi tình thôi thúc một vài tâm hồn nghệ sĩ, thế là
điệu đờn, câu hát nổi lên. Lâu lắm rồi người dân mới nghe được những bản
nhạc vàng công khai ca hát nên thấy lạ tai, cuộc trình diễn bỏ túi của
những kẻ đờn ca tài tử đâm ra hấp dẫn. Các em bé hàng rong thấy lạ vây
quanh, trong đó có một cô bé trạc mười lăm, mười sáu, mà cả bọn cho là
danh ca, được xúi để góp tiếng hát giúp vui. Thế là chuyện bán buôn
không còn quan trọng nữa. Hết bản này đến bản kia trong tuyển tập nhạc
vàng của cô ca sĩ hàng rong kế tiếp nhau vang lên trong bầu không khí mờ
ảo của đồng ruộng dưới ánh trăng thanh. Hết tràng pháo tay này đến tràng
pháo tay khác và cô bé ca sĩ càng thêm hứng chí như chừng không muốn
thôi vì chưa bao giờ em được một làn nhạc đệm thích thú đến như vậy. Thế
nhưng, như một đàn ong vỡ tổ, các cô cậu hàng rong tủa ra chạy khi có
tiếng la báo động:"Công an!" vì nhạc vàng chưa được chấp nhận một cách
phổ biến tại nơi này vào thời điểm đó. Tuy nhiên, cũng chẳng có chuyện
gì xảy ra vì đoàn tàu đã chuyển bánh để qua đèo, ì ạch và nặng nhọc như
tiết tấu câu thơ "một đèo, một đèo, lại một đèo" của Hồ Xuân Hương.
Ngoại cảnh và lòng
người như có hẹn hò, có cùng tần số sinh sống hoặc cùng một từ trường
hoạt động nên từ đây trở đi hơi thở thấy nhẹ nhàng thoải mái, cảm giác
thấy lâng lâng. Cảnh trí quen mắt hoặc giả những kỷ niệm gợi nhớ khơi
lại trong tâm tư một thời dĩ vãng như chừng ngưng đọng trong lòng người
bị mười mấy năm học tập cải tạo quấy rầy. Mười mấy năm trời xa cách mà
giờ nhìn lại những tưởng như mới hôm nào, như một cuộn phim ngừng chiếu
nay bắt đầu quay trở lại. Niềm hân hoan và nỗi hứng thú qua hội ngộ,
trong phút chốc, đã xóa mờ những ray rứt của một thời cách biệt. Tình
cảm xưa cũ vẫn còn đó chừng như mười mấy năm trời xã hội chủ nghĩa không
sao xói mòn được tình tự dân tộc và tình nghĩa quê hương, nhứt là qua
điển hình của một cậu bé bán kem. Trên con tàu nóng bức, những con người
khao khát tự do sau hơn mười hai năm dài học tập cải tạo cũng thèm chất
mát nên thùng kem cây của cậu bé trong phút chốc đã hết sạch. Qua câu
chuyện hàn huyên với kẻ này, người nọ và được biết rằng đây là đoàn tù
cải tạo vừa được phóng thích, cậu bé nhứt quyết không nhận tiền kem vì
ba em có dặn:" Ði bán trên xe lửa, gặp mấy bác, mấy chú học tập con chớ
lấy tiền". Ba em trước kia là trung úy ban hai chi khu, đã trầy vi tróc
vảy với những mỹ từ "học tập cải tạo" nên muốn cho con mình ít ra cũng
có chút hành động chia sớt những điều cay đắng của "một cây súng gãy".
Một hành động bé nhỏ của cậu bé bán kem nhưng gây một xúc động to lớn
nhớ đời để càng cảm thấy rõ tội lỗi của mình đối với thế hệ đang lên của
cậu bé bán kem kia. Bài học thắm thía là ở cây kem miễn phí, chớ không
phải là ở một thời dày xéo của cộng sản.
Ðoàn xe lửa càng
nuốt con đường xuyên Việt, đưa đoàn người tập tễnh những bước đi tự do
về gần với quê hương thì hình ảnh hai bên đường, trên sân ga càng làm
cho họ phải suy ngẫm nhiều hơn, lấn lướt niềm vui hội ngộ đang chờ ở
cuối đường. Sau mười mấy năm trời hòa bình, độc lập và thống nhứt mà
cảnh quang nông thôn vẫn không có gì đổi mới. Con trâu vẫn đi trước cái
cày và hàng hàng lớp lớp con người vẫn khom lưng với việc đồng áng. Trên
con đường cái quan, ngày trước ngựa xe nườm nượp nay chỉ toàn là xe đạp
và xe đạp, thỉnh thoảng một vài chiếc xe tải màu bộ đội hùng dũng chạy
tung tăng. Ngoài những ga thuộc thành phố lớn như Huế, Ðà Nẳng, Nha
Trang,... xe lửa chỉ ngừng lại một vài ga thuộc các thị xã đông dân.
Trước khi xe lửa vào ga thì những người buôn thúng bán bưng đã nhảy lên
xe từ xa để giành khách, giật mối. Ðủ thứ mặt hàng và có cả những người
cò mồi cho những cửa hiệu lớn đóng cố định tại ga. Thậm chí nước lã cũng
đem ra bán từng thau, từng thùng cho những ai có nhu cầu rửa mặt hoặc
lau mình cho sạch chút bụi đường xa. Muốn tắm thì phải chờ khi tàu vào
ga lớn.
Nuốt xong khoảng một
ngàn bảy trăm cây số đường xuyên Việt trong bốn ngày, ba đêm, đoàn tàu
len lỏi qua những xóm nhà ngoại ô thành phố để vào ga Chí Hòa. Những cặp
mắt dò tìm, những tiếng kêu gọi thân thương, những dung nhan rạng rỡ,
những bàn tay vẫy chào,... Có những chờ đợi được toại nguyện nhưng cũng
có một vài mong ước bị vỡ mộng, chán chường được cụ thể hóa bằng một bó
hoa đơn sơ bị ném xuống lòng đường sắt, bằng nét mặt không hồn, ngẩn ngơ
của người phụ nữ nghe có đợt về đông cứ ra ga đón tiếp nhưng khi hỏi lại
thì người mình mong đợi còn mãi tận đâu đâu. Nhưng rồi niềm vui hội ngộ
cũng chỉ ngắn gọn, thăm hỏi qua loa vì đoàn xe mà cán bộ trại trưởng Nam
Hà cho là của Mặt Trận Tổ Quốc đã réo gọi đoàn người trở về lên xe. Ơ
hay! Vừa ra khỏi tù lại được đưa vào khám Chí Hòa? Lẽ nào ánh sáng ở
cuối đường hầm lại chỉ là một cái rọ nhà tù khác nữa hay sao? Thì ra chỉ
là một sinh hoạt biểu diễn uy quyền của công an thành phố, vừa chào đón
những người về vừa dằn mặt răn đe cho thấy vòng đai quản chế mới. Năm ba
lời tuyên bố, một đôi điều nhắn nhủ dặn dò rồi gọi tên, nhìn mặt từng
người để kiểm diện xong mới trao trả giấy ra trại. Ðến phút chót vẫn
chưa hết những xảo thuật gây bất ngờ!
ß
Sài Gòn,
thành phố thân yêu, sau mười mấy năm trời có lẻ cách biệt! Trong những
ngày lao lý và qua những giấc mơ, thành phố vẫn hiện hữu trong tâm tư
người tù dưới nhiều nét mặt khác nhau, vừa đau thương, vừa trách móc,
như một nhân tình bị bạo chúa cướp đi trong cảnh bất lực của người yêu.
Vào giờ phút tái ngộ, nét kiều diễm của thành phố tuy có sa sút nhưng
tâm tình vẫn là tâm tình ngày cũ, biểu lộ thầm kín và e dè. Nếu đừng có
quá nhiều xe đạp, nếu phố phường ít người đi bộ hơn, nếu những chiếc nón
cối dị hình và những đồng phục lạ màu của công an đừng khống chế phong
cảnh thành phố thì có lẽ
Sài Gòn cũng dễ thương không khác
gì những ngày xưa thân ái. Những con người đã trải qua trên một phần
mười thế kỷ tù tội lưu đày không thấy tính chất cộng sản của thành phố
đâu cả khi mà đầu óc cứ in trí rằng người ta đã làm cho nó biến chất đi
khi gán cho nó "thành phố mang tên Bác". Thì ra, thay đổi hiện tượng
chưa chắc gì thay đổi được bản chất và điều lý tưởng là phải ngược lại.
Trên phương diện tâm
tư tình cảm thầm kín thì không mấy đổi thay nhưng về mặt thủ tục thì
những người vừa được tự do kia cũng chỉ là những con chim sút lồng nhỏ
để bay sang chiếc lồng lớn hơn và lộng lẫy hơn mà thôi. Hết trình diện
công an khu phố đến trình diện công an phường, công an quận. Chầu chực
hết cô công an này đến chú công an kia để làm những thủ tục hành chánh
cần thiết. Chưa kể những lúc phải tiếp đón gần như có tính cách chu kỳ
ông công an khu vực đến nhà "hỏi thăm sức khỏe" trên mặt nổi, nhưng
trong thâm tâm là để xem đối tượng quản chế của mình có tan biến hay
không. Có những người còn được công an "mời dạy ngoại ngữ" cá nhân. Chỉ
là một mưu mẹo để theo dõi đối tượng hàng ngày mà thôi. Những đêm yên
giấc trong tù còn nhẹ nhàng hơn những đêm ngủ ở nhà. Một tiếng chuông
gọi cửa reo vào chiều tối, một tiếng chó sủa ma nửa đêm về sáng cũng làm
cho những trái tim nhạy cảm tăng nhanh và khuếch đại nhịp đập vang dội
trong lòng ngực, nghe to hơn tiếng trống chầu ngày hát cúng đình thuở
xua. Tự do gì mà có cũng như không?
Trong một chiến dịch
lấy lòng thế giới, người ta cho phương tiện truyền thông nhà nước đánh
trống thổi kèn nhân chuyến về của một số đông đảo tù cải tạo như vậy.
Báo chí phỏng vấn tướng này, hỏi han đại tá nọ, toàn những cựu tù cấp
cao của chế độ Sài Gòn.
Những điều đã nói ra lại được đăng tải với một vài sơ sót cố tình,
phương tiện nào đâu để cải chính? Thế là bạn bè gần xa cứ dựa vào giấy
trắng, mực đen để phê phán và chê trách. Ðành cắn răng chịu phép. Thậm
chí công an thành phố còn cho phép ký giả ngoại quốc trực tiếp phỏng vấn
những người mới về lại thành phố. Một lần tiếp xúc trực diện dĩ nhiên có
đính kèm một anh hay một chị công an ngụy trang dưới lớp áo của nhân
viên sở ngoại vụ thành phố làm hướng dẫn viên cho khách nước ngoài. Khi
người ký giả kia tỏ ý muốn đối thoại tay đôi riêng tư với đối tượng thì
bị từ chối khéo. Hiện tượng của một thái độ tự do trong bầu không khí xã
hội chủ nghĩa là như vậy, nếu chấp nhận quy luật của trò chơi thì hãy
dấn thân. Nói nữa cũng bằng thừa vì người ta sẽ hoài công, tốn sức để
chứng minh sự kiện chó đá không biết sủa.
Trong tinh thần của
những cam kết với phía Hoa Kỳ, người ta chịu để cho cựu tù cải tạo được
ra đi tái định cư nơi nào mình muốn. Thế là cựu tù lại có dịp để tụ họp
khỏi xin phép mà không bị xua đuổi, không bị nghi ngờ khi đến nộp hồ sơ
xin xuất cảnh ở công an quận. Nguyên tắc nói ra nghe đơn sơ và dễ dàng,
nhưng khi làm thủ tục thì lại nhiêu khê và phiền toái vô cùng. Chưa biết
rồi công chuyện sẽ đi đến đâu nhưng sơ khởi là công an có dịp lấy tiền
qua những ấn phẩm, những mẫu này mẫu nọ mà đương đơn phải mua. Thế rồi,
nay đợi mai chờ, sáng lên quận, chiều xuống phường, nhưng rồi cũng chẳng
biết hỏi ai để theo dấu chân đi của hồ sơ đã nộp. Như một hòn đá ném vào
khoảng không. Ngày đêm nôn nóng mà lại như sinh sống trong cõi hư vô nên
những cựu tù cứ bị làn sóng tin đồn và suy diễn ồ ạt tấn công. Một tuần
lễ, ba ngày chẵn, thứ hai, thứ tư và thứ sáu, họ tự động họp nhau lại
"khu chợ trời tin tức xuất cảnh" đương nhiên hình thành trên công viên
trước sở ngoại vụ thành phố. Ðến đó trước tiên để gặp lại bạn bè ngày
cũ, ngoài đời cũng như trong tù, sau nữa để nghe ngóng điều này, lẽ nọ
về ODP
về HO,
với những chiều hướng vô cùng lạc quan, đầy tính an ủi. Khai thác tình
thế, bộ nội vụ Hà Nội cho thành lập "Dịch Vụ Xuất Nhập Cảnh", một cơ
quan bán chánh thức bên cạnh văn phòng đại diện của bộ ở thành phố. Chức
năng công khai và chánh thức của cơ quan này là giúp đỡ những người muốn
xuất cảnh và nhập cảnh, nhưng thực ra là để làm tiền một cách công khai
và hợp pháp những ai muốn ra đi nhanh chóng. Một trung tâm tập sự của
những người "đầy tớ nhân dân" lúc nào cũng làm vừa lòng những người dân
"biết điều". Thế nhưng, cũng không phải nhanh chóng, dễ dàng gì. Cũng
phải năm lần nộp giấy tờ, bảy lượt bổ túc hồ sơ, trung bình cả năm sau
mới được thông hành để đi đến vùng trời thực sự tự do. Dĩ nhiên cũng
phải tốn không ít tiền và phải lót đường, trải thảm bằng thuốc thơm "Ba
Số".
Những người
không
phương tiện chẳng biết đến khi nào mới thoát khỏi cảnh "tự do trong tất
yếu"?
Vậy mà ngần ấy
chuyện cũng đâu đã hết. Cầm được thông hành trong tay rồi chưa chắc đã
được xuất cảnh vì còn phải qua khâu ngoại vụ nữa. Và nguyên tắc căn bản
của người chạy việc trong môi trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam là muốn
xong chuyện thì phải biết điều và làm thủ tục "đầu tiên". Hạng bét cũng
vài ba gói thuốc thơm "Ba Số". Ở khâu này, người ta xét xem đối tượng có
được phép nhập cảnh của quốc gia sắp đến hay chưa. Những ai muốn đi Mỹ
thì phải gặp phái đoàn Mỹ, cũng hoạt động tại tòa nhà của sở ngoại vụ
thành phố, để được xác nhận là có sự chấp thuận của phía Hoa Kỳ. Những
gia đình đi các nước khác thì phải liên lạc với tòa tổng lãnh sự của
quốc gia liên hệ, với giấy giới thiệu của sở ngoại vụ. Có xuất cảnh và
nhập cảnh xong, phải lo đăng ký chuyến bay để biết ngày lên đường và
biết công ty chuyển vận. Toàn là những ngưỡng cửa mà người lo việc phải
biết điều với công an gát cổng hoặc những người phụ trách. Kế đến là
khâu hành lý mang theo. Muốn cho nhanh, gọn thì phải qua bộ phận "dịch
vụ chuyến bay", một tổ chức tư nhưng rành ngõ ngách để cho đương sự có
thể mang theo một trọng lượng hành trang mong muốn, lại tốn ít tiền. Thế
nhưng, ít tiền một mặt nhưng phải lo tiền mặt khác. Một đôi ngày trước
khi lên máy bay thì phải đưa hành lý gởi theo đi khám. Khâu này cũng khá
nhiêu khê, hạch hàng này, hỏi hàng nọ, tại sao đem nhiều thế, loại hàng
này cấm, loại hàng kia không được mang đi. Thế nhưng, "Bác" mà giải
quyết hộ thì việc gì cũng tốt đẹp và êm xuôi. Những trục trặc trong khi
khám hành lý gởi theo hay hành lý mang đi đều do công ty dịch vụ chuyến
bay dàn xếp, dĩ nhiên là với chất ngân của đương sự. Ngày lên đường, mọi
thủ tục an ninh, hải quan và thông hành xong xuôi, vào khu cách ly để
chờ giờ lên phi cơ vẫn chưa yên lòng vì có khi công an còn mời tới mời
lui, hỏi han chi tiết này, chi tiết nọ. Một lối dằn mặt trước khi buông
tha. Khi máy bay cất cánh xong, những người cựu tù cải tạo được phép
xuất cảnh mới bắt đầu thở phào nhẹ nhõm đi vào cõi đời lâng lâng, bắt
đầu nghĩ đến tương lai phía trước.
Qua những ngày lo
chuyện xuất cảnh, những người cựu tù cải tạo như ở trong hội chợ phiên
của những trò chơi trẻ con, chuyền từ vòng xoay này sang vòng xoay khác
của cuộc sống tự do có mà như không đó của thành phố thân yêu, làm người
xa lạ trên chính quê hương mình. Sống giữa cuộc đời rộn rịp mà tâm tư
như trên hoang đảo, ngày đêm mơ tưởng hình bóng của chính mình ở một
chân trời xa lạ nhưng thân hữu lại nghìn trùng cách biệt. Cuộc đời đã
sắp về chiều, nhựa sống đã gần cạn kiệt, sức lực đang buổi tà huy, không
biết rồi đây mình sẽ đương đầu với tương lai như thế nào, từ khởi điểm
số không?
-------------------------