Cái bóng
Hàng
năm đến ngày ba mươi Tết là bạn bè ông Thới đều tập trung lại tại
nhà ông Nhẫn để chung vui và chuẩn bị cùng nhau chơi đánh cờ tướng,
đón giao thừa. Từ ngày ông Thới sang đây California sinh sống, ông
luôn có mặt trong tất cả các cuộc hội họp và tiệc tùng của cộng đồng
và các Hội Đoàn. Ông chăm chỉ, siêng năng như một con chiên ngoan
đạo và ông chiếm cảm tình của hầu hết mọi người. Đặc biệt, ông đã
tìm được bạn bè, những người quen biết với ông trước 75.
Hôm nay là ngày ba mươi Tết, mọi người tập hợp đông đủ, thức ăn,
rượu cognac
đã rót vào ly. Nhưng ông Thới bực tức rời khỏi bàn nhậu. Ly rượu
xoay chừng mà mấy người bạn già rót cho ông còn y nguyên trên bàn.
Thức ăn mới dọn ra còn đầy ấp. Nào là gà nướng lò, nem nướng, thịt
bò xào sả ớt, gỏi ngó sen trộn với tai heo nhúng dấm, bún măng
vịt...
mùi thức ăn bốc lên nghi ngút khiến cho ông cảm thấy đói cồn cào.
Nhưng ông đã từ chối ngồi vào bàn nhậu chung với mọi người vì có mặt
ông Kính- Ốm. Lẽ ra, gặp được ông Kính, ông Thới phải tay bắt mặt
mừng vì dù sao tình bạn hai người không thắm thiết nhưng cũng là
người hàng xóm của ông. Cả hai cùng học chung trường khi tóc còn để
chỏm, biết nhau đã hơn nửa thế kỷ mà vẫn chưa hiểu được tấm lòng
nhau. Mỗi khi ông chạm trán với ông Kính, ông cảm thấy như có hàng
triệu con kiến lửa đang bò ngổn ngang khắp người. Ông cảm thấy nhức
nhói, bực tức và muốn lớn tiếng chửi bới, đấm đá cho hả cơn giận
đang bừng bừng sôi sục trong lòng ông suốt mấy năm qua. Nhưng ông cố
nén cơn giận vì ông sợ những tiếng thơm mà người ta dành cho ông sẽ
biến mất. Ông không còn được ca ngợi là người mềm mại, giỏi nhịn
nhục, ôn nhu và lịch sự. Nếu như ông có thể hét lên, to tiếng chửi
mắng, đấm đá theo lối du côn, cao bồi mất dạy có thể sự bực bội
trong lòng ông sẽ dịu đi. Ðàng nầy, ông phải đóng vai làm người tốt.
Lúc nào cũng tốt, tốt trong mọi hoàn cảnh, nhịn nhục tối đa để được
hưởng hòa bình thì ông phải giữ lấy cái tư cách đáng kính trọng và
gương mẫu của mình.
Bạn bè hay nói ông là một người hiền lành nhả nhặn, ai nói gì cũng
ừ, ai làm gì ông cũng cho là đúng. Ông không thèm quan tâm đến đúng
sai, phải trái miễn sao ông được yên thân và có lợi cho mình thế là
ông cứ sống. Ngày xưa khi còn đi học, ông được nhiều người trong lớp
khen ông hiền hậu, thông minh và biết cách cư xử. Khi chiến tranh
miền Nam Việt Nam xảy ra ác liệt, bạn bè điều tòng quân đi tác chiến
bảo vệ miền Nam còn ông thì được làm việc văn phòng, lương bỗng hậu
hĩ, sống phây phây trong thành phố. Những người lính từ rừng núi về
phép thăm nhà vài hôm, áo quần, giầy trận còn vương mùi bùn đất, tóc
khét mùi thuốc súng, mặt mũi đen sạm vì nắng gió gian khổ. Riêng ông
áo quần bảnh bao ngày ngày đi dạo phố và cua đào. Ông có cái mã đẹp
trai, cao lớn, nhất là đôi môi đỏ như son lúc nào cũng dường như
cười cợt làm cho nhiều cô gái Sài Gòn mê mệt. Ông chưa đi tác chiến
một ngày nào, nhưng chức vụ cứ lên đều đều nhờ tài ăn nói và tiền
bạc của gia đình. Nhiều người nói ông có tài nhưng là tài luồng lọt,
chạy chọt cấp trên. Kể ra cái tài đó cũng phải rèn luyện, học hỏi
mới giúp đời ông lên hương như diều gặp gió. Người ta bàn tán với
nhau là ông sinh ra gặp con số chín nên đời ông suông sẻ, thăng hoa.
Mọi mong ước, ý nguyện của ông đều thành đạt. Trời thương nên cho
ông có bộ óc tính toán chi ly và có tài biến hoá.
Nhưng hôm nay, trong buổi tiệc thân mật đầu năm đón giao thừa giữa
những người bạn thân H.O lâu ngày không gặp, ông đã phải đứng lên bỏ
ngang cuộc vui. Ông không còn hứng thú ngồi uống rượu với mọi người.
Giọng nói ồ ồ của ông Bình kéo ông về thực tại:
- Anh Thới, anh giận gì anh em mà bỏ về ngang xương vậy. Ở lại
đây chung vui và đón giao thừa với anh em chớ.
Ông Thới chẳng nói năng gì. Ông lấy chiếc áo khoát và cái nón đang
treo trong vách gần chỗ ông ngồi, rồi từ giả:
- Cảm ơn anh Bình đã có nhả ý mời tôi đến tham dự buổi tiệc.
Gặp lại các anh tôi mừng lắm. Nhưng có vài việc cần phải về. Hẹn khi
khác vậy.
Ông Bân, người lớn tuổi nhất và cũng là người đi học tập cải tạo lâu
năm nhất nói:
- Dễ gì có buổi hội ngộ nầy hả anh Thới. Tết nhứt mà về chi
cho sớm. Một năm mới có thể tập hợp nhau đầy đủ. Ráng nán lại chơi,
cụng vài ly mừng anh Hoan đến được Hoa Kỳ. Có gì giận anh em thì nói
hết ra đi. Anh em mình già hết rồi, gần đất xa trời không biết bao
giờ mới gặp lại nhau.
Ông Thới nghe bạn bè xung quanh bàn tán, nói cười và họ muốn ông ở
lại chơi cho đến nửa đêm. Nhưng đầu óc ông nóng ran, khó chịu khi
giọng nói của ông Kính cứ vang vang trong đầu ông. Cái miệng móm xọm
của hắn với đôi mắt nhìn thẳng và sáng quắc cứ nhìn chằm chằm như
xoáy vào tâm nảo của ông...
tình bạn giữa ông và ông Kính đã thật sự chấm dứt...
* * *
* *
...Ông Thới không thích nhìn mặt ông Kính, người bạn cùng xóm với
ông khi còn ở Việt Nam. Ông Kính thường hay đùa cợt, moi móc, đá giò
lái ông. Hắn là người duy nhất hay cười mỉa mai ông trong tất cả các
cuộc họp lớn nhỏ. Hắn hay châm chích ông khi ông còn là một sinh
viên Luật Khoa. Ông Kính hay chế ngạo ông là thằng hèn nhát, thằng
bợ đít, nịnh hót, tham sống sợ chết khi ông còn là một tên lính
kiểng. Ðiều làm cho ông oán hận và cắt đứt mọi liên lạc với ông
Kính. Sau 75, ai cũng đi học cải tạo mút mùa, có nhiều người bỏ thây
trong các trại tù hay rừng sâu, nước độc, còn ông thì khai đào ngủ,
trốn quân dịch nên được vào làm Chủ Tịch Phường. Lúc mọi người đi
vùng kinh tế mới, ăn bo bo trừ gạo thì ông hiến một số đất đai cho
cách mạng để làm gương. Thời nào ông cũng ăn nên làm ra. Ông hô hào
nông dân vào Hợp Tác Hoá Nông Nghiệp, học tập chính sách của Ðảng và
nhà nước và thi hành nghĩa vụ lao động. Ông không ra nông trường làm
cỏ, đào thuỷ lợi bao giờ. Nhưng ông luôn báo cáo và ghi thành tích
hoạt động của mình đầy đủ. Thế cho nên, ông cứ sống phây phây giữa
sự đổ nát của chiến tranh, và ông cũng sống sung sướng và hưởng bổng
lộc của chế độ cộng sản. Các con ông lớn lên, chúng nhờ hồng phúc và
công lao cũng như tài ngoại giao của ông mà lần lượt các cháu được
nhà nước chiếu cố cho đi du học ở nước ngoài. Các cháu đi học vài
năm rồi lấy chồng Việt Kiều và ở lại bên Mỹ không trở về. Ðứa con
gái thứ hai vì thương vợ chồng ông già nua, cô đơn nên đã làm đơn
bảo lãnh vợ chồng ông sang Mỹ theo diện đoàn tụ. Vậy là ông gặp may
hơn hàng triệu người khác. Ông không cần phải trốn chui, trốn nhủi
trên những con tàu mong manh vượt đại dương mà cũng đi Mỹ như ai.
Gia đình ông không ai bỏ mình trên biển, không ai bị tù tội, không
ai bị mất một sợi tóc, cho nên ông thấy cuộc đời của ông chỉ toàn
may mắn. Có lẽ nhờ ông bà, cha mẹ ông ăn ở hiền lành và bản thân ông
tu nhân tích đức nên ngày nay ông mới được hưởng ân huệ lớn của Trời
ban cho.
Ra hải ngoại, ông thấy phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ rất
cao. Hội đoàn mọc lên như nấm. Hết hội đoàn nầy đến hội đoàn kia tổ
chức quyên tiền đấu tranh cho dân chủ tại quê nhà. Họ hăng hái đi
biểu tình, viết thỉnh nguyện thư lên các dân biểu, nghị sĩ, tổng
thống Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc để tố cáo chế độ cộng sản đàn áp những
nhà đối kháng trong nước, bốc lột nhân dân lao động, tham nhũng, hối
bại, độc tài...
Trên các đài truyền hình, truyền thanh và báo chí người người kể
chuyện, viết bài phanh phui những chuyện làm ăn mờ ám, xấu xa, tàn
ác của cộng sản. Ông cảm thấy mình đã già không có gì để làm, cứ ru
rú trong nhà quanh năm suốt tháng với bà vợ già thì uổng phí nên ông
cũng muốn phô diễn tài năng của mình, để khi chết đi còn để lại
tiếng thơm cho hậu thế. Ở xứ cờ hoa, lạnh lẽo, cô đơn nên ông cần
có bạn bè. Ông phải làm một cái gì đó có tiếng tăm để mọi người nể
mặt. Ông đã làm đơn gia nhập vào Hội Anh Hùng. Hội nầy gồm những
người yêu quý tự do, dân chủ và nguyện cống hiến đời mình cho tổ
quốc. Ông tham gia được vài năm thì Hội của ông nổi bật hẳn lên. Mỗi
lần Hội ông tổ chức tiệc gây quỹ được nhiều người ủng hộ. Một bản
nghị quyết của Hội ông ban ra là cả hải ngoại phải lắng nghe. Ông
dần dần trở thành Chủ Tịch của Hội Anh Hùng. Mỗi lần đi tham dự lễ
của các Hội Ðoàn khác, ông đều được ngồi ghế danh dự và được nhắc
tên như một vị khách danh dự. Ông thật sự mãn nguyện khi cuối đời
ông còn làm được nhiều điều hữu ích cho dân tộc cho đất nước.
Nhưng ở đời, một ngàn lần thành công, cũng có một lần thất bại. Nhất
là khi cuộc sống của mình không bình thường, những việc làm của mình
làm dù có khôn khéo che đậy tinh vi thì sớm hay muộn cũng có người
biết và lật tẩy.
Trong một bửa tiệc liên hoan Tết Niên của Hội Ðoàn Kết, ông được
xướng danh là khách danh dự được mời lên phát biểu ý kiến. Ðột
nhiên, ở cuối nhà hàng Tự Do có một người đàn ông nước da ngăm ngăm
đen, tóc bạc phơ, người ốm tong teo như cây tre miễu tiến về phía
trước sân khấu. Ông ta chụp cái micro khỏi tay người MC và cất tiếng
nói rất rõ ràng:
- Kính thưa quý đồng hương, tôi tên là Nguyễn Văn Kính, tôi
xin lỗi vì đã đường đột lên đây trình bày ý kiến của mình mà không
xin phép ban tổ chức. Tôi tự giới thiệu, tôi là Kính- Ốm, Ðại Úy
Biệt Kích của sư đoàn 322. Tôi học tập cải tạo 12 năm và vượt ngục,
vượt biên sang Hoa Kỳ. Tôi xin phép quý vị tôi có vài lời thưa cùng
ông Chủ Tịch Hồ Ngọc Thới. Chắc ông Thới quên tôi nhưng tôi vẫn nhớ
ông vì chúng mình là bạn nối khố với nhau từ nhỏ. Mấy năm nay, tôi
biết tin ông sang đây tôi rất mừng mà chưa có dịp trao đổi, gặp mặt.
Hôm nay, nhân dịp nầy tôi chúc mừng ông đã giác ngộ và quay về với
chính nghĩa quốc gia. Xin chúc mừng ông và kính chúc ông được bình
an, thành công như từ xưa đến nay.
Ông Kính nói xong lời cảm ơn và cúi chào mọi người rồi đi xuống chỗ
ngồi. Cả nhà hàng rộng lớn hơn 600 quan khách chưng hửng không hiểu
vì sao người đàn ông lại nói những câu chúc mừng kỳ lạ. Rõ ràng ông
Thới là người yêu nước, thương dân. Ông bỏ thời gian, công sức ra
giúp đỡ hết Hội Ðoàn nầy đến Hội Ðoàn khác. Ông là người quốc gia
thì làm sao có chuyện “quay về với chính nghĩa quốc gia”. Thằng cha
Kính- Ốm nầy bị cộng sản nhốt nhiều năm nên hoá khùng. Chỉ có ông
Thới là hiểu và thấm thía được câu nói nầy. Hừ! Mình hay tin nó vược
ngục và mất tích ai ngờ nó lại sang Mỹ sinh sống. Chỉ có một mình nó
là biết rõ về mình. Chỉ một mình nó biết mình là ai. Mình muốn gì?
Mình sống ra sao? Chỉ có nó mới biết được cội rễ của linh hồn mình.
Cái thằng Kính thâm trầm, ít nói nhưng nó có một bộ óc thông minh
và nhậy bén. Nó có thể đọc được ý nghĩ của mình và đoán được mình
muốn gì. Dù biết mình là một người sống như một con cắc kè bông hay
đổi màu. Trắng mình có thể biến thành đen, đen thành đỏ, thành xanh,
thành tím...Màu gì cũng được miễn là mình đạt được mục tiêu. Nó biết
rất rõ về mình như bàn tay của nó. Nhưng tuyệt nhiên nó không hề hé
môi. Nó thường hay cười và nói rằng mình là “NGƯỜI KHÔNG CÓ BÓNG,
HAY NGƯỜI MẤT BÓNG”. Nó bảo mình khi nào mặt trời đứng bóng, mình
hãy ra đường nhìn lên mặt trời và nhìn xuống chân mình để tìm lại
bóng của mình. Nhưng có bao giờ mình làm đâu. Cái thằng điên đó nó
không hiểu được khoa học và ánh mặt trời rọi như thế nào mà bày đặt.
Thế nhưng có một hôm, Kính gọi điện thoại đến nhà ông và mời ông đi
nhậu. Lúc ngà ngà say, Kính nói:
- Anh Thới à! Tôi phục tài anh thật. Anh làm gì cũng thành công còn
tôi làm gì cũng thất bại. Tại sao vậy?
Ông xoay xoay ly rượu trong tay đáp:
- Tại tôi biết tùy thời. Tôi biết lựa chọn cách sống sao cho phù hợp
với hoàn cảnh. Do đó, tôi luôn luôn gặp may mắn.
- Ừ! Anh thật là thông minh xuất chúng. Giá như tôi học được một
phần ba cái tài của anh thì đời tôi không đến nỗi gian truân, đau
khổ.
- Tại anh thôi. Ai biểu anh thích nhảy vào lửa. Thấy lửa thì phải
tránh đừng có nhào vô làm anh hùng. Muốn làm anh hùng phải lựa thời
thế. Nếu không chỉ làm con thiêu thân cho thằng khác hưởng.
Ông Kính nhướng đôi mắt lèm nhèm nhìn ông Thới và hỏi:
- Làm anh hùng mà cũng lựa thời thế sao anh?
- Dĩ nhiên, thằng nào ngu mới làm anh hùng rơm. Anh thấy những
thằng bạn của mình làm anh hùng nên ra nghĩa địa nằm hết ráo rồi.
Những thằng như tớ thì sống phây phây thời chiến cũng như thời bình.
Con cháu cũng được hưởng nhiều bỗng lộc. Ấy, nói như vậy là anh
hiểu rồi.
Ông Kính ngớ người hỏi lại:
- Vậy hoá ra tôi cũng là một trong những thằng ngu. Tôi cũng vác
súng ra chiến trường quăng cả tuổi thanh xuân vào lửa đạn. Rồi tù
tội, đói rách và ra hải ngoại thân tàn ma dại đi làm thuê làm mướn,
sống cuộc đời đơn độc không vợ, không con. Tôi cũng thấm thía lời
anh nói lắm. Nhưng tôi sống như anh không được.
- Tại sao không được. Chỉ có những thằng ngu mới không biết
lựa chọn cách sống an nhàn. Ai chết mặc ai. Mắc mớ gì đến mình mà
mình dính vô. Khối thằng ăn trên ngồi trước, giàu sang quyền thế, họ
có nghĩ gì đến đất nước đâu. Tại sao mình phải nhào vô gánh vác cho
những thằng đó. Tội gì mang xương máu của mình để bảo vệ quyền thế
cho một nhóm người chẳng ra gì.
- Nói như anh thì tổ quốc nầy không còn có anh hùng.
- Hừ! Anh hùng là ra nghĩa địa nằm từ lâu rồi anh ơi! Cho tôi
xin đi.
Gấp một cục thịt bò bỏ vào miếng nhai, ông Kính như muốn dằn cơn
giận xuống để không nói nặng lời với bạn. Nhưng khi ông uống hết một
ly rượu vang thì mặt ông nóng bừng lên, đầu óc ông bỗng tỉnh táo lạ
thường. Ông rất ít nói nhưng nhờ ly rượu lời lẽ của ông trở nên trau
chuốt, bóng bẫy và mạnh mẽ hơn. Ông chậm rãi nói:
- Trong đám bạn bè anh là người thành công may mắn nhất. Anh sống
được dưới hai chế độ và chế độ nào anh cũng hưởng được ân huệ của
họ. Vậy tôi hỏi anh là anh ra hải ngoại này, anh có thực sự tranh
đấu cho Việt Nam được tự do, dân chủ không?
Ông Thới xua tay cười:
- Vậy tôi cũng hỏi anh, có thực sự những người ở hải ngoại là
thực sự yêu nước, thương đồng bào trong nước đang sống kiềm kẹp dưới
chế độ cộng sản như họ nói không? Nói thật với anh, cuộc sống nầy
vàng thau lẫn lộn. Những người yêu nước họ rất thầm lặng, họ hành
động hơn là la làng lên. Nhưng những thành phần cơ hội, háo danh,
hám tiền cũng không phải là không có. Ai sao mình vậy. Gió chiều
nào, xoay theo chiều đó. Tôi là một cây kim đồng hồ tự động. Tuổi
tôi đã già, làm gì được cho ai. Tôi chỉ thích theo phong trào cho
vui vậy thôi.
Ông Kính cười gằn, đôi môi ông giật giật:
- Anh nói sao cũng xong. Nhưng ít ra anh cũng phải bênh vực cho bạn
bè. Thằng Tuyên cùng là bạn thân với anh và tôi. Bỗng nhiên nó bị
những thành phần bất hảo chụp cho cái nón cối. Anh là Chủ Tịch một
Hội Ðoàn lớn anh cũng không dám bênh vực cho nó một lời. Anh cũng
không dám viết một dòng nào trên cái website của anh để minh oan cho
nó. Anh sợ cái gì?
- Sợ chứ! Ở đây mà bênh những người như thằng Tuyên thì bỏ mẹ. Nó
đòi lập ra một cái hội đi tìm hài cốt của bạn bè chết trong tù. Ở
đây ai cũng phản đối hết. Người ta nói nó làm lợi cho cộng sản. Họ
lên báo, lên website tố cáo nó liên hệ tới cộng sản. Tôi mà nhào vô
là danh tiếng của tôi tiêu tùng.
Ông Kính gân cổ cãi lại:
- Thằng Tuyên thương các bạn tù và nó thấu hiểu nỗi đau của những
người bị mất thân nhân mà không tìm ra xác. Vì vậy nó mới lên tiếng
xin chính quyền Việt Nam cho nó thành lập một đoàn người về Việt Nam
tìm hài cốt. Ðó là việc làm hữu ích sao lại chụp mũ nó cộng sản? Vậy
khối thằng đi về Việt Nam du hí, ăn chơi, khoe giàu, vợ lớn, vợ nhỏ
hoặc các Hội Từ Thiện về Việt Nam không tiếp xúc với chính quyền
cộng sản sao? Tại sao họ không lên án những người đó làm lợi cho
cộng sản?
- Anh đừng có lý luận với tôi. Cái gì mấy ông ở đây cấm là phải
nghe. Không nghe là bị cô lập biết chưa?
- Vậy cộng sản với chúng ta khác nhau ở chỗ nào?
Ông Thới bỗng đỗ quạo:
- Anh hay hỏi lôi thôi quá! Ðó là chuyện muôn đời cãi cọ của người
Việt Nam. Biết vậy là xong. Ðừng hỏi tại sao.
Ông Kính nghiêm nét mặt, nói rõ từng từ một:
- Anh Thới à! Có lẽ tôi là người hiểu anh hơn ai hết. Anh là một
thằng thực dụng. Anh sống không có bản lĩnh, không tình nghĩa, không
biết phải quấy đúng sai. Con người như anh thật đáng nhục và đáng
khinh. Nhưng tôi không hiểu sao anh lại tự hào về lối sống đó.
- Ý anh muốn nói gì? Anh đừng có nặng lời với tôi. Chắc anh
uống rượu nhiều rồi anh say nên nói bậy.
- Gần 50 mươi năm biết nhau. Hôm nay tôi phải nói rõ cho anh
biết. Anh có giận tôi thì tôi chịu nhưng anh cũng nên suy nghĩ lại.
- Tôi không cần anh phải dạy đời tôi. Anh nhìn xem giữa tôi và anh
ai ngon hơn ai. Tôi có tiếng tăm, danh dự còn anh ai biết đến.
- Sống như anh dễ lắm nhưng loại người sống quanh quẹo thì có
khác gì con trùng, con dế, con tắc kè bông.
Mặt ông Thới tái ngắt và sau đó chuyển sang màu đỏ. Ông muốn cung
tay đấm vào cái miệng móm sọm không còn một cái răng của ông Kính.
Nhưng ông đã kịp dằn cơn giận xuống. Ông lớn tiếng mắng bạn:
- Mầy là thằng chó đẻ. Từ nay, mầy đừng có nhìn tao là bạn của mầy.
Mầy đừng lợi dụng rượu rồi mắng chửi tao. Thân tàn ma dại mà không
biết xấu hổ.
Lạ chưa, ông Kính cười ngất và đứng dậy đi ra khỏi quán. Từ đó, hai
người như chó đen, chó trắng. Hội Ðoàn nào có mặt ông Kính thì ông
Thới không tới và ngược lại...
* * * * *
....
- Uống một ly đi rồi về anh Thới - Tiếng một người bạn ngồi kế
bên kéo ông về thực tại. Ông chụp cái mủ trên đầu, mặc áo vào và
chậm rãi đáp:
- Cảm ơn, cảm ơn tất cả bạn hữu. Hẹn khi khác nha!
- Anh sợ thằng Kính hả anh Thới. Bạn bè không mà. Giận gì mà lâu
vậy. Bỏ qua đi.
Ông muốn nói thằng đó là kẻ thù không đội trời chung. Ông không bao
giờ thù ghét ai hơn nó. Cộng sản ông còn có cảm tình chớ còn thằng
đó thì không thể tha thứ cho nó. Chưa ai dám xúc phạm đến ông bao
giờ, còn thằng nầy thì ngang ngược dám chơi cả ông. Ông nghiêm nét
mặt:
- Tôi không có giận ai hết. Tôi không muốn quan hệ với những
thằng ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản.
Nói xong ông bước ra cửa trước cái nhìn ái ngại của mọi người. Ông
chợt nghe tiếng ông Kính cười lớn “người mất bóng”. Giọng cười của
hắn sao đáng ghét đến vậy.
Ông Kính ra xe, ông mở công tắc và đạp ga thật mạnh. Chiếc xe chồm
về phía trước và chạy bon bon trên đường. Buổi trưa nắng gay gắt.
Trong xe dù đã mở máy lạnh hết ga nhưng cái nóng khô và hanh của
California làm cho ông rất khó chịu. Bây giờ Sài Gòn đang ăn Tết.
Ông bỗng nhớ con đường Nguyễn Huệ mà ông thường đến ngắm hoa khi Tết
đến. Giờ ở xứ người, hàng năm Tết đến các Hội Ðoàn người Việt vẫn tổ
chức mừng xuân. Nhưng không khí không náo nhiệt như ở Việt Nam.
Nhiều lần ông muốn về Việt Nam chơi nhưng ông lại ái ngại, không dám
đi vì sợ mất chức Chủ Tịch mà bao nhiêu năm ông dầy công xây dựng.
Dù chức vụ ở đây là cái danh hảo nhưng ông biết nhiều người cũng
tranh nhau để có tiếng thơm.
Ông cho xe rẽ vào khu chợ Phước- Lộc- Thọ tìm vài người bạn già để
trút bầu tâm sự. Ðến ngã ba đèn xanh, đèn đỏ xe ông dừng lại. Khi
ông đạp ga thì chiếc xe nằm ì một chỗ. Cuối cùng, một số người qua
đường đã giúp ông đẩy được chiếc xe vào bên lề đường gần đó. Ông
Kính cố gắng đi bộ một đoạn đường ngắn để gọi điện thoại cho các con
đến giúp. Cô con gái nói rằng ông yên tâm sẽ có xe đến kéo xe ông đi
sửa.
Nắng như đốt cháy cả da thịt. Ông nhìn khu phố người Việt giờ nầy
vắng vẻ hơn thường lệ. Có lẽ ngày ba mươi Tết họ về nhà lo chưng dọn
nhà cửa và nấu mâm cơm đón giao thừa. Ông không thấy những ông già
trạc tuổi ông ngồi bên ngoài hàng hiên của các quán uống cà phê, tán
gẩu, đọc báo, bàn chuyện thời sự trên trời dưới đất. Trời nắng gắt
đến độ ông thấy ba cái tượng của ba ông Phước - Lộc - Thọ đứng trước
cổng ra vào cũng bốc khói mờ mờ. Ông tháo kính ra và dụi mắt. Cái
kính ông rơi xuống đất và ông không còn nhìn thấy mọi vật rõ ràng.
Ông cố gắng cúi xuống lượm cái kính lên. Chợt ông giật mình nhìn
thấy một vùng đen động đậy dưới chân. Ông xoay qua nó cũng xoay
quanh, ông đứng nó cũng đứng tại chỗ thành một khối lù lù đen thui.
Ông đeo kính vào và nhận ra đó là cái bóng thu gọn của mình. Cái
bóng nằm dưới chân ông nhỏ bé thu lu như hai bàn chân khi ông đứng
thẳng. Ông chưa bao giờ đứng như trời trồng giữa trời nắng chang
chang để nhìn cái bóng của mình. Hôm nay, ông ngẩu nhiên để ý đến
nó. Nó loay hoai, chộn rộn, hư ảo, bay lượn vật vờ dưới chân ông. Nó
tan biến và thay hình đổi dạng tuỳ theo tư thế của ông đi, đứng, và
tuỳ theo ánh nắng mặt trời. Ông cười một mình và chửi thầm “Hừ! Vậy
mà cái thằng ngu si đó lại cho rằng mình là người không có bóng. Chỉ
có ma mới không có bóng. Chắc nó nghĩ mình là ma. A! Còn hơn cả ma
vì mình biết biến hoá cuộc sống của mình. Ha...ha...a..” Ông cười
thầm trong bụng và cảm thấy khoái trá khi vừa khám phá ra một điều
kỳ lạ trong cuộc sống đầy thú vị. Cuộc đời như một ván cờ. Ai giỏi
thì người đó thắng.
Lần đầu tiên trong nhiều năm trời, ông mới hiểu được câu nói người
không có bóng. Ông tiếp tục đi thì nghe tiếng chân bước gấp và ai đó
thì thầm sau lưng. Ông có cảm giác đau nhói ở lưng và ông té lăn
trên đường bất tỉnh.
* * * * *
Ông Thới tỉnh dậy trong bệnh viện. Đầu ông băng kín, hai cánh tay
dây nhợ chằng chịt. Vợ con ông ngồi đông đủ. Bà Thới vuốt tóc ông
nói nhỏ:
- Anh không sao đâu. Rồi sẽ khỏi. May là nó chỉ đánh anh một phát
sau lưng. Anh té đập đầu xuống đất nên bất tỉnh.
Ông thiều thào hỏi:
- Ai đánh tôi vậy bà?
Bà nhỏ nhẹ nói:
- Cảnh sát đang tìm hung thủ. Mấy đứa đầu trộm đuôi cướp đó mà. Nó
thấy ông đứng sớ rớ một mình nên làm bậy. Ông mất hết tiền và thẻ
nhà băng nhưng bằng lái và những thứ khác còn. Mấy đứa nhỏ đã thông
báo nhà băng rồi. Ông an tâm.
Mấy đứa con ông cũng thi nhau an ủi:
- Ba khỏe lại là tụi con mừng rồi.
- Ba ráng tịnh dưỡng nghen. Ngày mai ba có thể về nhà.
- Về nhà ăn Tết cho vui với tụi con.
Mỗi đứa nói một câu làm ông cảm động. Ông mỉm cười nói:
- Ba cảm ơn các con lo cho ba. Cảm ơn mình.
Cánh cửa phòng mở rộng. Cô y tá bước vào trên tay là một khay đồ ăn
và thuốc. Sau lưng cô là mấy ông bạn già. Người đem theo cam, nho,
sữa, táo, bánh tét, bánh ích, hoa, mứt... đặt trên bàn ông. Ông cố
gắng nhận diện từng người một, không thiếu một ai: Nhẫn, Hoan, Bình,
Bân, Lục, Trân, Đạo, Sáng, Linh, Quắc, Lý, Nho, Thượng...
và người đứng ôm bó hoa có cái bong bóng đủ màu với hàng chữ “Get
Well Soon” là thằng Kính- Ốm. Ông bỗng cảm động khi thấy mình vô lý
thù ghét Kính. Lẽ ra, ông không nên cãi nhau với Kính. Nó là thằng
bạn nối khố bất hạnh và đáng quý. Nó là một người xứng đáng được
khen ngợi và kính trọng. Nó đã làm tròn trách nhiệm người trai trong
thời loạn và trung tín, chung thủy với lý tưởng của chế độ mà nó đã
bỏ xương máu ra phục vụ. Còn mình, một thằng hèn, bất tài, thích an
phận và hưởng lợi. Mình chỉ thích im lặng hưởng hoà bình. Mình làm
sao xứng đáng để nhận lãnh những vinh dự mà người khác ban tặng. Cái
danh hảo nhiều người dành cho mình chẳng qua cũng chỉ là cái bong
bóng mà Kính- Ốm đang cầm trong tay. Nó bay lên thật đẹp với nhiều
màu sắc rực rỡ nhưng rồi nó cũng sẽ xì hơi và méo mó. Thật ra những
gì nó nói đều đúng. Nó biết nhận dạng về nhân cách sống của từng
người. Nó ngạo báng thói xấu của những kẻ hay luồng lọt, chạy chọt,
bợ đỡ, mượn đầu heo nấu cháo để có hư danh. Nó ghét những người như
mình không có phong cách riêng mà phong cách của mình tùy thuộc hoàn
cảnh và sự ưa thích của số đông có sức mạnh. Sài Gòn ngày xưa mình
vang bóng. Little Saigon ở xứ người mình cũng vang bóng. Cái bóng cũ
vinh hoa, phú qúy, cao sang, quyền chức cứ đi theo mình mãi mãi,
vĩnh viễn và mình cần phải nuôi dưỡng nó, duy trì nó để hưởng lợi.
Khối kẻ sống như mình, có hề chi và vì sao phải xấu hổ? Nhưng không
ai dám nói cho mình biết sự thật của ánh hào quang đó. Chỉ có thằng
Kính-Ốm, nó đã dạy cho mình một bài học về nhân cách sống cho ra con
người tử tế. Chỉ làm người tử tế đã khó khăn lắm rồi nói chi đến
người danh tiếng lẫy lừng.
Bàn tay bạn bè nắm chặt tay ông. Mỗi người nói một câu chúc mừng ông
hết bệnh. Từng mạch máu trong người ông nóng ran. Ông có cảm giác
tỉnh táo lạ thường. Có tiếng nói của Kính-Ốm vang lên bên tai ông,
giọng nói run run, nghèn nghẹn ở cổ họng:
- Anh Thới à! Anh đừng giận tôi nghen. Nếu hôm qua anh ở lại chơi
với anh em thì anh đâu có gặp nạn. Nếu tôi có gì làm cho anh buồn
thì cũng bỏ qua cho.
Ông Thới nhìn khuôn mặt lo lắng của bạn và cố gắng mỉm cười trấn an:
- Cảm ơn Kính. Tôi không chết là may mắn lắm rồi. Sau tai nạn nầy
tôi mới có dịp nằm suy nghĩ nhiều hơn. Tôi cũng có lỗi với anh nhiều
lắm. Từ nay, tôi với anh sẽ thân nhau hơn xưa. Những gì anh nói rất
chí tình. Tôi đã học một bài học từ anh.
Ông Kính nhếch miệng cười. Nhìn mặt bạn, ông Thới cảm thấy vui và
bình an. Lần đầu tiên, ông có cảm giác tìm lại được cảm giác thân
ái, thương quý bạn mình. Căn phòng của ông rộn rã tiếng cười nói của
bạn bè. Những người bạn già một thời lao đao vì chiến tranh và rồi
lang thang trôi dạt cuối trời Tây. Mái tóc ai cũng ngã màu tuyết
trắng, những khuôn mặt nhăn nheo mệt mỏi với thời gian và những biến
cố của đất nước. Sao ông lại có thể sống xa cách với số phận của bạn
bè? Sao cả đời ông không bao giờ biết đến niềm đau của kẻ khác? Thật
ra ông là ai? Ông đã chiếm hết sự may mắn, sung sướng về mình và bây
giờ ông muốn gì thêm nữa? Ông Thới bỗng hối tiếc những gì đã xảy ra
trong quá khứ và ân hận vì đã ghét bỏ bạn hiền. Bạn bè ông đông và
họ đang nói với nhau những lời chúc tốt lành cho năm mới làm cho các
bệnh nhân người Mỹ phải ngạc nhiên. Khi họ biết hôm nay là ngày Tết
Nguyên Đán của Việt Nam, họ ồ lên vui mừng và chúc “Happy New Year.”
Mùa xuân đang reo vui ngoài kia và người Việt Nam trên khắp năm châu
đang rộn rã đón xuân sang. Lòng ông Thới bỗng hân hoan, ấm áp lạ
thường. Ông thiếp đi trong giấc ngủ bình thản, êm ái...
Tết Canh Dần 2010
|