Ai về quê cũ cho tôi nhắn
Mỗi
lần về Việt Nam thăm gia đình, chị tôi, các cháu và bạn bè thường rủ
tôi đi ăn bánh bèo bì Mỹ Liên. Và như một thói quen hay một nỗi nhớ
xa xôi với những kỷ niệm gần gủi thân thương, tôi chưa bao giờ từ
chối.
Người đầu tiên chế biến món bánh bèo bình dân thành món ăn độc đáo
là bà Nguyễn Thị Kiên, ở An Thạnh, Búng. Bánh bèo bì Mỹ Liên ở chợ
Búng đã truyền ba đời và nổi tiếng trên một trăm năm, trở thành món
ăn đặc sản của tỉnh Bình Dương. Khách phương xa đến thăm viếng vườn
trái cây Bình Nhâm, Cầu Ngang, Búng thường ghé quán bánh bèo bì Mỹ
Liên để thưởng thức món ăn mang hương vị đậm đà của tỉnh Bình Dương.
Nói đến Chợ Búng Lái Thiêu, chúng ta cần biết qua vùng đất nầy. Chợ
Búng-Lái Thiêu là một trong những ngôi chợ xây dựng lâu đời, sầm uất
nhất của tỉnh Bình Dương. Lái Thiêu gần Sài Gòn, Biên Hòa, lại là
giao điểm của giao thông đường thủy và đường bộ nên người Hoa và
người Việt đến đây lập nghiệp rất sớm. Ngành thương mại, quán bán
thực phẩm, quán ăn đã phát triển nhộn nhịp. Những ngày cận Tết, các
ghe cá từ U Minh, tỉnh Rạch Giá, và ghe thuyền miền Tây, An Giang,
Hậu Giang, đến bán cá, bán mắm, bán gạo, nếp và phân phối cho các
chợ xung quanh và chợ Bình Dương. Sau đó, các thương thuyền mua đồ
gốm, chén bát, lu hủ, bàn ghế chở về Miền Tây bán. Chợ Lái Thiêu còn
có trung tâm buôn bán trái cây, có nhiều quán ăn nổi tiếng được lưu
truyền lâu đời và được nhiều người ưa chuộng. Những năm gần đây, khi
Việt Nam mở cửa làm ăn buôn bán với nước ngoài, quán tiệm cũng phát
triển theo cấp số nhân và nhiều người dân Bình Dương, Búng-Lái Thiêu
cũng biết chế biến nhiều món ăn khác để phục vụ cho khách du lịch
sành điệu ăn chơi, nhậu nhẹt.
Khi tôi còn ở Việt Nam, mỗi mùa trái cây ở cầu Ngang, Búng, Lái
Thiêu, tôi và bạn bè rủ nhau đi chơi vườn, ăn trái cây hái từ trên
cây xuống. Mùa trái cây bắt đầu từ Mùng 5 tháng 5 Âm Lịch. Thời gian
đó cũng là mùa học sinh nghĩ hè. Cầu Ngang bắt đầu đông khách và nhà
vườn cũng kiếm được bộn tiền từ việc bán thức ăn, nước giải khát,
trái cây. Lũ học trò như chúng tôi cũng mê đi chơi trong vườn trái
cây ở Cầu Ngang, vừa ăn trái cây đủ loại, vừa dạo chơi thơ thẩn và
nghe tiếng ve kêu rộn rã trong vòm lá trên đầu. Thú vị nhất là buổi
trưa la cà tạt vào quán Mỹ Liên làm một dĩa bánh bèo bì, nhâm nhi
mấy cái nem chay chua và nem thịt nướng. Khi bạn đã đến đây và ăn
một diã bánh bèo bì, bạn sẽ có cảm giác thèm và nhớ hương vị béo
ngậy đọng lại trên đầu lưỡi của dĩa bánh bèo. Có người nói rằng bánh
bèo chỗ nào cũng như nhau, có gì mà phải so sánh, chạy lung tung tới
Búng để mua ăn. Như nhiều người bàn tán, bánh bèo Mỹ Liên có nét đặc
biệt làm khách phương xa ăn xong nhớ mãi. Cái bánh làm bằng bột gạo
trắng tinh, tròn trỉnh, dai dai, có hành lá xào với mở, đậu xanh
vàng ngậy, những cọng bì trộn thính thơm thơm, đậu phụng giã nhỏ, có
các loại rau thơm cắt nhuyễn phủ lên trên và chén nước mắm ngọt
ngọt, chua chua nổi lên trên mặt những miếng ớt, tỏi bầm nhỏ, những
cọng cà rốt và cũ cải trắng cắt thật khéo. Mỗi lần ăn bánh bèo Mỹ
Liên, tôi chan nước mắm nhiều đến muốn ngập lụt cái diã bánh bèo. Và
mỗi khi tôi nhìn người chủ quán sắp bánh bèo ra diã là nước miếng
tôi muốn ứa ra.
Lúc còn học tiểu học, tôi mơ mình mau lớn một chút để tự đạp xe đạp
đến Búng ăn bánh bèo cho đả cái bụng. Mùa hè cuối năm lớp Năm, tôi
đã thực hiện ước mơ đó. Tôi không còn ăn quà vặt và mua đồ chơi ở
cái chợ Lồng ở Thủ Dầu Một. Dù tôi mê đọc sách hơn cả ăn quà sáng,
nhưng trong một tuần lễ, tôi cũng không đi mua sách của bà Mười Ú
bên bên vệ đường gần tiệm vàng Nhựt Hưng mà để dành tiền trong con
heo đất để chu du một chuyến Cầu Ngang. Tôi rủ rê một đám “âm binh”
gồm mấy đứa bạn học chung lớp, phá phách, trèo cây giỏi số một để có
cơ hội ăn trái cây nhiều nhất và có những cuộc chơi ngoài trời ngoạn
mục. Mùa hè, là mùa của lủ học trò tha hồ rong chơi, nghịch ngợm.
Chúng tôi thảnh thơi bơi lội, thả diều, chơi u mọi, bắt dế, đá banh,
bán quán…Chúng tôi lặn lội đạp xe kót két, cọc cạch, đèo nhau gần
một tiếng đồng hồ, mồ hôi chảy ròng ròng. Cả đám âm binh, ồn ào như
cái chợ trời, tha hồ ngồi xổm trên mấy cái ghế đòn thấp sát đất được
kê dọc trong cái quán Mỹ Liên nhai ngấu nghiến miếng bánh bèo thơm
phức. Vì quán quá đông khách không có chỗ ngồi, nên nhiều đứa phải
phải bưng diã bánh ra ngồi chồm hổm ngoài hiên. Có đứa húp nước mắm
rồn rột và có đứa liếm hết sạch cái diã không còn chừa một tí gì
nhưng vẫn còn liếm mép. Ăn xong một diã bánh, ních thêm mấy cái nem
chua và uống một ly nước dừa là no cành hông. Chúng tôi thoả mãn kéo
nhau đạp xe vòng vòng trong vườn trái cây và xế chiều trở về thị xã.
Cả đám con nít háo ăn, nghịch ngợm nghĩ đó là những ngày thú vị nhất
của tuổi hoa niên. Chúng tôi tha hồ tán hưu, tán vượn về chuyện đi
ăn bánh bèo và còn được tặng trái cây không lấy tiền làm mấy đứa
khác nghe xong phát thèm, ganh tị và ao ước được một lần lén cha,
lén mẹ đi chu du như chuyện “Dế Mèn Phiêu Lưu Ký” của nhà văn Tô
Hoài. Thật ra, lủ âm binh vừa mua trái cây, vừa canh chừng chủ cho
mấy tên ma lanh leo trèo, chôm chỉa thêm cho đỡ tốn tiền. Thế nhưng,
các bác, các cô chú miệt vườn hiền lành không ra lối, không chửi bới
như những người kẻ chợ. Họ thấy đám lâu la mặt mày sáng sủa nhưng
túi không tiền nên cũng muốn vừa bán vừa cho. Đó là thời kỳ cuối
thập niên 60 đầu 70, khi chiến tranh còn ác liệt, con người còn mơ
ước tìm sự bình an và xem mạng sống của con người cao qúy hơn tiền
bạc, của cải, vật chất. Họ nghĩ bom đạn có thể sẽ tàn phá tất cả
trong một tích tắc thì những chùm chôm chôm, măng cụt, dâu da…còn có
nghĩa gì đâu. Cái nhân hậu, hiền hoà, chân chất đó cũng giống như
những giọt mưa hạ rơi trong những mảnh vườn cây sum xuê quả ngọt quê
tôi. Cái tình người mang mang trong dạ như chất chứa tất cả sự quê
mùa, mộc mạc, đơn giản, rộng lượng của trái tim người Bình Dương
sống bao đời trong nương rẫy, ruộng vườn.
Thế nhưng ngày nay, cái nhân hậu, ấm áp tình người nơi đó có còn
không tôi không biết được. Một lần về Việt Nam, xe chạy qua Cầu
Ngang, nhà thơ họ Lê, bạn thân của tôi nói với tôi rằng “trái cây
bây giờ không còn như ngày xưa đâu bạn. Những người chủ vườn thấy có
khách phương xa đến, họ phải chạy ra chợ mua trái cây về bán lại với
giá cắt cổ”. Xã hội nào, con người đó. Đã xa lắm rồi thời gian tuổi
vàng, tuổi ngọc, tuổi hoa niên êm đềm, ấp áp tình người.
Khi tôi vào Trung Học, tôi đã về Sài Gòn sống trong khu nội trú
trường QGNT. Tôi giả từ bạn bè với những ngày rong chơi thơ thẩn,
đầy thú vị. Tôi không còn có dịp trở lại quán bà Kiên ăn bánh bèo bì
vì đường sá bị đắp mô, gài mìn rất nguy hiểm. Sau năm 1975, một vài
lần tôi ghé ngang ăn bánh bèo Mỹ Liên, nhưng không cảm thấy mê ăn
như thời còn bé. Có thể vắng bạn hiền món ăn không còn thú vị háo
hức như xưa chăng? Mỗi lần đến đây, tôi lại có cảm giác buồn khi nhớ
từng khuôn mặt của từng đứa bạn tóc mây chưa chấm ngang vai đã bị
cuốn đi trong cuộc chiến khốc liệt. Có đứa đã chết trong bom đạn,
đứa lưu lạc, đứa thì cuộc đời nổi trôi như dề lục bình trên con sông
Lái Thiêu, có đứa bị đạn pháo kích của cộng sản tàn tật suốt đời.
Tôi rất ít ghé quán Mỹ Liên để ngồi hồi tưởng lại kỷ niệm học trò.
Rồi tôi đi xa thật xa, cuối chân mây của bên kia bờ Thái Bình Dương.
Sau 12 năm rời xa quê hương, trong dịp Tết Nguyên Đán năm 2001, tôi
trở về thăm nhà. Người rủ rê tôi đi ăn bánh bèo Mỹ Liên là B.S Bạch
Yến, một người chị, người bạn lâu đời của tôi. Con người nầy thu hút
tôi kỳ lạ bởi sự dịu dàng, thân ái, nhân hậu, tốt bụng và ngay
thẳng. Bạn thân chị đủ mọi lứa tuổi và thành phần lý lịch cũng khác
nhau. Chị có một người bạn chí thân là phi công của QLVNCH, anh tên
là Q. người Bình Long. Anh cao lớn, khí phách và rất ghét cộng sản.
Khi nói chuyện với chị anh hay hỏi “Tại sao bà lại đi theo cộng sản?
Cộng sản có gì tốt và hấp dẫn đâu mà bà chạy theo? Bây giờ bà nhìn
cái xã hội nầy coi nó giống cái gì?” Chị chỉ cười trừ mà không gân
cổ lên cãi văng nước miếng để bảo vệ chế độ như những người khác.
Chị còn hay hỏi anh bao giờ anh muốn vượt biên? Chị mong anh thoát
khỏi chế độ cộng sản để tìm một tương lai cho đời anh. Tôi nghe hai
người nói chuyện với nhau thì chỉ biết ngồi im lặng và cười. Chị hay
giúp đỡ mọi người và đối với tôi, chị thương mến, trân trọng và ân
cần. Tôi trở thành bạn của vợ chồng chị và là cô giáo của hai cháu
Tigon và Phượng Ly. Trong ngày Tết Nguyên Đán, năm 2001, tôi về thăm
gia đình và ghé thăm vợ chồng chị thì bàn thờ đã có hình của B.S Võ
Tánh, chồng chị. Anh bị bịnh ung thư và ra đi. Anh là một người ít
nói, hiền hậu, tốt bụng mà tôi rất kính trọng. Năm 2008, tôi có trở
về Việt Nam lần thứ nhì và ghé thăm chị. Chị ra cửa tiển khách, thấy
tôi từ cổng bước vào, chị mừng rỡ hỏi “Em từ trên trời rớt xuống đó
hả? Về bao giờ mà không gọi chị?” Tôi đáp: “B.S Huỳnh Văn Nhị nói
cho em biết chị ở đây nên đi tìm. Anh nói hôm nay là ngày giỗ của
Bác gái.” Ngày giỗ mẹ chị, quan khách đến rất đông. B.S Nhị chờ tôi
quá lâu nên đã đi về lo chuyện nhà. Tôi tiếc không thể gặp lại anh
lần sau cùng trước khi tôi trở lại Hoa Kỳ. Tôi đến trễ nên chỉ còn
chị và gia đình, tôi gặp lại cháu Tigon, chồng cháu là một Việt kiều
Úc, Ly Phượng cũng đã định cư ở Canada với chồng. Chị hiện nay sống
với đứa con nuôi và chị đã có chồng khác. Anh là một nhà kinh doanh
địa ốc từ Bắc vào Nam làm ăn. Tôi nói với các cháu rằng: “Không ai
có thể thay thế hình bóng của ba Tánh trong trái tim cô”. Tôi có hơi
ích kỷ không khi nói điều đó. Nhưng trong tôi nỗi nhớ thương anh vẫn
còn đó. Biết làm sao?
Ngày Mùng 4 Tết, thay vì đi ăn nhà hàng, ăn bánh tét, bánh ít, dưa
hấu, bánh tráng, dưa chua với thịt kho Tàu, B.S Bạch Yến lại rủ tôi
đi ăn bánh bèo bì Mỹ Liên. Tôi vui vẻ nhận lời ngay. Cháu Trung, con
rễ chị lấy chiếc xe hơi chở chúng tôi đi. Chợ Búng giờ đây đã thay
đổi hẳn. Hai bên là những dãy phố buôn bán sầm uất. Phố xá mọc lên
san sát, có nhiều nhà cao tầng đã xoá dần những cảnh sắc thiên nhiên
mà tôi yêu thích. Bên ngoài quán, xe hơi đậu đầy, nhưng người phục
vụ trong quán đã hướng dẫn cho khách có chỗ đậu xe cẩn thận. Ngôi
quán nhỏ bây giờ là một căn nhà lầu 3 tầng, khang trang. Tầng trên
cùng dành cho khách quý, cán bộ. Nơi đây có ban công, và gió mát lùa
vào mát rượi. B.S Bạch Yến gọi người chủ quán là Cô Năm. Tôi không
biết cô Năm là con hay cháu bà Nguyễn Thị Kiên. Cô Năm mặc cái áo bà
ba trắng, tóc uốn cao, người đẩy đà. Cô Năm thấy B.S Bạch Yến thì
tay bắt mặt mừng. Họ quen nhau từ hồi nảo hồi nao nên câu chuyện
trao đổi đã nổ như bắp rang. Chúng tôi được ngồi cái bàn gần ban
công, bên cạnh là một cây hoa mai cao lớn được trồng trong một cái
chậu sành. Bây giờ là vào dịp Tết nên hoa mai nở vàng rực. Những
cánh mai mềm mại rung rinh trong gió. Cô Năm sai người bồi bàn dọn
ra cho chúng tôi bốn diã bánh bèo bì còn nóng hổi. Trên mỗi diã có
thêm 4 miếng nem thịt màu đỏ hồng. Tôi cắn nhẹ một miếng, vị giác
của tôi bị kích thích bởi hương vị chua chua, ngọt ngọt và mùi thơm
tỏi, ớt, lá dông khiến tôi thèm ăn hơn. Lâu lắm rồi tôi không ăn
bánh bèo bì Mỹ Liên và lúc nầy tôi cảm thấy đói cồn cào nên ăn một
lúc hết một diã. B.S Bạch Yến còn gọi thêm một diã nem nướng, chị
gắp vào diã tôi và nói rằng ăn đi để về Mỹ không có loại nem nầy để
ăn. Thật vậy, ở Mỹ có nhiều quán tiệm Việt Nam, nhưng chưa có nơi
nào bán bánh bèo nóng hổi, và những miếng nem chua và nem nướng ngon
như ở quán Mỹ Liên. Tôi ăn xong, còn mua thêm mấy chục cái nem chua
đem về cho gia đình. Tôi muốn mua bánh bèo bỏ lên xe đem về nhưng
B.S Bạch Yến và các cháu cười nói rằng đem về là hết ngon. Còn cô
Năm thì nói “hể ai thèm thì tự động mò tới quán của cô”.
Khi chúng tôi ra về, cô Năm còn tặng cho mỗi người một bịch bánh hột
điều. Tôi đem nem, đem bánh về khoe các cháu và chị tôi làm ai cũng
bò ra cười. Ai đời Tết mà đòi đi ăn bánh bèo và còn khoe như được
tặng vàng. Đó là món quà Tết Nguyên Đán mà tôi được B.S Bạch Yến lì
xì vào Mùng 4 Tết năm 2001.
Rồi năm 2008, tôi có dịp trở về Việt Nam lần thứ 2. Cùng đi với tôi
có anh Vinh, người bạn cùng học chung trường QGNT, anh Phát bạn của
anh Vinh đang sống ở Sài Gòn, cháu Thạch, nhà thơ họ Lê. Tôi lại bô
bô khoe khoang, quảng cáo với các bạn tôi về món bánh bèo bì Mỹ Liên
tuyệt cú mèo. Tôi nghĩ đó là đặc sản đặc biệt của miệt Bình Dương,
của người Bình Dương. Tôi không dám khoe trái cây Bình Dương nữa vì
ai cũng biết thời kỳ vàng son của nó đã khép lại. Và mùa nầy gần
Noel, nhà vườn làm gì có trái cây để khoe. Khi xe chúng tôi chạy
ngang qua chợ Búng, cháu Thạch dừng xe lại quán bánh bèo Mỹ Liên.
Tôi lại được dịp thưởng thức món bánh bèo với nem chua, nem nướng.
Món ăn dân giả nhưng gợi lại cho tôi biết bao kỷ niệm về vùng đất,
con người mà tôi đã từng đến và đi. Nhà thơ họ Lê chắc lưỡi khen
ngon, còn anh Vinh và anh Phát thì nói danh bất hư truyền. Khi ra
về, anh Vinh còn mua thêm mấy chục cái nem đem về tặng vợ.
Chiều xuống nhanh, gió mang hơi nóng làm rát da người. Con đường
tráng nhựa hình như bốc khói. Hơi nóng phả vào không gian sự oi bức
làm chúng tôi đổ mồ hôi. Trên những con rạch tôi đi qua, cây cối
hình như đã chết dần mòn. Vườn cây Búng, Bình Nhâm, Lái Thiêu một
thời vang bóng cây ngọt trái lành, vườn cây sai quả đã không còn như
xưa. Nhiều người nói rằng vườn cây đã bị đốn bỏ vì chết dần mòn. Cây
không ra hoa và không đậu trái. Người ta bán đất, bán vườn và những
doanh nhân đã lập thành xí nghiệp, kinh doanh, khách sạn buôn bán
nên vườn cây ngày càng thu hẹp. Con rạch chạy dọc theo quốc lộ ngày
xưa nước lênh láng, xanh ngắt bây giờ lờ đờ, xanh sậm, bốc mùi tanh
ngay ngáy. Cỏ cây hai bên bờ nhàu nát. Những mảnh vườn trái cây xanh
ngát, trùng điệp, cây trái trĩu cành với những trái sầu riêng, măng
cụt, dâu da, bòn bon và những trái chôm chôm tróc ngọt lịm còn đâu.
Tôi tiếc ngẩn ngơ một quá khứ đã quá vảng không ai còn thèm nhớ đến.
Người ta bây giờ muốn làm giàu bằng kinh doanh buôn bán. Ai cần chi
cái đất đai vườn ruộng nhà quê, nghèo nàn, lạc hậu kia. Nhà thơ họ
Lê nói nhỏ vào tai tôi về những xí nghiệp dọc theo hai bên đường,
những Hotel tráng lệ, những trung tâm thương mại, xí nghiệp, lò gốm,
Siêu Thị v.v… Bình Dương đổi thay nhiều quá đến nổi tôi không dám đi
đâu một mình vì sợ lạc đường. Thời gian không chờ đợi ai. Thời gian
cứ im lặng, lửng thửng trôi đi đã mấy chục năm. Ngay cả tôi bây giờ
cũng đã già rồi còn gì!
Biết bao giờ tôi trở lại Bình Dương để còn nhìn lại mảnh trăng xưa,
dòng sông cũ, còn được nhìn lại từng khuôn mặt, nụ cười, tiếng nói
bạn bè. Trong trái tim tôi không có khoảng cách của tình người.
Và bạn ơi! Tôi vẫn còn muốn tìm lại hương vị quê hương qua món bánh
bèo bì Mỹ Liên chợ Búng. Xin chờ tôi nhé Bình Dương yêu dấu!
Phong Thu
Viết cho những ngày cuối năm 2010 |